Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Đề tài: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng quản trị nhân sự trường Đại học Hồng Đức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.34 KB, 50 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống con người muốn tồn tại và phát triển phải tham gia
vào các hoạt động, bằng hoạt động và thông qua hoạt động nhân cách con
người được hình thành và phát triển. Tùy vào mục đích, nhiệm vụ, vị trí và
hoàn cảnh khác nhau mà mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải gặp
những khó khăn nhất định đòi hỏi cá nhân phải nỗ vượt qua để hoạt động
được diễn ra thuận lợi và đạt được mục đích đã xác định.
Cũng như trong cuộc sống khi con người thường gặp những khó khăn
trở ngại trong quá trình sống và hoạt động của mình, nếu con người có thể
giải quyết được khó khăn mà mình đang gặp phải thì con người có thể vượt
qua nó một cách dễ dàng, còn nếu con người không thể giải quyết được thì
nó sẽ trở thành một khó khăn tâm lý của bản thân con người.
Đối với sinh viên hoạt động học tập là một hoạt động chủ đạo chiếm
nhiều nhất thời gian của sinh viên, hàng ngày sinh viên phải đối mặt với rất
nhiều hoạt động như chuẩn bị bài trước khi lên lớp, hoạt động tự học và thảo
luận nếu sinh viên có thể sắp xếp thời gian và có cách học khoa học thì dễ
dàng đạt kết quả học tập tốt, ngược lại nếu không biết cách bố trí hợp lý thì
học tập sẽ gây nhiều khó khăn cho sinh viên dẫn đến việc gây ra những khó
khăn tâm lý cho sinh viên.
Đối với sinh viên ở trường đại học, học tập là một hoạt động cơ bản mà
thông qua nó người sinh viên “Nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng
thực hành về nghề, có khả năng phát hiện và giả quyết những vấn đề thông
thường thuộc chuyên nghành đào tạo”, để trở thành chuyên gia trong lĩnh
vực đào tạo, có khả năng lao động nghề, nuôi sống bản thân, phục vụ xã hội
trong tương lai. Do đó hoạt động học tập cần sự tham gia nghiên cứu, tìm
hiểu nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cũng như giảm bớt những khó
khăn nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên.
1
1.2 Cơ sở thực tiễn


Trường đại học Hồng Đức là một trường Đại Học địa phương của Tỉnh
gần 100% sinh viên địa phương theo học.Thực tế cho thấy, sinh viên năm
thứ nhất nói chung, sinh viên trường đại học Hồng Đức nói riêng phần lớn là
học sinh trung học phổ thông mới tốt nghiệp thi tuyển vào các trường đại
học các em đang còn quen với phương pháp học tập ở THPT chưa tiếp cận
được với phương pháp học tập mới. Đặc biệt theo phương pháp dạy học đổi
mới, cách đây 4 năm trường Đại học Hồng Đức đã đổi mới phương pháp
đào tạo và đưa phương pháp dạy học theo hệ thống tín chỉ vào giảng dạy.
Học tập theo hệ thống tín chỉ yêu cầu cao, đòi hỏi sinh viên phải nhanh
nhạy, tiếp thu các phương pháp học tập mới và tự học là chính nên sinh viên
năm thứ nhất gặp nhiều khó khăn trong việc học tập theo phương pháp mới,
khác hoàn toàn phương pháp học tập truyến thống mà các em vốn có.
Ngoài ra hầu hết sinh viên đều xuất thân từ những vùng quê với điều
kiện kinh tế gia đình khó khăn, điều kiện môi trường, hoàn cảnh kinh tế đều
thấp hơn so với nhịp sống ở thành phố lớn là nơi tập trung các trung tâm
thương mại, khu công nghiệp, chính trị và các trường Đại học, Cao đẳng,
của Tỉnh. Đối với sinh viên năm thứ nhất, ngoài những khó khăn tâm lý do
sinh viên phải tổ chức hoạt động theo phương thức mới, họ còn phải đối mặt
với điều kiện sống mới như xa gia đình thiếu sự hỗ trợ của cha mẹ, mặt khác
phải chủ động, độc lập tổ chức cuộc sống cá nhân những kinh nghiệm, kỹ
năng mới cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức và kết quả của hoạt động học
tập.
Tất cả sự khác biệt đó đã gây không ít khó khăn tâm lý khiến sinh viên
dễ chán nản, bỏ bê việc học tập hoặc không theo kịp, không đáp ứng được
các yêu cầu học tập. Vì vậy phát hiện những khó khăn tâm lý cụ thể và tìm
ra biện pháp khắc phục những khó khăn tâm lý này trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng quản trị nhân sự là
việc làm cần thiết, góp phần năng cao hiệu quả học tập của họ.
2
Trường đại học Hồng Đức là ngôi trường đại học đầu tiên và duy nhất

của tỉnh với số lượng lớn sinh viên dự tuyển hàng năm, vấn đề chất lượng
đào tạo luôn được quan tâm hàng đầu do đó vấn đề tìm hiểu nghên cứu
những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
ngành tâm lý học định hướng QTNS trường đại học Hồng Đức là cấp thiết.
Chính vì vậy chúng tôi chọn “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
theo hệ thống tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định
hướng quản trị nhân sự trường Đại học Hồng Đức” làm vấn đề nghiên
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng quản trị nhân sự
Trường Đại Học Hồng Đức và nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý đó.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ của sinh
viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng QTNS Trường Đại Học
Hồng Đức.
3.2. Khách thể nghiên cứu
50 sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học trường Đại học Hồng Đức.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất và tìm hiểu các nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý đó.
Từ đó đề ra một giảm bớt khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên
năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng quản trị nhân sự và một số biện
pháp nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ
nhất trường Đại Học Hồng Đức.
3
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Đọc các tài liệu, sách, báo, tạp chí chuyên ngành,… Từ đó phân tích,
tổng hợp hệ thống hóa các vấn đề lý luận cho đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
5.2.1. Phương pháp trò chuyện phỏng vấn.
Thông qua trò chuyện với các cán bộ giảng dạy và sinh viên năm thứ
nhất để tìm hiểu một số vấn đề xung quanh việc sinh viên gặp phải khó khăn
tâm lý trong hoạt động học tập, nguyên nhân dẫn đến KKTL đó và ảnh
hưởng của nó đến sự phát triển nhân cách của sinh viên. Trên cơ sở đó xây
dựng phiếu điều tra và tìm một số giải pháp nhằm tháo gỡ KKTL trong hoạt
động học tập theo tín chỉ cho sinh viên năm thứ nhất.
Phỏng vấn sâu cán bộ giảng dạy, quản lý sinh viên và một số sinh viên
đại diện cho các khoa chọn nghiên cứu để xây dựng chân dung sinh viên có
KKTL trong hoạt động học tập theo tín chỉ.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập những thông tin về
KKTL trong hoạt động học tập theo hình thức đào tạo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất để bổ sung thêm chính xác hơn cho kết quả nghiên cứu từ
phương pháp điều tra.
Để tiến hành thực hiện phương pháp này chúng tôi tiến hành dự giờ,
quan sát các biểu hiện thái độ, hành vi trong hoạt động học tập ở trên lớp của
sinh viên năm thứ nhất thông qua các biểu học lý thuyết, thực hành, thảo
luận, kiểm tra.
5.2.3. Phương pháp điều tra
Đây là phương pháp chính của đề tài. Phương pháp này nhằm mục đích
khảo sát thực trạng KKTL trong hoạt động học tập theo hình thức đào tạo tín
chỉ, nguyên nhân gây ra KKTL đó và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển
nhân cách của sinh viên năm thức nhất.
4
Để tiến hành phương pháp này chúng tôi xây dựng bộ câu hỏi về KKTL

trong hoạt động học tập và các nguyên nhân gây ra KKTL để điều tra các
khách thể nghiên cứu.
5.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Để có những nhận xét khách quan về kết quả nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thu được từ
phương pháp chính.
Cụ thể:
- Tính trung bình cộng:

n
i
i 1
X
X
n
=
=

Trong đó: +
X
là số trung bình.
+
n
i
i 1
X
=

là tổng điểm của một khách thể nghiên cứu.
+ n là số khách thể được nghiên cứu.

- Tính số phần trăm:

m 100
%
n
×
=
Trong đó:
+ m là số khách thể trả lời.
+ n là số lượng khách thể nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập theo hình thức đào
tạo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng quản trị
nhân sự trường Đại Học Hồng Đức. Đề tài chỉ ra mức độ khó khăn tâm lý
cũng như nguyên nhân của nó. Từ đó đề xuất biện pháp giảm bớt những khó
khăn tâm lý, giúp các em sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học nói riêng
và sinh viên năm thứ nhất trường Đại Học Hồng Đức nói chung học tập hiệu
5
quả hơn.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ CỦA
SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT NGÀNH TÂM LÝ HỌC (QTNS)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
6
Trong lịch sử nghiên cứu vấn đề tâm lý, vấn đề khó khăn tâm lý đã
được nhiều nhà tâm lý xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều loại khách thể với
nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu phát hiện ra những khó
khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên đào tạo theo hình thức tín

chỉ năm thứ nhất còn ít được đề cập vì đây là một hình thức đào còn mới. Ở
Việt Nam các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu những khó khăn tâm
lý trong giao tiếp, ngoài ra còn một số tác giả xem xét nghiên cứu những khó
khăn tâm lý trong hoạt động học tập nhưng chủ yếu là học sinh ở tiểu học.
1.1. Ở nước ngoài
1.1.1. Những hướng nghiên cứu khó khăn tâm lý trong giao tiếp
Bàn về vấn đề này chúng ta có thể kể đến một số công trình tiểu biểu
sau:
Công trình nghiên cứu của hai tác giả: H.ipp và M.Phrvec trong “ Nhập
môn tâm lý học xã hội”, các ông đã nêu ra những nhân tố gây khó khăn cho
giao tiếp như: Người phát hiện không có khái niệm chính xác về người cùng
giao tiếp với mình, đánh giá sai về trình độ văn hóa, nhu cầu, quyền lợi và
những phẩm chất của người nhận…Ngoài ra, do cách kiến giải khác nhau về
khái niệm sử dụng và trao đổi thông tin tạo nên những:“ hàng rào khái niệm”
ngăn cản giao tiếp. trong công trình này, hai tác giả đã nêu ra một loạt các
nhân tố gây khó khăn cho giao tiếp. Nhưng để làm rõ giao tiếp là gì? cách
phân loại nó ra sao? thì công trình nghiên cứu này chưa đề chưa đề cập tới.
Trong công trình cứu của G.M.Andreva khi phân tích chức năng thông
tin về giao tiếp đã chỉ ra một vài nguyên nhân làm nảy sinh các KKTL trong
quá trình giao tiếp. Tác giả cho rằng những khó khăn này có thể nảy sinh do
sự khác biệt về tôn giáo, ngôn ngữ, nghề nghiệp, thiếu đồng nhất trong nhận
thức tình huống giao tiếp giữa các thành viên tham gia giao tiếp hoặc do đặc
điểm tâm lý cá nhân. Như vậy, ở các công trình nghiên cứu này các tác giả
đã phát hiện ra một số nguyên nhân làm nảy sinh các KKTL trong giao tiếp,
nhưng để đưa ra khái niệm KKTL trong giao tiếp là gì thì tác giả chưa đề
7
cập tới.
Đến năm 1987, E.V.Sucanova đã đánh dấu một mốc quan trọng trong
công việc nghiên cứu vấn đề KKTL trong giao tiếp bằng việc đã ra cuốn
sách “Những khó khăn của giao tiếp liên nhân cách”. Trong công trình này

tác giả có đề cập đến những vấn đề sau:
- Bản chất tâm lý của những khó khăn trong giao tiếp liên nhân cách.
- Vị trí của hiện tượng giao tiếp, khó khăn trong cấu trúc của vấn đề
tâm lý xã hội.
- Những đặc điểm của việc nhận thức các nguyên nhân gây ra khó khăn
trong giao tiếp công việc.
- Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố khó khăn đến
quá trình giao tiếp công việc.
Qua quá trình nghiên cứu này, tác giả đã phát hiện được một số KKTL
trong giao tiếp và nguyên nhân nảy sinh chúng. Song cũng như các tác giả
trên ông chưa đưa ra được các định nghĩa về KKTL trong giao tiếp và chưa
phân loại chúng một cách cụ thể.
Cùng năm 1987, trong công trình nghiên cứu về nhân cách sư phạm của
giáo viên, V.A.Cancalic đã nêu ra một số trở ngại giao tiếp của giáo viên:
- Không biết cách dàn xếp, tổ chức, tiếp xúc.
- Không hiểu lập trường của đối tượng giao tiếp.
- Thụ động trong giao tiếp.
- Có tâm trạng lo lắng, sợ hãi
- Lúng túng trong điều khiển trạng thái tâm lý của bản thân khi giao
tiếp.
- Không biết cách xây dựng mối quan hệ qua lại và đổi mới quan hệ
qua lại và đổi mới quan hệ theo nhiệm vụ sư phạm.
- Bắt chước máy móc cách ứng xử của giáo viên khác.
Như vậy, bàn về khó khăn giao tiếp có rất nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu, các tác giả kể trên đã phát hiện và kể ra một số khó khăn tâm lý
8
trong giao tiếp, nguyên nhân làm nảy sinh những khó khăn trong giao tiếp…
Nhưng để hiểu rõ khái niệm của khó khăn tâm lý trong giao tiếp, phân
loại chúng một cách cụ thể…, thì tất cả họ chưa ai làm được.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến khó khăn tâm lý trong hoạt

động học tập
Theo Binaka Zazzo cùng cộng sự của bà thuộc trung tâm nghiên cứu
trẻ em của đại học Pari, 10 công trình nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu
giáo lên lớp 12 của trẻ em. Tác giả đã chỉ ra KKTL lớn nhất mà trẻ gặp phải
làm cản trở đến sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là: “Sự thay đổi
môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ
đạo, vừa chơi trở thành hoạt động đa dạng, tính tùy tự do tùy hứng của cá
nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của giáo viên. Bước sang lớp 1, học tập chủ
đạo của học sinh phải nghiêm chỉnh theo sự chỉ đạo của giáo viên, theo
nguyên tắc lớp học”.
Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập, tác giả A.V. Petropxki
đã chia KKTL của trẻ em khi đi học lớp 1 là 3 loại:
Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập
mới.
Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô
và bạn bè.
Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ
được sự chuẩn bị của gia đình, nhà trường và xã hội nên trẻ có tâm lý vui,
thích, sẵn sàng đi học , về sau giảm dần khát vọng và chán học.
Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến những khó khăn, ảnh hưởng của
những khó khăn đến đời sống của trẻ và một số biện pháp để giải quyết khó
khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu khó khăn tâm lý đối với
hoạt động học tập nhưng nó mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu học sinh lớp 1.
Theo các nhà tâm lý học Maurice debesse, trong công trình nghiên cứu
khó khăn tâm lý của trẻ em khi học lớp 1 đã chỉ ra rằng: Đứng giữa ngưỡng
9
cửa của lớp 1 trẻ em gặp rất nhiều khó khăn tâm lý. Điều này ảnh hưởng đến
sự thích ứng của hoạt động học tập của trẻ, làm cho trẻ sợ học, không muốn
đến trường và kết quả học tập không cao.
Tóm lại, các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về KKTL trong hoạt

động học tập của sinh viên ít nhiều chỉ ra được vấn đề lí luận trong bản chất
của KKTL, nguyên nhân dẫn đến khó khăn đó, đồng thời tác giả cũng chỉ ra
được ảnh hưởng của nó tới hoạt động học tập của học sinh… Tuy nhiên so
với các lĩnh vực khác , vấn đề KKTL trong hoạt động học tập còn ít được
các nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, nghiên cứu
KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất thì chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập tới. Mặc dù đây là vấn đề quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của sinh viên. Vì vậy, nghiên cứu KKTL
trong hoạt động học tập của sinh viên nói chung và sinh viên năm nhất theo
học chế tín chỉ nói riêng cần các nhà khoa học nghiên cứu nhiều hơn và toàn
diện hơn.
1.2. Ở Việt Nam
Do yêu cầu của xã hội những KKTL bắt đầu dược quan tâm nghiên
cứu. Đa số các công trình nghiên cứu KKTl các tác giả tập chung vào hai
hướng cơ bản sau:
- Nghiên cứu KKTL trong hoạt động giao tiếp.
- Nghiên cứu KKTL trong hoạt động học tập.
1.2.1.Nghiên cứu KKTL trong hoạt động giao tiếp.
Trong cuốn “Vấn đề giao tiếp’ của Nguyễn văn Lê, dưới góc độ thông
tin, tác giả đã bàn đến KKTL trong giao tiếp như:
+ Sự chênh lệch giữa người phát và người thu.
+ Khả năng xây dựng và trình bày thông điệp của người phát thông tin,
các tác giả cũng đưa ra các yếu tố tâm lý gây trở ngại trong giao tiếp đó là:
Những chấn thương tình cảm, sự khác nhau về chính kiến… Tuy nhiên công
trình này chỉ mang tính chất suy diễn, chấm phá. Mặc dù tác giả có bàn tới
10
trở ngại tâm lý trong giao tiếp nhưng vẫn chưa dề cập đến nội hàm của khái
niêm đó.
+ Bức tường thành kiến do ác cảm với một người nào đó, do cái nhìn
thiên lệch tạo ra ấn tượng không tốt đẹp trong giao tiếp.

+ Bức tường sợ hãi xuất hiện do những suy nghĩ, băn khoăn dẫn đến
tiếp xúc gượng ép, thiếu tự nhiên.
+ Bức tường thiếu hiểu biết nảy sinh do tiếp xúc không hiểu nhau hoặc
không hiểu đúng về nhau.
Trong bài viết này tác giả đề cập đến 4 trở ngại tâm lý, mà chưa đề cập
đến lý luận trở ngại tâm lý.
Năm 1995 tác giả Mạnh toàn đã trích ra ý kiến của bác sĩ người Mỹ
Rabbi Kahler về 5 nguyên nhân cản trở những cuộc tiếp xúc tâm lý giữ
người với người:
+ Kiêu ngạo
+ Hay lo
+ Mặc cảm
+ Nhút nhát
+ Luôn cảm thấy có lỗi
Ở đây tác giả chỉ nêu ra 5 nguyên nhân mà chưa bàn lý luận cũng như
không có nghiên cứu thực nghiệm về KKTL trong giao tiếp.
Đến năm 1997 trong luận án bảo vệ PTS, tác giả Nguyễn thị thanh
Bình đã đi sâu nghiên cứu về trở ngại tâm lý (khái niệm, bản chất, biểu hiện,
nguyên nhân, phân loại và ảnh hưởng). Tác giả đã tiến hành khảo sát những
KKTL trong giao tiếp của sinh viên , đồng thời thử nghiệm các biện pháp tác
động nhằm hạn chế những khó khăn này.
1.2.2. Nghiên cứu KKTL trong hoạt động học tập.
Trong tác phẩm “ Nỗi đau của con em chúng ta” bác sĩ Nguyễn khắc
Viện đã nêu ra KKTL mà học sinh lớp 1 gặp phải là:
+ Trẻ phải giữ kỉ luật lớp học
11
+ Trẻ phải học một chương trình nặng hơn
+ Trẻ ít được bố mẹ âu yếm hơn trước và luôn bị kiểm tra, đánh giá của
bố mẹ….
Trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” tác giả Nguyễn Thị Nhất đã nêu

những khó khăn của học sinh lớp 1 phải vượt qua. Tác giả cho rằng: “Trong
quá trình lớn lên của trẻ có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác đòi hỏi trẻ phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách triệt
để”. Đồng thời tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể mà trẻ lớp
1 phải vượt qua.
+ Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, vui nhộn, đa dạng, hoạt động tùy
hứng ở mẫu giáo và khép mình vào kỷ luật nghiêm khắc của lớp học phổ
thông.
+ Trẻ gặp khó khăn với quan hệ với thầy cô giáo.
+ Trẻ bị “ vỡ mộng” khi vào lớp một vì sự hân hoan, hồi hộp chờ đón
những điều hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng
của trẻ.
Năm 1995 trong bài “ những khó khăn tâm lý trong quá trình giải toán
của học sinh tiểu học”, tác giả Nguyễn Thị Khải đã đề cập tới các nguyên
nhân khác nhau và han chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học.
Theo tác giả Nguyễn Thanh Sơn, khi phân tích những khó khăn của học
sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển việt nam đã chỉ ra khó khăn
sau:
+ Hoàn cảnh giao tiếp của học sinh miền núi bị hạn chế.
+ Vốn từ của học sinh miền núi còn yếu và hạn chế.
+ Năng lực cảm thụ một câu thơ, một đoạn thơ của học sinh còn hạn
chế.
Theo tác giả nguyên nhân dẫn đến tình trạng này do tầm văn hóa, lối
sống, vốn hiểu biết của học sinh còn hạn chế. Do vậy, để nâng cao cảm thụ
văn học của học sinh thì trước hết phải nâng cao tầm văn hóa của học sinh
12
lên, cần mở rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho học sinh. Những hoạt
động ngoại khóa, tham quan du lịch, câu lạc bộ văn học….là những hoạt
động rất bổ ích đối với học sinh.
Trong bài viết “ một số trở ngại tâm lý của trẻ khi vào lớp 1”. Tác giả

Vũ Ngọc Hà đã nêu ra một số trở ngại tâm lý mà khi vào lớp 1 trẻ em
thường gặp phải đó là:
+ Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường
+ Khó khăn trong các mối quan hệ
+ Khó khăn khi đến trường
Tác giả Nguyễn Xuân Thức, trong bài viết “Các nguyên nhân dẫn đến
KKTL của học sinh khi vào lớp 1” đã nêu ra nguyên nhân gây KKTL của trẻ
là:
* Các nguyên nhân chủ quan:
+ Trẻ chưa hiểu rõ nội dung.
+ Trẻ được chuẩn bị quá kỹ trước khi đến trường.
+ Do tính cách của trẻ.
+ Do trẻ chưa đủ tuổi đến trường.
+ Do trẻ mắc một số bệnh bẩm sinh.
* Các nhóm nguyên nhân khách quan: có thể khái quát thành 3 nhóm
cơ bản sau:
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về gia đình.
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về nhà trường.
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về xã hội.
Tác giả cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân gây ra khó
khăn tâm lý nhiều hơn cho học sinh lớp 1. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một
số giải pháp sư phạm để tháo ngỡ KKTL cho trẻ.
Những năm gần đây có một số luận văn thạc sỹ đã quan tâm nghiên
cứu về KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên như:
Năm 2011, Nguyễn Thị nhân Ái với đề tài: “ Tìm hiểu KKTL trong
13
quá trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 THPT”
Năm 2012, Nguyễn Thị thu huyền với đề tài: “ Thực trạng KKTL trong
quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kỹ thuật của sinh viên trường
cao đẳng sư phạm kỹ thuật Vinh”.

Nói tóm lại, nghiên cứu KKTL trong hoạt dộng học tập là một hiện
tượng tâm lý rất phức tạp, vấn đề này ít được các tác giả trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Một số những công trình kể trên ít nhiều đã xây dựng
được một hệ thống lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết
các tác giả đều chưa đưa ra được khái niệm KKTL, chưa làm rõ được bản
chất của khó khăn tâm lý… Các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên mà chưa chú ý đến đối tượng là
sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm nhất học theo hệ thống tín chỉ họ những
người vừa khỏi nghế phổ thông để bước vào môi trường mới.
2. Một số vấn đề về lý luận về KKTL của sinh viên năm thứ nhất trong
hoạt động học tập theo tín chỉ.
2.1.Khó khăn tâm lý.
2.1.1. Khái niệm khó khăn.
Theo từ điển tiếng việt thì khó khăn có nghĩa là sự trở ngại mất công
sức.
Trong từ điển Anh-Việt thì từ “Haprdship” hoặc từ “ Difiiculty” đều
được dùng để chỉ sự khó khăn khắc nghiệt.
Trong từ điển Pháp-việt thi “Dificulte” chỉ sự khó khăn,sự việc gây trở
ngại.
Như vậy,qua các từ điển nói trên khi bàn về khó khăn cho phép chúng
ta hiểu khó khăn là những sự gay go, sự khắc nghiệt, sự thiếu thốn…gây ra
những trở ngại đòi hỏi nhiều nổ nực để vượt qua.
Thực tiễn chứng minh trong bất kì hoạt động nào con người cũng gặp
những khó khăn làm cho hoạt động đó bị chệch hướng với mục đích đã đề ra
14
từ trước, từ đó ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động.
2.1.2. Khái niệm khó khăn tâm lý.
KKTL là toàn bộ những nét tâm lý của cá nhân, nảy sinh ở chủ thể
trong quá trình hoạt động không phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của
một hoạt động nhất định, làm ảnh hưởng xấu đến tiến trình và kết quả hoạt

động đó.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý.
Bàn về KKTL chúng tôi cho rằng: KKTL trong hoạt động học tập là
những nét tâm lý của cá nhân nảy sinh ở người sinh viên trong hoạt động
học tập làm cản trở đến tiến trình và kết quả của hoạt động học tập của họ.
Biểu hiện qua 3 mặt: Nhận thức, thái độ, hành vi.
Cụ thể:
* Về nhận thức
Từ những kiến thức phân tích trên đây chúng tôi nhận thấy sinh viên
năm thứ nhất ngành tâm lý học định hướng QTNSvgặp nhiều khó khăn
trong hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ.
Trong tâm lý học nhận thức là một trong những thành tố quan trọng
của đời sống tâm lý con người. Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự
vật, hiện tượng. Thông thường nhận thức là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
hành động của con người giúp con người bày tỏ thái độ và có hành vi tương
ứng khi nhìn nhận, đánh giá thế giới khách quan. Những khó khăn thường
xuất hiện trong quá trình học tập đó là:
Sự nhận thức chưa đầy đủ về mục đích kế hoạch nội dung, phương
pháp học tập dẫn đến tình trạng người học còn lúng túng thiếu tự tin trong
quá trình tiến hành hoạt động học tập của bản thân.
Trong quá học tập nhiều khi chủ thể đánh giá chưa đúng về năng lực
học tập chưa xác định được điểm mạnh điểm yếu của bản thân nên kết quả
học tập không cao.
* Về mặt xúc cảm, tình cảm
Đây là thái độ xúc cảm của con người thể hiên trong quá trình học tập.
Thông thường những người ít gặp KKTL trong hoạt động học tập là những
15
người biết làm chủ trạng thái cảm xúc bản thân, biểu hiện ở việc biết kìm
chế, biết tạo ra hứng thú xúc cảm tích cực, biết điều chỉnh, điều khiển các
diễn biến tâm lý của mình. Trên cơ sở đó họ lựa chọn được phương pháp

phù hợp với mục đích nội dung học tập.
Ngược lại sinh viên năm nhất học theo hệ thống tín chỉ cũng gặp nhiều
khó khăn về mặt xúc cảm, tình cảm. Như sự bỡ ngỡ trước môi trường mới,
sự lo lắng, đôi khi là rụt rè, thiếu tự tin trong việc làm quen tiếp xúc, chưa
tạo được tình cảm tích cực đối với môi trường học tập…Nhưng điều đó cũng
đã và đang ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của các em.
* Về hành vi
Đây là bộ mặt của con người, nói lên đời sống tâm lý của họ khi tham
gia vào hoạt động học tập. Những người gặp KKTL trong hoạt động học tập
thường có những biểu hiện: lúng túng, thiếu tự tin, diễn đạt nội dung học tập
thiếu chính xác, chưa có khả năng xây dựng những kế hoạch học tập cho
tuần, tháng, chưa có phương pháp học tập phù hợp,…
Tóm lại, KKTL trong hoạt động học tập được biểu hiện thông qua 3
mặt trên. Có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau là một chỉnh thể thống
nhất tạo cấu trúc tâm lý của con người. Thông thường, nhận thức đúng dẫn
đến thái độ đúng, dẫn đến hành vi đúng. Do vậy, trong quá trình hoạt động
học tập muốn tháo gỡ khó khăn tâm lý chủ thể cần chú ý quan tâm đến 3 mặt
trên.
2.2. Hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ.
2.2.1. Khái niệm hoạt động học tập
Hoạt động học tập là một dạng hoạt động trí tuệ, đây là một dạng tồn tại
của con người, hoạt động học tập là một trong những nhân tố chủ đạo quyết
định trực tiếp đến sự phát triển của con người.
Có nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về khái niệm hoạt động học
tập từ những quan niệm của các tác giả cho phép chúng ta hiểu hoạt động
16
học tập là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội tri thức, kinh
nghiệm của khoa học loài người được kết tinh trong nền văn hóa xã hội, biến
nó thành kiến thức riêng của bản thân, từ đó vận dụng thực tiễn phục vụ đời

sống của bản thân.
2.2.2. Sinh viên năm thứ nhất.
* Khái niệm sinh viên.
Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt, là những người
đang trong quá trình tích lũy tri thức nghề nghiệp để trở thành những chuyên
gia có trình độ chuyên môn cao để hoạt động, lao động trong một lĩnh vực
nhất định có ích cho xã hội.
* Đặc điểm tâm lí của sinh viên.
Sinh viên là những người thuộc lứ tuổi từ 18 đến 25. lứa tuổi này con
người đã đạt đến trình độ trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần.
Tuổi sinh viên là thời gian nở rộ nhất của sự phát triển nói chung và
tâm lý, nhân cách nói riêng. Đây là lứa tuổi thuận lợi nhất cho sự hình thành
và phát triển của các chức năng tâm lý quan trọng ở con người, đặc biệt là sự
phát triển năng lực trí tuệ.
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi sinh viên. Là có sự phát
triển của tự ý thức. Hơn nữa đây là giai đoạn tự ý thức phát triển cao, họ đã
ý thức và đánh giá về hoạt động và kết quả tác động của chính mình, biết
đánh giá toàn diện về bản thân, về vị trí của mình trong cuộc sống xã hội.
Đây là những dấu hiệu giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát
triển nhân cách.
Thành phần quan trọng bậc nhất, tạo nên sự phát triển tự ý thức của
sinh viên là năng thực tự đánh giá, thể hiện thái độ với bản thân, biểu hiện
các phẩm chất và năng lực trong hoạt động giao tiếp và tự giáo dục. Tự đánh
giá là kết quả đánh giá từ bên ngoài hình thành nên lòng tự trọng của cá
nhân đảm bảo cho tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong đời sống,
trong mối quan hệ liên nhân cách. Tự đánh giá phản ánh mức độ thỏa mãn
17
nhân cách của bản thân, là mức độ thỏa mãn của chủ thể về trình độ phát
triển của các thuộc tính cá nhân.
Sự phát triển nhân cách của sinh viên là nhân cách của người trẻ tuổi,

đang chuẩn bị để thực hiện chức năng của người chuyên gia có trình độ
chuyên môn cao trong một lĩnh vực nào đó của xã hội.
Sự trưởng thành về trí tuệ đạo đức xã hội được thể hiện ở kỹ năng tổ
chức học tập của sinh viên. Ngay từ năm thứ nhất sinh viên đã bộc lộ khả
năng phán đoán và thể hiện hành vi một cách độc lập. Trong thời kì này, ở
sinh viên có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, sự thay đổi giá trị xã họi có
liên quan đến nghề nghiệp.
Tình cảm, nghĩa vụ, ý thức, trách nhiệm, tính độc lập trong nghề nghiệp
dần được ổn định. Sinh viên trở nên vững vàng hơn trong lập trường sống
của bản thân, cách giải quyết vấn đề trở nên chính xác, đúng đắn hơn. Sự
trưởng thành về mặt xã hội tinh thần đạo đức, lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và
kiến thức nghề nghiệp, đồng thời tính độc lập và sự sẵn sành làm việc khi
kết thúc học tập được củng cố.
Tóm lại, tuổi sinh viên là giai đoạn phát triển tới độ trưởng thành cả về
tâm lý và sinh lý. Đây là giai đoạn thuận lợi nhất cho các đặc điểm tâm lý
của sinh viên đạt tới đỉnh cao. Sự tích cực, tự giác của sinh viên sẽ là yếu tố
vô cùng quan trọng trong việc hình thành các phẩm chất nhân cách và nghề
nghiệp tương lai.
* Đặc điểm sinh viên năm thứ nhất.
Sinh viên năm thứ nhất họ là những người vừa rời khỏi nghế nhà trường
phổ thông để bước vào ngưỡng cửa đại học, cao đẳng. Thông thường họ có
độ tuổi 17, 18 với đầy sức trẻ, hoài bão và ý chí vươn lên. Nhân cách của họ
đã và đang phát triển mạnh mẽ, họ có ý thức về hành vi của mình.
Sinh viên năm thứ nhất có phẩm chất nghề nghiệp chuyên biệt
thuộc một ngành nhất định. Họ là con em thuộc các tầng lớp xã hội khác
nhau ở nông thôn và thành thị. Do đó các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được
18
biến đổi dưới ảnh hưởng của giáo dục gia đình, của trường phổ thông, các
phong tục tập quán địa phương và những điều kiện sống, sinh hoạt nói
chung. Vào trường đại học có một số phẩm chất tâm lý ổn định, đại biểu cho

lối sống của một số tầng lớp, giai cấp và của địa phương mình.
Do vậy, trong tập thể sinh viên năm thứ nhất thường có va chạm mạnh
do tính độc đáo của nhân cách con người trẻ. Trong quá trình làm quen với
cuộc sống tập thể ở trường đại học sinh viên thường có hành vi bắt chước
lẫn nhau thể hiện bước đầu đồng nhất xã hội. Ở đây sinh viên chưa có quan
điểm phân hóa đối với vai trò của mình.
Việc nắm bắt đặc điểm nhân cách của sinh viên năm nhất có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định nội dung, hình thức và phương pháp tác động
đến họ theo hướng hình thành nhân cách người chuyên gia tương lai trong
trường đại học, cao đẳng. Hình thành nhân cách chuyên gia không thể năm
ngoài quy luật chung là: Nhân cách được bộc lộ, hình thành và phát triển
trong hoạt động, trong đó hoạt động học tập đóng vai trò là hoạt động chủ
đạo có ảnh hưởng đến nhận thức nghề nghiệp và hoàn thiện nhân cách của
sinh viên.
2.2.3. Hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ.
Sinh viên học theo hệ thống tín chỉ là học theo một phương thức đào tạo
mới. Đây là hình thức đào tạo phát huy sự năng động, chủ động của người
học do đó sinh viên học theo hệ thống tín chỉ nói chung và sinh viên năm nhất
học theo hệ thống tín chỉ nói riêng cần phải cần có những kế hoạch học tập
thật khoa học, chủ động. Đặc biệt sinh viên năm nhất là những người lần đầu
được tiếp xúc với các môn học, phương pháp học hoàn toàn mới, việc chuẩn
bị các nội dung về lý thuyết trước giờ lên lớp, tự học, thảo luận cũng như
tham gia tranh luận trong các buổi học yêu cầu sự chủ động rất cao.
Từ những học sinh phổ thông đang học những tri thức cơ bản của cấp
phổ thông, lên đại học - cao đẳng họ bắt đầu học những môn học đại cương
chuyên về các lĩnh vực của nghành và xã hội. Và hơn nữa bên cạnh việc tự
19
học ở nhà giờ đây họ phải tham gia các buổi thảo luận cũng như chuẩn bị
các nội dung thảo luận và các câu hỏi chất vấn… nên hoạt động học tập của

họ những đặc thù riêng.
2.3. Những khó khăn tâm lý của sinh viên năm nhất học tập theo hệ
thống tín chỉ.
2.3.1. KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất theo học chế
tín chỉ.
Sinh viên năm nhất theo học chế tín chỉ là những người vừa rời khỏi
ghế nhà trường phổ thông bước vào môi trường học tập mới đại học, cao
đẳng, trong hoạt động học tập ban đầu họ mang theo cả cách học, thói quen
ở trường phổ thông áp dụng vào hoạt động học tập ở đại học cao đẳng nên
họ gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào hoạt động học tập. Ở phổ thông,
học sinh lĩnh hội tri thức đã được biên soạn sao cho phù hợp với đặc điểm
âm lý lứa tuổi, nghĩa là chúng đã được sư phạm hóa cao. Còn ở đại học, cao
đẳng sinh viên phải tiếp thu những kiến thức cơ bản hệ thống và có tính
khoa học cao của một khoa học nhất định. Với việc đào tạo theo học chế tín
chỉ, sinh viên lĩnh hội kiến thức bằng phương pháp tự học tự nghiên cứu là
chủ yếu, thầy cô chỉ đóng vai trò là một người hướng dẫn còn sinh viên mới
là trung tâm của quá trình dạy và học. Do đó việc chuyển từ học tập ở phổ
thông lên bậc đại học cao đẳng gây nên những biến đổi mạnh mẽ trong tâm
lý của sinh viên.
Khác hẳn với phổ thông tài liệu học tập ở bậc đại học cao đẳng không
ngừng thay đổi, hoàn cảnh trong giảng đường, trong nhà trường ký túc xá có
sự thay đổi. Tất cả những thay đổi đó gây cho sinh viên năm thứ nhất một
loạt những khó khăn tâm lý làm cản trở việc học tập của họ.
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên KKTL trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất theo học chế tín chỉ. Chúng ta có thể khái quát thành
những nguyên nhân:
* Nhóm nguyên nhân khách quan
Do phương pháp giảng dạy của thầy giáo chưa phù hợp.
20
Do ít được hướng dẫn về phương pháp học tập.

Do ảnh hưởng của cách dạy cũ ở phổ thông.
Do thiếu sách giáo trình tài liệu tham khảo.
Lượng tri thức tiếp thu ở trường đại học cao đẳng quá lớn.
Do tính chất học tập ở trường cao đảng khác xa so với trường phổ
thông.
* Nhóm nguyên nhân chủ quan
Do lực học của bản thân.
Do sinh viên chưa quen với môi trường học tập mới và phương pháp
dạy học mới.
Do rụt rè nhút nhát không chịu học hỏi.
Do sinh viên chưa ý thức học tập.
Do động cơ chọn nghề của sinh viên.
Do bản thân chưa có phương pháp học tập hợp lý.
Do thiếu kinh nghiệm sống, hoạt động học tập một cách tích cực.
Một trong những KKTL lớn nhất trong quá trình học tập của sinh viên
năm thứ nhất đào tạo theo học chế tín chỉ là do họ phải tiếp cận với khối
lượng kiến thức lớn, song song với nó họ phải hình thành được kỹ năng kỹ
xảo, nghề nghiệp với tính chất chuyên sâu. Mục đích, nhiệm vụ học tập đòi
hỏi cao nhưng họ thiếu kinh nghiệm học tập, họ thường áp dụng những
phương pháp học tập của phổ thông, những phương pháp này không còn phù
hợp với hoạt động ở những trường cao đẳng đại học. Thực tế cho thấy sinh
viên năm thứ nhất trong quá trình học tập họ thường lấy sự cần cù chăm chỉ
của mình để đổi lấy kết quả học tập cao, đôi khi xảy ra với cả những học
sinh khá giỏi cũng chưa biết cách lựa chọn phương pháp học tập khoa học.
Những KKTL trong học tập của sinh viên năm thứ nhất không chỉ liên
quan đến việc sinh viên phải lĩnh hội lượng tri thức lớn mà chủ yếu còn liên
quan đến cách học, cách áp dụng các tri thức đã học vào thực tiễn một cách
hiệu quả. Bên cạnh đó một số KKTL khác làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất
21
lượng học tập của sinh viên, đó là các vấn đề như: hoàn cảnh sống, sự cô đơn,

sự lẻ loi khi lần đầu xa nhà, môi trường sống thay đổi. Tất cả chúng đều gây
ra những KKTL làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của họ.
Nói tóm lại, sinh viên năm thứ nhất gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt
động học tập sinh viên rất dễ chán nản bỏ bê nhiệm vụ học tập. Vấn đề này,
thực sự nguy hại đến sự hoàn thiện nhân cách cuả sinh viên. Việc tìm ra biện
pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất theo học chế tín chỉ là việc làm cần thiết góp phần nâng cao kết qua
học tập của sinh viên. Khắc phục KKTL giúp sinh viên thành công trong
hoạt động học tập cũng như những hoạt động khác. Và quan trọng hơn cả là
nhân cách của họ phát triển đúng hướng phù hợp với chuẩn mực xã hội, đáp
ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nhu cầu nghề nghiệp trong tương lai.
22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP
1. Vài nét về trường ĐH Hồng Đức và sinh viên bộ môn Tâm Lý - Giáo Dục
1.1. Vài nét về trường Đại học Hồng Đức
Trường Đại học Hồng Đức được thành lập theo quyết định số 797/TTg
ngày 24/09/1997 của Thủ tướng Chính Phủ trên cơ sở các trường Cao đẳng Sư
phạm, Cao đẳng kinh tế kĩ thuật, Cao đẳng y tế Thanh Hóa. Trường lấy hiệu của
Hoàng Đế Lê Thánh Tông làm tên gọi, một vị vua anh minh có nhiều đóng góp
to lớn cho dân tộc.
Là trường công lập trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá và chịu sự
quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, Ngành Trung ương
trong phạm vi chức năng quyền hạn có liên quan.
Phương hướng phát triển của nhà trường trong những năm tới là tiếp tục
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên và tập trung
huy động mọi nguồn lực cho đầu tư cơ sở vật chất, đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo đội
ngũ cán bộ có trình độ cao; xây dựng nhà trưòng thành trung tâm đào tạo đại
học, NCKH và chuyển giao công nghệ đạt trình độ các trường đại học lớn của cả

nước, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa và miền
Trung.
Sứ mạng của nhà trường là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực khoa học, công nghệ và quản lý đạt trình độ cao để hội nhập thành công về
kinh tế trong khu vực và thế giới. Với chức năng chủ yếu: giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ nhằm phát triển nhà trường, góp phần phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước. Trường có nhiệm vụ sau đây:
1. Đào tạo cán bộ các ngành khoa học và công nghệ có trình độ đại học để đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các tỉnh lân cận.
2. Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa và đất nước.
Nhà trường có hai cơ sở, cơ sở I tại cầu Quán Nam, phường Đông Vệ, TP
Thanh Hóa là nơi đào tạo khối kinh tế; nông lâm ngư nghiệp; kỹ thuật công
nghệ và là nơi làm việc của Ban Giám hiệu, các phòng, ban từ năm 2011và là
nơi làm việc của Ban Giám hiệu, các phòng, ban trường hiện nay;. cơ sở II tại
phường Đông Sơn, TP Thanh Hóa, nơi đào tạo khối sư phạm và một số nghành
23
Xã hội học, việt nam học, Quản lý văn hóa, Địa lý – tài nguyên môi trường, tâm
lý học định hướng QTNS
Đội ngũ cán bộ giảng viên của trường Đại học Hồng Đức phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Khi mới thành lập trường năm 1997 tỷ lệ CBGD có trình
độ sau đại học mới đạt 15,9%, đến nay (8/2006) đã nâng lên 49,4%. Nhà trường
hiện có 660 cán bộ viên chức trong biên chế, trong đó có 3 chuyên viên chính,
105 giảng viên chính, 315 giảng viên, 62 giáo viên; về học vị có 31 Tiến sĩ, 188
Thạc sĩ. Hiện tại nhà trường có 25 GV đang học Nghiên cứu sinh (3 NCS nước
ngoài), 52 GV đang học Cao học (2 cao học nước ngoài).
Hệ thống tổ chức của nhà trường gồm: 8 Phòng, 3 Ban, 11 Khoa, 4 Trung
tâm, 01 Bộ môn trực thuộc, 42 Bộ môn, 01 Trung tâm trực thuộc khoa, 01
Trường Mầm non thực hành.
Để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, Nhà trường đã đầu tư nâng

cấp các phòng thí nghiệm và phòng thực hành: Vật lý, Hoá học, Sinh học, Nuôi
cấy mô, Sinh lý - Sinh hoá, Địa chính, Chăn nuôi, Vi tính,
Điện tử, Tiếng Anh phục vụ cho công tác dạy và học. Trung tâm TT-TL-
TV được đầu tư hiện đại hoá với hàng trăm ngàn đầu sách, tạp chí tiếng Việt,
tiếng nước ngoài và sách giáo khoa. Hàng năm, nhà trường tiếp tục bổ sung tài
liệu, giáo trình phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Công tác nghiên cứu khoa học được Nhà trường quan tâm đúng mức, thu
hút đông đảo CBGD và sinh viên tham gia với nhiều đề tài NCKH có chất
lượng, nhiều đề tài NCKH của sinh viên được gửi đi tham gia dự thi sinh viên
NCKH cấp Bộ. Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh phong trào
học tập “Vì ngày mai lập nghiệp trong sinh viên”, hàng năm nhà trường tổ chức
các kỳ thi Olimpic sinh viên với các môn: Toán, Lý, Hoá, Sinh, Tin học, Ngoại
ngữ, Mác-Lênin,…và nhiều câu lạc bộ chuyên ngành cho sinh viên toàn trường.
Trên cơ sở đó thành lập các đội tuyển Olimpic của trường tham gia dự thi
Olimpic cấp Quốc gia. Trong các kỳ thi Olympic quốc gia các môn: Toán học,
Vật lý, Hoá học, Tin học trường ĐHHĐ đã đạt giải cao về cá nhân và đồng
đội, nhất là các đội tuyển Toán và Tin học.
1.2. Vài nét về sinh viên bộ môn Tâm Lý – Giáo Dục
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La Tinh có nghĩa là người làm
việc phải học tập nhiệt tình, người tìm kiếm khai thác kiến thức.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Sinh viên là những người đang theo học tại các
trường Đại Học, cao đẳng”.
24
Sinh viên K14 ngành tâm lý học định hướng quản trị nhân sự trường Đại
Học Hồng Đức là những người đang theo học năm thứ nhất. Khi vào học ngành
này sinh viên ngành tâm lý học phải đáp ứng yêu cầu đào tạo của nhà trường
như:
* Về mặt kiến thức
- Người học nắm vững kiến thức chuyên sâu về tâm lý học, những kiễn
thức cơ bản về quản trị nhân lực, quản lý kinh tế, trong hoạt động xây dựng và

kế hoạch hóa nguồn nhân lực…cơ sở lao động.
- Ngoài những kiến thức cơ bản trên người học còn phải có được những
kiến thức về một số kiến thức cơ bản về luật liên quan đến con người, chính
sách xã hội, chính sách tiền công tiền lương, hiểu biết về luật pháp quốc tế,
trong điều kiện Việt nam trở thành thành viên WTO. Trên cơ sở những kiến thức
được trang bị đó sau khi tốt nghiệp người học có thể tiếp tục theo học ở các trình
độ cao hơn.
* Về kỹ năng
- Người học được rèn luyện và hình thành những kỹ năng cơ bản về thực
hành vận dụng những kiến thức tâm lý để tư vấn, quản lý và phát triển nguồn
nhân lực phục vụ cho việc sử dụng, quản lý người lao động ở các loại hình khác
nhau một cách hiệu quả.
- Sau khi tốt nghiệp người học có thể làm công tác nghiên cứu, vận dụng
kiến thức tâm lý, quản lý kinh tế…để làm tư vấn, tham vấn, sử dụng người lao
động hay trực tiếp tham gia vào công tác tổ chức, quản lý nguồn nhân lực trong
cá cơ quan hành chính - sự nghiệp nhà nước,trong các tổ chức chính trị. Xã hội
các công ty liên doanh, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau hoặc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động có sử dụng
kiến thức tâm lý học.
2. Thực trạng khó khăn tâm lý của sinh viên năm nhất theo học chế tín chỉ
của trường Đại Học Hồng Đức
2.1. Nhận thức trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất ngành tâm lý
học theo học chế tín chỉ
25

×