Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Luận văn: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.14 KB, 116 trang )

Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
Danh mục chữ viết tắt
KKTL

: Khó khăn tâm lý

ĐHSP

: Đại học sư phạm

ĐHH

: Đại học Huế

ĐH

: Đại học

PT

: Phổ thông



: Hoạt động

SV

: Sinh viên

HS



: Học sinh

SVSP

: Sinh viên sư phạm

GV

: Giảng viên

ĐTB

: Điểm trung bình

GT

: Giáo trình

TLTK

: Tài liệu tham khảo

TB

: Thứ bậc

TN

: Tự nhiên


XH

: Xã hội

Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

1


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống, mỗi con người muốn tồn tại và phát triển phải tham gia vào
các HĐ, bằng HĐ và thông qua HĐ nhân cách con người được hình thành và phát
triển. Tùy vào mục đích, nhiệm vụ và vị trí cùng hoàn cảnh mà mỗi cá nhân sẽ có
những thuận lợi và những khó khăn nhất định khi tham gia vào HĐ. Vì vậy đòi hỏi
mỗi cá nhân phải có những nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua khó khăn để HĐ
diễn ra được suôn sẻ và đạt được mục đích đề ra. Do đó, việc tìm hiểu những khó
khăn và đề xuất biện pháp nhằm cải thiện tình hình là điều hết sức cần thiết.
Đối với con người thì học tập là một trong những HĐ chính nhằm tiếp thu và
lĩnh hội kiến thức, tích lũy kinh nghiệm xã hội loài người để làm giàu vốn hiểu biết
và vận dụng vào thực tiễn. Đối với SV Đại học, học tập là một dạng hoạt động cơ bản
mà qua đó người SV“nắm vững kỹ năng chuyên môn và kỹ năng thực hành nghề, kỹ
năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo”[29], để trở
thành chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo. Do đó HĐ học tập cần sự quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu nhằm mục đích tạo cho SV nhiều điều kiện thuận lợi và giảm bớt những
khó khăn trong HĐ học tập.
Thực tế cho thấy, SV năm thứ nhất ở các trường ĐH nói chung và SV năm thứ
nhất trường Đại học Sư phạm nói riêng phần lớn là chuyển tiếp từ bậc THPT lên Đại

học, bỡ ngỡ và lạ lẫm với môi trường học tập mới, với nội dung, cách thức, phương
pháp dạy học ở Đại học. Ngoài ra hầu hết SV đều xuất thân từ những vùng miền,
hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế có sự khác nhau… Tất cả những khác biệt đó dẫn
đến việc SV gặp không ít khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập. Đứng trước
những KKTL đó, SV rất dễ chán nản, bỏ bê nhiệm vụ học tập và không đáp ứng được
các yêu cầu học tập. Vì vậy vấn đề đặt ra là phát hiện KKTL cụ thể và tìm biện pháp
tác động phù hợp, tháo gỡ KKTL trong HĐ học tập, đẩy nhanh quá trình thích ứng
với nhiệm vụ học tập của SV năm thứ nhất là việc làm cấp bách.
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế là một trong những trường Đại học
trọng điểm của khu vực Miền Trung – Tây Nguyên. Trường có nhiệm vụ đào tạo và
bồi dưỡng những cử nhân Sư phạm tương lai vừa có trình độ chuyên môn tốt vừa có
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

2


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
kỹ năng Sư phạm vững vàng để tham gia và đội ngũ giáo viên phục vụ sự nghiệp
trồng người. Với số lượng lớn SV tuyển sinh hàng năm, chất lượng đào tạo được ưu
tiên hàng đầu nên việc khắc phục những KKTL giúp SV năm thứ nhất đạt được hiệu
quả học tập cao có ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, cùng với mong muốn
sẽ có được những đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
hiện nay, chúng tôi chọn đề tài: “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu một số KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ nhất
trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, từ đó đề xuất những biện pháp nhằm khắc
phục những KKTL trong HĐ học tập của SV khi bắt đầu tiếp xúc với môi trường Đại
học.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ nhất trường
Đại học Sư phạm – Đại học Huế
3.2 Khách thể nghiên cứu: 261 khách thể là SV khối năm thứ nhất trường Đại học
Sư phạm, cụ thể như sau:
- Sinh viên khối TN: 134 người
- Sinh viên khối XH: 127 người
4. Giả thuyết khoa học
Đa số SV năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế đều gặp phải
KKTL trong HĐ học tập. Nếu đề xuất được các biện pháp tích cực, phù hợp tác động
hỗ trợ thì sẽ giúp SV năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế khắc phục
những KKTL đó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài như: khó khăn tâm lý, hoạt động học tập,
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất…
5.2 Điều tra, đánh giá thực trạng KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ nhất
trường ĐHSP – ĐHH và lý giải nguyên nhân của thực trạng đó.
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

3


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
5.3 Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục KKTL trong HĐ học tập của SV
năm thứ nhất trường ĐHSP - ĐHH
6. Giới hạn nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian cho phép, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Về đối tượng nghiên cứu: Những KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ nhất
- Về địa bàn nghiên cứu: Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
- Về thời gian: Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2015

- Về khách thể nghiên cứu: 261 SV năm thứ nhất
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Bao gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh… nhằm xây
dựng cơ sở lý luận về vấn đề KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ nhất, Trường
ĐHSP
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Gồm các phương pháp: điều tra bằng phiếu hỏi (anket), quan sát, phỏng vấn,
chuyên gia, nghiên cứu sản phẩm của hoạt động và nghiên cứu chân dung điển hình,
phương pháp thử nghiệm.
6.3 Nhóm các phương pháp thống kê toán học
Bao gồm các phương pháp tính tỷ lệ phần trăm, trung bình cộng, hệ số tương
quan,kiểm định giả thiết … nhằm đảm bảo độ tin cậy của các đánh giá trong đề tài.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế

Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

4


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC VỀ VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG

HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu tâm lý, vấn đề KKTL nói chung, KKTL trong HĐ
học tập nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý xem xét dưới nhiều góc độ,
nhiều khách thể khác nhau. Sau đây là vài nét sơ lược một số công trình nghiên cứu
về KKTL trong HĐ học tập trong và ngoài nước.
1.1.1 Ở nước ngoài
Đối với con người, học tập là phương thức để tiếp thu tri thức, kỹ năng nhằm
mục đích nhận biết, tác động, cải tạo thế giới hiện thực, phụcc vụ cho lợi ích của con
người. Lịch sử loài người đã chứng minh, chỉ thông qua con đường học tập, thì những
di sản văn hoá vật chất, tinh thần từ thế hệ trước mới được lưu truyền cho thế hệ sau
và cũng nhờ đó mà những giá trị này mới còn tồn tại. Tuy nhiên, học tập không phải
là một HĐ đơn giản. Trong quá trình biến tri thức của nhân loại thành vốn kinh
nghiệm riêng của cá nhân con người đã gặp không ít khó khăn, trong đó có những
khó khăn về mặt tâm lý.
Khi bàn về KKTL trong học tập, tác giả A.V.Pêtrốpxki hướng đến đối tượng là
KKTL của trẻ em khi đi vào lớp một. Ông chia những khó khăn này ra làm ba loại:
Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới.
Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè.
Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với HĐ mới. Lúc đầu trẻ được sự chuẩn
bị của gia đình, nhà trường, xã hội nên có tâm lý vui thích và sẵn sàng đi học. Về sau
trẻ giảm dần khát vọng và chán học.
Bên cạnh đó, tác giả đề cập những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh
hưởng của chúng đến đời sống của trẻ đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết khó
khăn cho trẻ.
Cũng đề cập đến vấn đề KKTL của trẻ em khi vào lớp một, nhà tâm lý học
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

5



Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
Mauricè Debesse trong công trình nghiên cứu của mình đã gọi lớp một là “trang sử
mới của cuộc đời đứa trẻ”. Đồng thời Mauricè Debesse cũng chỉ ra rằng, đứng trước
ngưỡng cửa lớp một trẻ em gặp rất nhiều KKTL. Chính những khó khăn này làm cản
trở tới sự thích ứng với HĐ học tập của trẻ, làm trẻ sợ học, không muốn đến trường vì
kết quả học tập không cao.
Bianka Zazzo, nhà tâm lý học và giáo dục học người Pháp, cùng với các cộng
sự của mình thuộc trung tâm nghiên cứu trẻ em của Đại học Paris 10 đã tiến hành
nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên cấp một của trẻ em. Tác giả đã chỉ ra
rằng, KKTL lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với HĐ học tập
của trẻ là “sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng
hoạt động chủ đạo. Mẫu giáo lấy HĐ vui chơi làm chủ đạo, vừa học vừa chơi, HĐ đa
dạng, tính tự do tùy hứng cá nhân nặng hơn tính chỉ đạo của giáo viên. Bước vào lớp
một, học tập là chủ đạo, học sinh phải học nghiêm chỉnh theo sự chỉ đạo của giáo
viên, theo nguyên tắc lớp học” [35].
Tóm lại, KKTL trong học tập là một hiện tượng tâm lý phức tạp nhưng được ít
các nhà tâm lý học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Mặc dù trong công trình nghiên
cứu của mình, các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện và nêu
ra một số KKTL, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những KKTL đó. Tuy nhiên đối
tượng mà các công trình nghiên cứu này hướng tới chủ yếu là những KKTL của trẻ
vào lớp một. Đồng thời họ cũng chưa nêu được bản chất của những KKTL đó.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề KKTL chưa được nhiều nhà Tâm lý học, Giáo dục học
quan tâm nghiên cứu. Một số tác giả tiêu biểu như : Trần Trọng Thủy, Nguyễn Khắc
Viện, Nguyễn Thị Nhất đã có một số bài viết đề cập đến vấn đề này.
Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta”, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã
nêu ra những KKTL mà học sinh lớp 1 gặp phải đó là:
- Trẻ phải giữ kỷ luật lớp học.

- Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo.
- Trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra, đánh
giá của bố mẹ,…[38]
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

6


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” đã phát hiện
ra nhiều KKTL mà trẻ lớp 1 phải vượt qua. Tác giả cho rằng “trong quá trình lớn lên
của trẻ em, có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đòi hỏi
trẻ phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách triệt để”. Đồng thời tác giả cũng
nêu ra một số KKTL cụ thể mà trẻ lớp một phải vượt qua:
- Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, HĐ tùy hứng ở mẫu
giáo và khép mình vào những kỷ luật nghiêm khắc của lớp học phổ thông.
- Trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với giáo viên.
- Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào học lớp một vì sự hân hoan, hồi hộp chờ đón những
điều hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ [26].
Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lý của trẻ khi vào lớp một”, tác giả Vũ
Ngọc Hà đã nêu ra một số trở ngại tâm lý mà khi vào học lớp 1 trẻ thường gặp phải,
đó là: Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới, khó khăn trong các mối
quan hệ, khó khăn khi phải đến trường [9].
Tác giả Nguyễn Xuân Thức trong bài viết “Các nguyên nhân dẫn đến KKTL
của học sinh đi học lớp 1” đã nêu ra các nguyên nhân cụ thể sau:
- Các nguyên nhân chủ quan: trẻ chưa hiểu rõ nội quy, trẻ được chuẩn bị quá kỹ
trước khi tới trường, trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học, do tính cách của
trẻ, do trẻ chưa đủ tuổi đến trường, do trẻ mắc một số bệnh bẩm sinh.
- Các nguyên nhân khách quan: nhóm nguyên nhân thuộc về gia đình, nhóm
nguyên nhân thuộc về nhà trường và nhóm nguyên nhân thuộc về xã hội.

Tác giả cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra
KKTL nhiều hơn cho học sinh lớp 1. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một số giải pháp sư
phạm để tháo gỡ những KKTL cho trẻ [34, tr.32].
Những năm gần đây có một số luận văn thạc sĩ đã quan tâm nghiên cứu về
KKTL trong HĐ học tập của HS – SV như:
- Năm 2001, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Nhân Ái với đề tài: “Tìm hiểu
những KKTL trong quá trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 trung học phổ
thông”.

Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

7


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
- Năm 2002, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Huyền với đề tài: “Thực trạng
KKTL trong quá trình giải bài tập thực hành thao tác kỹ thuật của SV trường CĐSP
Kỹ thuật Vinh”.
- Năm 2007, luận văn thạc sĩ của Lê Xuân Trường với đề tài: “Những KKTL
trong HĐ học tập của SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La”.
Tóm lại, KKTL trong HĐ học tập là một hiện tượng tâm lý phức tạp nhưng vẫn
còn ít được quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được
các nhà Tâm lý, Giáo dục trong và ngoài nước đề cập đến song còn rất ít hoặc chưa
làm rõ được bản chất KKTL, đặc biệt là KKTL trong HĐ học tập của SV năm thứ
nhất. Ngoài ra, khi nghiên cứu về vấn đề KKTL trong HĐ học tập, các công trình trên
chỉ tập trung nghiên cứu một cách chung chung, khái quát mà chưa đi sâu tìm hiểu
KKTL, biểu hiện một cách cụ thể trong từng khâu của HĐ học tập. Đó là lý do chúng
tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp của mình.
1.2. Hoạt động và hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
1.2.1. Hoạt động

a. Khái niệm
Để có thể tồn tại và phát triển đến những thành tựu rực rỡ như ngày nay con
người phải tiến hành các HĐ khác nhau. Có thể nói HĐ là phương thức tồn tại của
con người trong hiện thực khách quan.
Trong tâm lý học, hoạt động được hiểu là “một tổ hợp tác động vào đối tượng
nhằm đạt mục đích thoả mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả hoạt động là sự
cụ thể hoá nhu cầu của chủ thể” [22].
Như vậy, HĐ của con người chính là quá trình tác động đến đối tượng nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu của mình. Khi nhu cầu này được thỏa mãn sẽ xuất hiện
một nhu cầu mới và ở mức độ cao hơn. Khi ấy con người lại phải tiến hành các HĐ
mới khác. Cứ như thế con người không chỉ tồn tại mà ngày càng phát triển đến những
trình độ cao hơn. Quá trình con người tác động đến thế giới khách quan (HĐ) bao
gồm hai quá trình diễn ra thống nhất với nhau. Đó là: quá trình chủ thể hoá đối tượng
và quá trình khách thể hoá chủ thể. Về bản chất, HĐ của con người khác hoàn toàn so
với hoạt động của loài vật thể hiện ở bốn đặc điểm cơ bản sau: tính đối tượng, tính
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

8


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
chủ thể, tính gián tiếp và tính mục đích.
b. Đặc điểm của hoạt động
Quá trình con người tác động đến thế giới khách quan bao gồm hai quá trình
diễn ra thống nhất với nhau. Đó là: quá trình chủ thể hóa đối tượng và quá trình
khách thể hóa chủ thể. Về bản chất, HĐ của con người khác hoàn toàn so với HĐ của
loài vật, thể hiện ở bốn đặc điểm cơ bản sau: Tính đối tượng, tính chủ thể, tính gián
tiếp và tính mục đích.
- HĐ bao giờ cũng là “HĐ có đối tượng”: đối tượng của HĐ là cái con người cần
làm ra, cần chiếm lĩnh. Đó là động cơ. Động cơ luôn thúc đẩy con người HĐ nhằm

tác động vào khách thể để thay đổi nó, biến nó thành sản phẩm, hoặc tiếp nhận nó
chuyển vào đầu óc mình, tạo nên một cấu tạo tâm lý mới, một năng lực mới.
- HĐ bao giờ cũng có chủ thể. HĐ do chủ thể thực hiện, chủ thể của HĐ có thể
là một hoặc nhiều người.
- HĐ vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong HĐ, con người gián tiếp tác
động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý ở trong đầu, gián tiếp sử dụng công cụ lao
động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ [37, tr 32].
- HĐ bao giờ cũng có tính mục đích: Mục đích của HĐ là làm biến đổi thế giới
(khách thể) và biến đổi bản thân chủ thể. Tính mục đích gắn liền với bản thân chủ
thể. Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng. Tính mục đích bị chế ước bởi nội
dung xã hội.
1.2.2. Hoạt động học tập
a. Khái niệm hoạt động học tập
Đối với con người thì học tập là một trong những hình thức HĐ chính, không
thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội những thành tựu, tri thức, kinh nghiệm xã hội – lịch
sử của xã hội loai người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Trong thực tiễn, con
người có nhiều cách học khác nhau để tiếp thu kinh nghiệm xã hội, nhưng thông
thường học tập được thường có hai dạng cơ bản: học ngẫu nhiên và học có mục đích.
- Học ngẫu nhiên: Đây là dạng học được thực hiện một cách không chủ định.
Kết quả của hoạt động này chỉ thu được những tri thức rời rạc, không hệ thống, ngẫu
nhiên, tiền khoa học. Mục đích của cách học này là nhằm ứng phó với những tình
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

9


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
huống, những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Tuy nhiên để tồn tại và phát triển cũng
như tác động, cải tạo thế giới hiện thực con người không chỉ dừng lại ở những tri thức
kinh nghiệm mà đòi hỏi cần có một hệ thống tri thức khoa học, có tính khái quát cao

để áp dụng vào mọi tình huống trong thực tiễn. Để đạt được mục đích này con người
cần tiến hành HĐ học có hiệu quả hơn đó là học có mục đích.
- Học có mục đích: là một dạng HĐ đặc thù của con người. HĐ học chỉ có thể
thực hiện được khi con người phát triển ở một trình độ nhất định, có khả năng điều
chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã được ý thức. Khả năng này
thường bắt đầu hình thành vào lúc 5-6 tuổi.Và khi HĐ học được tiến hành đúng nghĩa
của nó thì mới có thể hình thành hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, cấu trúc tương
ứng của hoạt động tâm lý giúp phát triển toàn diện nhân cách cho con người [36,
tr.93].
Khi bàn về vấn đề học tập có rất nhiều quan điểm khác nhau tùy vào cách tiếp
cận của các nhà nghiên cứu.
I.B.Intenxơn cho rằng, học tập là loại học tập đặc biệt của con người nhằm mục
đích nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định của hành
vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn [33,tr 89].
A.N.Lêônchiev, P.Iaganpêrin và N.Phatalưđina lại coi học tập xuất phát từ mục
đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lý bên ngoài
và bên trong của HĐ [33, tr 89].
V.V.Đavưdov quan niệm học tập dựa trên cơ sở nâng cao trình độ tư duy lý
luận. A.V.Petrôvxki lại có một quan niệm khác khi cho rằng HĐ học tập là vấn đề
phẩm chất tư duy và kết hợp các loại HĐ trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ
giảng dạy [33, tr 89]..
N.V.Cudomina lại coi HĐ học tập là loại học tập nhận thức cơ bản của sinh
viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình này
việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành
được HĐ nghề nghiệp tương lai. [33, tr.89]
Các quan niệm trên về HĐ học tập mặc dù chưa có sự thống nhất giữa các tác
giả song các tác giả khác nhau ít nhiều đều xem xét HĐ học tập có liên quan đến
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

10



Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
nhận thức hoặc tư duy và sâu hơn nữa là liên quan đến yếu tố nghề nghiệp. Do cách
tiếp cận khác nhau nên HĐ học tập cũng được các tác giả nhấn mạnh ở những khía
cạnh khác nhau nhưng họ vẫn gặp nhau ở một điểm chung đó là xem HĐ học tập là
HĐ có mục đích tự giác, có ý thức về động cơ và trong đó diễn ra quá trình nhận
thức, đặc biệt là quá trình tư duy.
Về phía các tác giả Việt Nam, như tác giả Lê Văn Hồng và Lê Ngọc Lan, khi
nghiên cứu về HĐ học tập đã có quan niệm như sau: HĐ học tập là HĐ đặc thù của
con người được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội những tri thức, kỹ xảo
mới, những phương thức hành vi và những dạng HĐ nhất định [15, tr.106].
Tóm lại, HĐ học tập có thể hiểu khái quát như sau: hoạt động học tập là một
hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội, tiếp thu những tri thức, kinh
nghiệm của xã hoi loài người được kết tinh trong nền văn hoá xã hội, qua đó giúp
chủ thể phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Trong HĐ nói chung, HĐ học tập nói riêng thường diễn ra hai quá trình: quá
trình nội tâm hoá và quá trình ngoại tâm hoá.
- Quá trình thứ nhất (quá trình nội tâm hoá) là quá trình cá nhân bằng HĐ tích
cực của mình biến những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của loài người thành vốn kinh
nghiệm của chính bản thân. Quá trình này diễn ra thông qua HĐ của các giác quan,
diễn ra trong đầu bằng các quá trình tâm lý khác nhau như cảm giác, tri giác (quá
trình nhận thức cảm tính), tư duy, tưởng tượng…(quá trình nhận thức lý tính). Qua
trình nội tâm hoá sẽ đạt được kết quả khi cá nhân người học có ý thức tự giác điều
khiển, điều chỉnh được HĐ của mình.
- Quá trình thứ hai (quá trình ngoại tâm hoá) là quá trình cá nhân sử dụng những
tri thức tiếp thu được vận dụng vào HĐ thực tiễn, làm biến đổi theo hướng tích cực
các sự vật hiện tượng phục vụ cho con người.
Hai quá trình này có mối quan hệ qua lại gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá
trình HĐ học tập.

b. Bản chất của hoạt động học tập
Được thể hiện ở những điểm sau:
Đối tượng của HĐ học tập là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

11


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
mới tương ứng. HĐ học tập là loại học tập mà ở đó bằng sự tự giác và có mục đích
của mình, chủ thể biến những tri thức chung của nhân loại thành cái của riêng mình.
Trong quá trình ấy, người học không sáng tạo ra tri thức mà chỉ tái tạo lại những tri
thức đã có. Và việc tái tạo tri thức này được diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của
người dạy. Vì vậy HĐ học tập sẽ không có kết quả nếu người học chỉ thụ động tiếp
nhận các tác động sư phạm. Do đó để việc học tập hiệu quả, người học phải là chủ thể
tích cực, tự giác và có năng lực trí tuệ để lĩnh hội những tri thức mà giáo viên truyền
thụ.
Thông thường các HĐ khác hướng vào làm thay đổi khách thể để cải tạo và
biến đổi nó phục vụ cho con người thì HĐ học tập chủ yếu tác động, làm biến đổi
chính bản thân chủ thể thì HĐ học là HĐ hướng vào làm thay đổi tương đối lâu bền
chính bản thân chủ thể. HĐ học không làm biến đổi nội dung của tri thức khi nó được
lĩnh hội mà chỉ làm thay đổi chính bản thân chủ thể HĐ học. Đây chính là điểm độc
đáo, khác biệt giữa HĐ học tập với các loại HĐ khác. Có thể HĐ học cũng làm thay
đổi khách thể ở một mức độ nhất định nhưng mục đích mà HĐ học tập hướng vào là
làm thay đổi nhận thức của người học và hướng vào tiếp thu cả những tri thức của
chính bản thân HĐ, có nghĩa là hướng vào học cách tiến hành HĐ học tập, học
phương pháp học tập.
HĐ học tập luôn được tiến hành một cách có định hướng, được thúc đẩy và
điều khiển một cách có ý thức, tự giác cao.
HĐ học chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một trình độ nhất

định, có khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã được ý
thức.
1.3. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên
1.3.1. Khái niệm sinh viên và sinh viên sư phạm
a. Sinh viên
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng Latinh “students”, có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm và khai thác tri thức [33, tr.44].
Sinh viên là người làm việc nhưng nói chung vẫn chưa là một lao động độc lập
trong xã hội. Họ chỉ là những người đang trong quá trình tích lũy phẩm chất, tri thức,
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

12


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
kỹ năng..vv về nghề để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong tương lai. Để có thể thực
hiện được điều này thì bản thân người SV phải tự nỗ lực, khắc phục khó khăn học
tập, rèn luyện dưới sự hướng dẫn của GV.
b. Sinh viên Sư phạm
Sinh viên Sư phạm là những sinh viên đang theo học tại các trường Cao đẳng
và Đại học Sư phạm. Họ tiến hành hoạt động học tập, rèn luyện về chuyên môn
nghiệp vụ nhằm mục đích trở thành người giáo viên trong tương lai.
Ngoài đặc điểm chung của SV thì SVSP cần phải có những năng lực và phẩm
chất riêng đặc trưng đòi hỏi cần thiết phải có của nghề dạy học. Cụ thể như:
 Xu hướng sư phạm: biểu hiện ở nhu cầu dạy học, mong muốn được làm giáo
viên, nhận thức đầy đủ ý nghĩa của nghề đối với bản thân và xã hội.
 Hứng thú với nghề dạy học: biểu hiện ở sự yêu thích nghề dạy học và phát
triển sự yêu thích này thành lòng yêu nghề sâu sắc.
 Niềm tin về nghề dạy học: biểu hiện ở việc có lòng tin mạnh mẽ vào những giá
trị tốt đẹp của nghề dạy học, vào sức mạnh tác động đến nhân cách con người của

nghề.
 Thế giới quan khoa học: biểu hiện ở việc xây dựng được cho mình thế giới
quan khoa học biện chứng về tự nhiên, xã hội và con người.
 Lý tưởng nghề cao đẹp: đó là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Biểu hiện ở niềm say
mê học tập, rèn luyện chuyên môn, tác phong sư phạm, thể hiện tinh thần trách
nhiệm, lối sống tích cực…vv
Nghề dạy học có đối tượng trực tiếp là con người đang cần sự tác động của quá
trình giáo dục nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nghề dạy học là
nghề không cho phép có “phế phẩm”. Do trách nhiệm cao cả của nghề mà người giáo
viên không chỉ cần có chuyên môn vững vàng mà còn cần những phẩm chất đạo đức,
tình cảm sâu sắc. Từ đó yêu cầu mỗi SVSP trong những năm tháng ở trường đại hoc
phải hình thành, phát triển tình cảm nghề nghiệp bên cạnh chuyên môn nghiệp vụ
nhằm hoàn thiện nhân cách người giáo viên [3].
1.3.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh viên nói chung
Theo các nhà tâm lý học, sinh viên, những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến 25,
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

13


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
đã đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người cả về thể chất lẫn tinh thần.
Chính sự hoàn thiện này cho phép SV có thể chọn lựa và thực hiện những gì có ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ một cách độc lập như chọn nghề sau khi
kết thúc học tập ở trường phổ thông, xác định lý tưởng…vv. B.G.Ananhiev đã nhận
định, SV có khả năng lập kế hoạch và thực hiện hoạt động một cách độc lập, có sự
biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp,
xác định con đường sống tích cực, nắm vững nghề nghiệp tương lai, bắt đầu thể
nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống [33, tr.61].
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi SV là sự tự ý thức phát triển

mạnh mẽ. Tự ý thức bao gồm: khả năng tự đánh giá, tự kiểm tra, tự nhận thức về bản
thân. SV có khả năng đánh giá, nhìn nhận một cách tương đối toàn diện về bản thân
từ khả năng nhận thức, xác định tư tưởng, tình cảm, động cơ, hành vi cũng như vị trí
của bản thân trong nhóm, trong tập thể. Chính nhờ sự tự ý thức đó SV mới có thể tự
điều chỉnh hành vi, cử chỉ, thái độ của mình.
Thành phần quan trọng nhất để tạo nên sự phát triển tự ý thức của SV là năng
lực tự đánh giá, thể hiện thái độ đối với bản thân. Tự đánh giá sẽ hình thành nên lòng
tự trọng của cá nhân, bảo đảm cho tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong
đời sống cá nhân cũng như trong mối quan hệ liên nhân cách.
Tự đánh giá phản ánh mức độ thoả mãn của chủ thể về trình độ phát triển các
thuộc tính nhân cách của cá nhân. Vì thế sự tự đánh giá của cá nhân có ảnh hưởng rất
lớn tới hiệu quả của HĐ, đặc biệt là tự đánh giá về trí tuệ. Nó có tác dụng rất lớn đối
với sự hình thành và phát triển các phẩm chất trí tuệ trong quá trình học tập ở ĐH.
Nếu SV tự đánh giá đặc điểm trí tuệ ở mức thấp sẽ gây ra những khó khăn trong quá
trình học tập, ngược lại những đặc điểm trí tuệ được đánh giá đúng mức cho đến cao
là cơ sở tốt cho HĐ học tập ở ĐH.
Nhưng một điều cần lưu ý trong nhân cách của SV trong giai đoạn này chính là
sự tự đánh giá còn mâu thuẫn và thậm chí thiếu thực tế. Nó thể hiện qua việc so sánh
“cái tôi lý tưởng” với “cái tôi thực tế” trong khi “cái tôi lý tưởng” la một hình mẫu
mẫu đã được đóng khung, không được thay đổi cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ
thể. Chính từ sự so sánh thiếu thực tế và cứng nhắc này đã làm SV, đặc biệt là SV
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

14


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
năm thứ nhất thiếu lòng tin ở bản thân, làm ảnh hưởng đến các HĐ của bản thân,
trong đó có HĐ học tập.
Điểm đặc biệt khác trong sự phát triển tâm lý của SV chính là sự phát triển của

tình cảm nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm, tính độc lập trong các hoạt động ở mức độ
cao. SV dần có lập trường của bản thân một cách vững vàng, có cách giải quyết vấn
đề chính xác, đúng đắn và tự chủ hơn. Sự trưởng thành về mặt xã hội, tâm thế sẵn
sang cho việc lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và kiến thức nghề nghiệp một cách độc lập
được củng cố.
Bước vào tuổi SV, khi mà việc xác định nghề nghiệp đã rõ ràng, người thanh
niên – sinh viên bắt đầu với các hình thức HĐ mới. Trong giai đoạn này, người SV
phải đối mặt với những khó khăn nhất định cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự thay đổi
của môi trường, sự thay đổi của phương thức HĐ…vv đòi hỏi người SV phải giải
quyết để có thể học tập tốt nhằm hình thành cơ sở vững chắc cho nghề nghiệp tương
lai. Việc giải quyết hiệu quả những khó khăn giúp cho người SV có niềm tin đúng
đắn cho việc chọn nghề, là cơ sở củng cố nghề nghiệp tương lai cũng như tạo điều
kiện cho sự phát triển nhân cách được thuận lợi.
Tuổi SV là thời gian quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách, nhân cách
nghề nghiệp. Đây là lứa tuổi mà các chức năng tâm lý, đặc biệt là sự phát triển các
năng lực trí tuệ diễn ra hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để phát triển nhân cách toàn diện,
điều quan trọng là người SV phải hiểu được tính không lặp lại trong tính cách của
mình. Với lứa tuổi SV, B.G.Ananhiev đã viết: “Lứa tuổi SV là thời kỳ phát triển tích
cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính
cách. Đặc biệt là vai trò xã hội của người lớn” [33, tr.61]. Sự phát triển nhân cách của
SV diễn ra trong suốt quá trình học tập ở Đại học – Cao đẳng diễn ra với mục đích trở
thành một người chuyên gia có trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp trong tương
lai. Vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp…vv được hoàn thiện
và dần dần nghề nghiệp hoá.
Trong sự phát triển nhân cách của SV, cho dù đã dần đi vào ổn định nhưng nó
vẫn là một quá trình phức tạp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn cần giải quyết đặc biệt trong
quá trình chuyển hoá những tri thức về nghề từ bên ngoài thành tri thức, kỹ năng về
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang
15



Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
nghề của bản thân. Trong quá trình chuyển hoá những cái bên ngoài thành cái bên
trong, yếu tố quyết định cho sự phát triển này chính là bản thân của chủ thể, của
người SV. Chỉ khi nào bản thân người SV nhận thức được những khó khăn và nỗ lực
tìm cách khắc phục những khó khăn đó thì mới có thể đạt được hiệu quả mong muốn
trong các HĐ của mình và ngày càng hoàn thiện nhân cách người SV.
Tóm lại, tuổi SV là giai đoạn phát triển đạt đến độ trưởng thành cả về sinh lý
và tâm lý. Tuy nhiên, sự phát triển nhân cách của SV không phải là một con đường
bằng phẳng, hoàn toàn thuận lợi mà gặp phải nhiều khó khăn vướng mắc, đòi hỏi sự
nỗ lực khắc phục của chính bản thân người SV. Chính sự tích cực, tự giác của SV sẽ
là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân
cách của người chuyên gia trong tương lai.
1.3.3. Đặc điểm tâm lý sinh viên năm thứ nhất
SV năm thứ nhất, họ là những người vừa rời khỏi ghế nhà trường PT bước vào
ngưỡng cửa của trường ĐH. Thông thường họ có độ tuổi 17, 18 với đầy sức trẻ, hoài
bão và có ý chí vươn lên. Nhân cách của họ đã và đang phát triển mạnh, họ đã có ý
thức về những hành vi của mình.
SV năm thứ nhất chưa có được phẩm chất nghề nghiệp chuyên biệt thuộc một
số ngành nhất định. Họ là con em thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, ở nông thôn
và thành thị. Do đó, các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh hưởng
của giáo dục gia đình, trường PT, các phong tục tập quán của địa phương và những
điều kiện sống, sinh hoạt nói chung. Vào trường ĐH, họ đã có một số phẩm chất
tương đối ổn định, đại biểu cho lối sống của tầng lớp, của giai cấp và của địa phương
mình. Do vậy, trong tập thể SV năm thứ nhất thường có va chạm do tính độc đáo của
nhân cách con người trẻ. Trong quá trình làm quen với cuộc sống tập thể đầu tiên ở
trường ĐH, SV thường có những hành vi bắt chước lẫn nhau thể hiện bước đầu đồng
nhất xã hội. Ở đây, SV chưa có khái niệm phân hóa đối với các vai trò của mình.
Việc nắm được đặc điểm nhân cách của SV năm thứ nhất có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định nội dung, hình thức và phương pháp tác động đến họ theo hướng hình

thành nhân cách người chuyên gia tương lai trong trường ĐH. Hình thành nhân cách
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

16


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
người chuyên gia không thể nằm ngoài quy luật chung là: nhân cách được bộc lộ,
hình thành trong HĐ. Trong đó, HĐ học tập đóng vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng
quyết định đến nhận thức nghề nghiệp và hoàn thiện nhân cách của SV.
1.4. Khó khăn tâm lý trong học động học tập
1.4.1. Khái niệm khó khăn tâm lý
HĐ học tập là HĐ chủ đạo của SV. Nó là một HĐ nhận thức, lao động trí óc
căng thẳng có cường độ cao. Đây là một HĐ đặc thù giúp con người hình thành và
phát triển tâm lý, nhân cách. Do vậy, trong quá trình tham gia vào HĐ học tập, khi
gặp những khó khăn, đặc biệt là những khó khăn về mặt tâm lý, đòi hỏi người học
phải tích cực, chủ động huy động tối đa những phẩm chất và năng lực của cá nhân để
khắc phục nhằm đạt hiệu quả cao trong HĐ học tập của mình.
Đối với SV năm thứ nhất nói chung, SVSP năm thứ nhất nói riêng, để phát
triển, xây dựng và hoàn thiện nhân cách, hình thành bước đầu kinh nghiệm về tương
lai, họ phải tiến hành hoạt động học tập với sự làm quen, thích nghi với một môi
trường học tập mới hoàn toàn so với ở bậc PT. Trong quá trình này sẽ nảy sinh ra
nhiều KKTL, gây cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của SV năm thứ nhất,
dẫn đến hiệu quả HĐ học tập không cao.
KKTL trong HĐ học tập là một hiện tượng tâm lý phức tạp, nảy sinh trong quá
trình học tập của con người nói chung, của SVSP năm thứ nhất nói riêng.
Bàn về KKTL trong HĐ học tập, người nghiên cứu cho rằng:
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là những nét tâm lý cá nhân, nảy
sinh, tồn tại trong hoạt động học tập của người sinh viên, gây cản trở, ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động học tập của chính người sinh viên

đó.
Đặc trưng của HĐ học tập ở bậc Cao đẳng – Đại học so với bậc PT được xác
định bởi sự khác biệt trong phương pháp học tập, cách thức tổ chức học tập mà trong
đó vai trò của người SV là tích cực chủ động dưới sự hướng dẫn của GV. Và như đã
trình bày ở các phần trên, chúng ta thấy rằng tính độc lập cao trong học tập là một
trong những đặc điểm của HĐ học tập của SV. Chính vì thế, khi gặp những KKTL
trong HĐ học tập của mình, hầu như người SV cũng tự mình tìm cách khắc phục.
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

17


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
Việc khắc phục những KKTL này có lúc là sự ngẫu nhiên, là việc rút kinh nghiệm
sau những lần thất bại trong học tập ở trường Sư phạm. Điều này cũng làm mất
không ít thời gian trong quá trình học tập. Nhưng cũng có khi người SV không ý thức
được những KKTL mà mình gặp phải để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm cải thiện
HĐ học tập của mình. Đặc biệt đối với SV năm thứ nhất, phần lớn mới kết thúc bậc
PT. Họ bước vào ĐH với nhiều bỡ ngỡ, lạ lẫm. Họ đồng thời vừa làm quen với cuộc
sống mới, trường mới, bạn mới, những môn học mới, cách thức tổ chức học tập mới,
phương pháp giảng dạy mới. Những vấn đề này, khi học ở PT, ít HS nào quan tâm
hoặc được quan tâm nhắc nhở để chuẩn bị tâm thế. Do đó ít nhiều, hầu hết các bạn
SV năm nhất đều gặp phải cảm giác hẫng hụt, lo lắng. Trong quá trình học, bên cạnh
những SV có tính thích ứng cao, dần làm quen với môi trường mới, hoạt động học tập
đi vào ổn định thì còn không ít SV gặp nhiều khó khăn trong việc tìm cách giải quyết
những vấn đề này một cách đúng đắn khoa học. Thực tế cho thấy, SV năm thứ nhất
thường lấy sự chăm chỉ, cần cù của mình để mong đổi lấy một kết quả học tập cao.
Chính vì thế, đôi khi ngay cả ở những SV khá giỏi vẫn xảy ra việc chưa có phương
pháp học tập khoa học. Họ thường lấy việc tập trung nghe giảng trên lớp, ghi chép
cẩn thận, chăm chỉ tìm những tài liệu có liên quan theo sự hướng dẫn của GV, làm

bài tập theo mẫu, học thuộc lòng để thay thế cho việc học tập khoa học, có hệ thống
và nắm bản chất vấn đề, một điều mà theo người nghiên cứu là quan trọng chủ yếu
của học tập ĐH.
1.4.2. Các loại khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
Các loại KKTL trong HĐ học tập của SV được thể hiện trong các khâu của HĐ
học tập là:
- Chuẩn bị bài trước khi lên lớp: Việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp là yếu tố
cơ bản, có vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của SV.
HĐ này giúp SV hiểu sơ bộ khái quát nội dung của bài giảng và có tâm thế sẵn sàng
cho tiết học mới, Nhiều SV bước vào năm học thứ nhất chưa biết cách chuẩn bị đầy
đủ các tài liệu cần thiết, chưa xác định được mối quan hệ giữa kiến thức cũ với chủ đề

Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

18


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
bài học mới, kiến thức trọng tâm của bài mới, xác định kiến thức chưa rõ hoặc khó
hiểu của bài mới. Điều này ảnh hưởng tới việc tiếp thu bài học trên lớp.
- Ghi chép, tiếp thu bài giảng: Nghe, ghi chép và tiếp thu bài giảng có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với SV. Nó không chỉ giúp SV tiếp thu những thông tin cơ
bản, hệ thống, khái quát và chọn lọc công phu mà còn tiếp thu những thông tin mới
nhất làm cơ sở khoa học định hướng cho tự học, tự nghiên cứu trong quá trình học tập
và HĐ nghề nghiệp sau khi ra trường. Trong thực tế, nhiều SV mới vào học ở trường
ĐH đã quen với việc nghe giảng và ghi bài ở phổ thông nên có quan điểm chưa đúng
về nghe và ghi bài giảng, coi công việc này đơn giản, dễ dàng, không tốn công sức và
trí tuệc. Retxke.R cho rằng: “Sẽ rất sai lầm nếu như nghĩ rằng trong giờ giảng chỉ có
thầy giáo cần phải HĐ. Trái lại, trong giờ nghe giảng, học sinh phải đồng thời tiến
hành ba công việc rất căng thẳng: Chăm chú nghe, suy nghĩ và ghi chép”[30, tr 54].

- Tự học và sắp xếp thời gian học tập: Ở ĐH, việc phân phối và sắp xếp thời
gian học tập của SV là một trong những yếu tố hết sức quan trọng. Thời gian học tập
của SV không chỉ là những giờ học trên giảng đường, ở phòng học chuyên dùng và
những giờ học theo nội dung, chương trình đã quy định của nhà trường mà còn là thời
gian tự học và tự nghiên cứu. Tỷ lệ thời gian học tập được bố trí một cách khoa học,
đảm bảo cho SV có đầy đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Trên thực tế, ở
môi trường ĐH diễn ra nhiều HĐ và nhiều mối quan hệ khiến nhiều em SV không
còn thời gian cho việc học nữa. Vì vậy, SV biết phân phối và sắp xếp thời gian học
tập phù hợp, biết sử dụng tối đa quỹ thời gian là yếu tố cơ bản đảm bảo cho phép họ
đạt hiệu quả học tập cao.
- Làm việc độc lập với GT và TLTK: Trong quá trình học tập, việc SV đọc sách
và tài liệu tham khảo nhằm tìm hiểu lịch sử vấn đề học tập, xem xét những người đi
trước đã giải quyết nó ở mức độ nào, bằng phương pháp nào, những vấn đề học tập
nào cần tiếp tục giải quyết và biết được xu hướng phát triển của nó như thế nào. Bước
vào môi trường ĐH, với yêu cầu cao về tự học, tự nghiên cứu thì việc làm việc độc
lập với GT và TLTK cũng gây ra nhiều KKTL cho SV năm thứ nhất.
- Chuẩn bị và tiến hành xêmina: Xêmina là hình thức học tập mà dưới sự tổ
chức và điều khiển của GV, SV tiến hành trao đổi, tranh luận và trình bày một số vấn
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

19


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
đề về nội dung học được kết cấu theo chủ đề khoa học nhất định, qua đó củng cố, mở
rộng và nâng cao kiến thức. Hình thức học tập này giúp SV am hiểu sâu rộng nội
dung học tập, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện phong cách học tập độc lập, tích
cực, chủ động. Mặt khác, xêmina là điều kiện thuận lợi để SV xây dựng quan điểm
khoa học của mình và biết cách bảo vệ nó một cách khoa học trước tập thể.
Xêmina là hình thức dạy học đặc trưng ở ĐH. So với học tập ở PT thì ở ĐH việc

chuẩn bị và tiến hành xêmina là mới mẻ đối với SV những năm đầu. Đây là hình thức
học tập mà SV những năm đầu chưa quen và gặp không ít khó khăn.
- Ôn tập, hệ thống hóa tri thức: Ôn tập là việc quan trọng và hết sức cần thiết
giúp SV củng cố kiến thức, mở rộng kiến thức đã học, biết liên hệ lý thuyết vào thực
tiễn, qua đó hiểu sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hệ thống kiến thức đã tiếp thu được
trong quá trình học tập. Việc ôn tập và hệ thống hóa tri thức là nền tảng hình thành kỹ
năng nghề nghiệp và chuyên môn của SV. Có thể nói, ôn tập là một khâu quan trọng
đối với quá trình tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV. Vì vậy, SV phải
biết huy động nhiều nguồn tài liệu khác nhau nhằm tìm kiếm, củng cố, mở rộng và
nâng cao kiến thức; soạn đề cương ôn tập đúng quy định; có phương pháp hệ thống
hóa kiến thức;…Thực tế ở các trường ĐH, CĐ không ít SV chưa nắm vững và thực
hiện tốt công việc này, đặc biệt là SV năm thứ nhất.
- Kiểm tra, đánh giá: Kiểm tra đánh giá là một trong những khâu quan trọng
của HĐ học tập. Bất kỳ một HĐ nào của con người diễn ra đều có sự kiểm tra, đánh
giá. Đối với HĐ học tập của SV thì công việc kiểm tra, đánh giá có vai trò quan
trọng. Ở ĐH, việc kiểm tra được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục
đích đánh giá SV ở nhiều mặt (Ví dụ: thông qua bài Tiểu luận môn học, bài xêmina,
bài thi cuối kỳ…). Điều này đòi hỏi SV phải linh hoạt trong học tập mới nhằm đạt kết
quả cao. Trên thực tế, nhiều SV năm thứ nhất còn gặp khó khăn với hình thức kiểm
tra, đánh giá ở ĐH.
1.4.3. Biểu hiện khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
KKTL trong HĐ học tập được hiểu là những nét tâm lý cá nhân mang tính tiêu
cực nảy sinh, tồn tại trong HĐ học tập của chủ thể học tập, làm cho quá trình học tập
bị chệch hướng, bị cản trở, dẫn tới hiệu quả học tập không cao. Những KKTL này có
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

20


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học

thể được biểu hiện ở những dạng sau:
a. Biểu hiện ở mặt nhận thức
Nhận thức là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý con
người. Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng, từ đó bày tỏ thái
độ tình cảm và có hành vi tương ứng.
Học tập là một HĐ khó khăn, phức tạp, do đó, trong quá trình học tập không
phải lúc nào SV cũng có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó. Chính những nhận thức
chưa đúng, chưa phù hợp này là những KKTL gây nên những sai lầm trong HĐ học
tập của cá nhân. Về những KKTL biểu hiện ở dạng nhận thức chúng ta có thể chia
làm hai nhóm: nhận thức về bản thân (chủ thể), là người tiến hành hoạt động học tập
và nhận thức về đối tượng học tập.
- Nhận thức về bản thân: Ở đây người nghiên cứu xin nhấn mạnh khía cạnh
nhận thức về động cơ học tập trong quá trình nhận thức về bản thân của SV trong HĐ
học tập.
Động cơ trong tâm lý học, theo nghĩa chung nhất là cái thúc đẩy và quy định
chiều hướng HĐ nhằm đạt mục đích nào đó, là những gì thôi thúc con người có
những ứng xử nhất định [22]. Mặt khác, theo A.N.Leonchiev và B.Ph.Lomov thì
“Lĩnh vực động cơ của nhân cách có liên quan chặt chẽ đến những nhu cầu, chế định
hành vi con người một cách khách quan và có quy luật. Động cơ là sự biểu hiện chủ
quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội. Ngược lại, nhu cầu là
cơ sở của động cơ. Trên thực tế động cơ và nhu cầu gắn bó mật thiết với nhau đến
mức thường không thể phân tách chúng ra được.” [21, tr.478 - 482].
Do đó, việc xác định cho được động cơ học tập cũng chính là xác định được
nhu cầu học tập của bản thân SV. Nhu cầu học tập là thành tố quan trọng của động cơ
HĐ, là nguồn gốc tính tích cực học tập, biểu hiện qua tính tự giác, thái độ nghiêm túc,
luôn vượt lên mọi khó khăn để giải quyết các nhiệm vụ học tập, qua đó nâng cao hiệu
quả học tập.
Trên cơ sở mối quan hệ giữa động cơ học tập – nhu cầu học tập như phân tích
trên, thì việc không xác định được động cơ học tập, tức động cơ học tập không rõ
ràng sẽ là một KKTL trong HĐ học tập của SV.

Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

21


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
- Nhận thức về đối tượng học tập: nhận thức ở đây không có nghĩa là khả năng
nhận thức nội dung môn học của SV mà người nghiên cứu muốn nhấn mạnh đến sự
nhận thức của SV về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đối tượng học tập đối với sự
phát triển của bản thân chủ thể học tập. Như chúng ta đã biết, học tập của SV luôn
gắn liền với việc trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể ở tương lai, trở thành
một người HĐ nghề phục vụ cho nhu cầu xã hội và chính HĐ học tập ở ĐH sẽ giúp
họ đạt được mục tiêu này. Chính vì thế, việc nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của đối tượng học tập sẽ giúp SV tích cực học tập và ngược lại sẽ gây ra
việc SV thiếu tâm thế học tập, học đối phó, dẫn đến HĐ học tập kém hiệu quả.
b. Biểu hiện ở mặt thái độ
Đây là thái độ, tình cảm của SV đối với việc học tập. Có thể nói KKTL biểu
hiện ở dạng thái độ, tình cảm là việc xuất hiện những xúc cảm âm tính đối với HĐ
học tập như coi thường việc học tập, chán ghét, thờ ơ, lo lắng, sợ hãi, căng thẳng,
chán nản khi gặp những vấn đề nảy sinh trong học tập…vv. Khi có những thái độ,
tình cảm tiêu cực đối với hoạt động học tập thì việc học tập khó mà có hiệu quả cao
được. Ngược lại nếu SV nào có thái độ tích cực đối với việc học, cần cù, chăm chỉ,
biết tìm những biện pháp tạo ra hứng thú trong học tập..vv thì chắc chắn hiệu quả của
HĐ học tập sẽ được nâng lên.
c. Biểu hiện ở hành vi
Hành vi là “bộ mặt” đời sống tâm lý của con người. Đây là dạng KKTL biểu
hiện cụ thể, dễ nhận thấy nhất trong HĐ học tập. Những KKTL về mặt hành vi có thể
là kết quả của sự chi phối bởi nhận thức và thái độ tình cảm hoặc do những kỹ năng
học tập không đủ thuần thục để sử dụng trong quá trình học tập khiến cho HĐ học tập
không có hiệu quả cao.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung tìm hiểu KKTL trong
HĐ học tập của SV ở một dạng hành vi được biểu hiện cụ thể trong HĐ học tập là kỹ
năng học tập.
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những
tri thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho phù hợp với điều
kiện cho phép. Nói cách khác, kỹ năng là “tri thức trong hành động” [24, tr.125]. Do
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang
22


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
HĐ học tập của SV mang tính chất nghiên cứu, tự học dưới sự hướng dẫn của GV là
chủ yếu nên việc SV phải nắm được hệ thống kỹ năng học tập hiệu quả là điều rất cần
thiết. Việc không biết cách thực hiện các kỹ năng học tập, không thấy được sự cần
thiết phải có kỹ năng học tập hoặc vận dụng, sử dụng các kỹ năng học tập không
thuần thục sẽ là những KKTL rất lớn gây ảnh hưởng đến hiệu quả của HĐ học tập
của SV.
Tóm lại, KKTL trong HĐ học tập được biểu hiện thông qua ba dạng cơ bản của
đời sống tâm lý con người là: nhận thức, thái độ – tình cảm và hành vi. Ba mặt này có
mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, do đó, trong quá trình học tập, muốn tháo gỡ
KKTL cho SV thì cần chú ý quan tâm giải quyết cả ba dạng biểu hiện KKTL trên.
1.4.4. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất
a. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận thức
KKTL trong HĐ học tập của SVSP năm thứ nhất biểu hiện ở nhận thức cũng
xuất phát từ hai hướng: nhận thức về bản thân và nhận thức về đối tượng học tập.
Đối tượng học tập của SVSP khá đa dạng, là một hệ thống kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo bao gồm các phần như: các môn khoa học cơ bản, các môn khoa học chuyên
ngành, các môn nghiệp vụ Sư phạm, các môn hỗ trợ (tin học, ngoại ngữ), các môn thể
dục, giáo dục quốc phòng, các môn học tự chọn (nữ công, nhạc, hoạ…). Các bộ môn

này đều có những vị trí, vai trò và tầm quan trọng như nhau bởi sự đóng góp của nó
trong quá trình đào tạo nên một người giáo viên trong tương lai giỏi về chuyên môn
và nghiệp vụ cũng như hình thành nhân cách người giáo viên. Tuy nhiên, không phải
SV năm thứ nhất nào cũng nhận thức được tầm quan trọng, vị trí, vai trò của từng bộ
môn trong HĐ học tập. Chính sự hiểu biết mơ hồ, không rõ ràng về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của các bộ môn trong chương trình học là một KKTL có thể dẫn đến tình
trạng SV xem thường các bộ môn không thuộc chuyên ngành, học lệch, học đối phó,
từ đó dẫn đến hiệu quả HĐ học tập không cao.
Ngoài ra, việc thiếu sự hiểu biết về trường Sư phạm, về ngành nghề Sư phạm
cũng như thiếu sự hiểu biết về nhiệm vụ học tập và yêu cầu học tập của SVSP sẽ là
những KKTL biểu hiện ở mặt nhận thức của SV trường Sư phạm. Thực tế cho thấy,
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

23


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
khi chủ thể hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về đối tượng HĐ của mình sẽ giúp họ chuẩn bị
tâm thế cũng như các điều kiện để thực hiện HĐ đó. Ngược lại, khi thiếu những hiểu
biết cần thiết về đối tượng HĐ thì chủ thể sẽ tiến hành HĐ một cách đối phó, thiếu sự
tích cực và do đó khó đạt được hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, SV năm thứ nhất nói chung, SVSP năm thứ nhất nói riêng, về
mặt chủ quan, có thể gặp một KKTL khác là nhận thức động cơ học tập chưa rõ ràng.
Động cơ học tập của SVSP bao gồm những động cơ có ý nghĩa cá nhân và
những động cơ mang ý nghĩa xã hội như: động cơ nhận thức khoa học, động cơ nghề
nghiệp, động cơ xã hội, động cơ tự khẳng định mình và động cơ vụ lợi [33, tr.93-95].
Những động cơ đó được cụ thể hoá ở mục đích học tập mà SVSP cần phải đạt tới.
Theo A.K.Marcova, động cơ học tập là sự phản ánh đối tượng học tập vào đầu óc của
người học, thúc đẩy người đó thực hiện HĐ nhằm thoả mãn nhu cầu học tập. Chính
động cơ học tập đã chuyển hoá nhu cầu học tập, làm nảy sinh tính tích cực học tập.

Vì vậy, việc xác định động cơ học tập rõ ràng là tiền đề giúp cho người SVSP hình
thành nhu cầu học tập, làm nảy sinh tính tích cực học tập hướng vào việc hình thành,
phát triển nhân cách người giáo viên tương lai.
Ngược lại, nếu người SVSP không xác định được động cơ học tập của mình thì
không thể nảy sinh nhu cầu học tập trở thành người giáo viên. Từ đó, dẫn đến sự
thiếu tích cực trong HĐ học tập, hiệu quả HĐ học tập sẽ không cao.
Tóm lại, việc thiếu sự hiểu biết về đối tượng học tập, cụ thể là về nội dung,
chương trình, hoạt động của trường Sư phạm, cũng như nhận thức không rõ ràng
động cơ học tập của bản thân là những KKTL biểu hiện ở mặt nhận thức trong HĐ
học tập của SVSP.
b. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt thái độ
Trong quá trình học tập luôn có sự tham gia của các trạng thái tình cảm cũng
như thái độ của chủ thể học tập với HĐ học tập của mình. Đó là thái độ của chủ thể
học tập với HĐ học tập.
Thực tế cho thấy, SV năm thứ nhất nói chung, SVSP năm thứ nhất nói riêng,
phần lớn đều là HS vừa rời khỏi nhà trường PT, bước đầu làm quen với môi trường
học tập mới, học tập ở bậc ĐH. Vì thế đối với HĐ học tập ở trường ĐH còn nhiều xa
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

24


Luận văn Thạc Sỹ Tâm lý học
lạ đối với các em. Từ đó, ở các em có thể nảy sinh nhiều thái độ, tình cảm khác nhau
đối với HĐ học tập. Xét trên phương diện tích cực, ở các em có thể xuất hiện những
thái độ, tình cảm, xúc cảm dương tính đối với HĐ học tập ở một môi trường mới như:
tính tò mò đối với học tập, tính ham học hỏi, niềm khao khát, lòng quyết tâm học tập,
niềm vui, hứng thú học tập, tinh thần kiên trì vượt khó...vv. Ở trạng thái thái độ, tình
cảm này sẽ thúc đẩy SV học tập tích cực. Ngược lại, ở SV năm thứ nhất cũng có thể
xuất hiện những thái độ, tình cảm âm tính đối với HĐ học tập như coi thường việc

học tập, thờ ơ, lo lắng, sợ hãi, căng thẳng, chán nản khi gặp những vấn đề nảy sinh do
một môi trường học tập mới.
Bên cạnh đó, SVSP năm thứ nhất trong môi trường học tập mới ở ĐH, do sự
hạn chế của kinh nghiệm, của tuổi đời, nên khi tham gia vào một HĐ, các em có thể
có sự đánh giá chưa phù hợp về đối tượng cũng như bản thân khi tham gia HĐ đó.
Trên cơ sở đó, khi tham gia vào HĐ học tập, một số SV năm thứ nhất nếu đánh giá
quá cao về mình, đặc biệt khi các bạn SV có những thành tích học tập cao trong
những năm học PT, bị “che phủ” bởi những thành tích sáng chói đó có thể sẽ dẫn đến
sự sơ suất, chểnh mảng, chủ quan, xem thường chính HĐ học tập hoặc ngược lại các
em lại bị áp lực, căng thẳng khi ép buộc mình vào HĐ học tập với mục đích phải
được những thành tích như những ngày ở PT. Đối lập với sự đánh giá quá cao về bản
thân, SV năm thứ nhất lại tự đánh giá thấp về mình từ đó dẫn đến sự mặc cảm tự ti, lo
lắng, sợ mắc sai lầm, thiếu phấn đấu trong quá trình học tập làm ảnh hưởng đến tiến
trình và kết quả học tập.
Tóm lại, KKTL trong HĐ học tập của SVSP năm thứ nhất biểu hiện ở mặt thái
độ chính là những thái độ, tình cảm, xúc cảm âm tính của chủ thể học tập với HĐ học
tập. Những KKTL này sẽ làm giảm đi tính tích cực, chủ động, tự giác trong HĐ học
tập của SVSP năm thứ nhất từ đó dẫn đến hiệu quả học tập không cao.
c. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt hành vi
Mục tiêu chủ yếu của SVSP là trở thành người giáo viên trong tương lai. Điều
đó có nghĩa là họ phải đạt được những điều kiện sau:
Có lòng yêu nghề, tư cách đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu của nghề dạy học.
Có khả năng về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm.
Học viên thực hiện: Phan Huyền Trang

25


×