Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Vận dụng tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh vào việc phát huy dân chủ ở trường ĐH hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.55 KB, 21 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Viết bởi Lê Gia Thanh
Chủ nhật, 22 Tháng 8 2010 07:36

Điều 3, Luật giáo dục, năm 2005 của nước ta đã khẳng định: “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục Xã hội chủ

Tư tưởng phát triển toàn diện con người của Mác và Ăngghen trong “Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản” đã trở th

Một tư tưởng vĩ đại mà Mác và Ăngghen đã tuyên bố trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” đó là: “sự phát triển tự

“Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản ” còn nhấn mạnh làm cho con người được phát triển tự do đó là phát triển trí tuệ và

Tại diễn đàn Đại hội giáo dục toàn Nga lần thứ nhất, ngày 28-8-1918 [20] LêNin đã khẳng định vai trò to lớn của

Quan điểm coi giáo dục như là bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội, trong văn kiện “Những nhiệm vụ trước mắt củ

Một tư tưởng hết sức có ý nghĩa đối với thời kỳ công nghiệp hoá là tư tưởng về giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Từ đ
Khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” đã trở thành triết lý sống của hàng triệu, hàng triệu con

Những quan điểm giáo dục của Mác-Lênin đã rất gần gũi với thực tiễn giáo dục của đất nước ta. Đảng ta đã gắn
mới, đã đưa ra các định hướng chiến lược nhằm chấn hưng giáo dục đúng quy luật, hợp lòng dân, hoà vào trào lư

Giáo dục và văn hoá như hình với bóng, cái này sinh ra cái kia, hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo ra sự sinh tồn của lo

Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh , tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc đối vớ

Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại
Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò của giáo dục:



Nói đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu giáo dục thường nhấn mạnh đến sự đặc sắc tron

Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thiện ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Ngườ

Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc đổi bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọ

Hồ Chí Minh còn quan tâm chỉ đạo cho giáo dục tích cực phục vụ hoạt động kinh tế, làm cho hai lĩnh vực này liê
Về mục đích giáo dục:
Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời phấn đấu của Hồ Chí Minh đó là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống


Ngày nay nước ta đã được độc lập, dân ta đã được tự do, thanh niên đã là người làm chủ đất nước, vì vậy mục đí

Người đã chỉ rõ mục đích của việc học đó là: học để yêu Tổ quốc, học để yêu nhân dân, học để yêu lao động, học

Mục đích giáo dục lớn nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con ng
Nhiệm vụ giáo dục:

Người đã đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp học, cấp Đại học, cấp Trung học, cấp tiểu học. Ở cấp trung học, N
Về nội dung giáo dục:

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa theo Người: “trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con ngư
trọng cả tài và đức”, đức được coi như là “cái gốc” của cấy, “nguồn” của sông, nếu không có đức thì người có tài
Về phương pháp giáo dục:

Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưn
liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.

Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn


Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. G

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức gi

Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với h

Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang
Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng với việc phát huy dân chủ trong Đảng hiện nay.
Tác giả : Th.s Dương Thanh Bình - Gv Khoa Xây dựng Đảng
File đính kèm: Không có

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân chủ là chìa khoá vạn năng để
giải quyết mọi công việc khó khăn của cách mạng. Trong Đảng không có dân chủ
thì đời sống của Đảng sẽ trở nên “âm u” (1). Trước khi đi xa trong di chúc Người
căn dặn: “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết


và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người nhấn
mạnh thực hành dân chủ chứ người không nói là dân chủ. Phải chăng, Người thấy
việc nói về dân chủ trong Đảng nhiều nhưng thực hành dân chủ rộng rãi thì còn có
những hạn chế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ để làm cho Đảng mạnh, thì
phải mở rộng dân chủ”(2), trong Đảng “ phải thật sự mở rộng dân chủ để bày tỏ hết
ý kiến của mình” (3).
Như vây, phát huy dân chủ trong Đảng là phát huy dân chủ nội bộ. Trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy nhiều lần Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề

dân chủ trong Đảng. Trong bài viết “Xây dựng những con người của Chủ nghĩa xã
hội” in trên báo Nhân dân, ngày 25-3-1961, Bác viết: “Chúng ta phải làm đúng lời
dạy của Lê – nin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của Đảng nhưcon ngươi của mắt.
Phải hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ; tuyệt đối không được đôci
đoán cá nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”
(4), tập 10, trang 311.
Người nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự đoàn kết trong Đảng, nhất là
đoàn kết giữa các đồng chí cán bộ lãnh đạo. Khối đoàn kết đó được xây dựng trên
cơ sở sự thống nhất về tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ. Đồng thời cần tiến hành
phê bình và tự phê bình một cách rộng rãi, nhất là cần tổ chức cho nhân dân phê
bình cán bộ. “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng
cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải
kiên quyết chống cái thói “ cả vú lấp miệng em”, ngăn cản quần chúng phê bình.
Một đảng viên ở địa vị càng cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng
phải làm gương dân chủ” (5).
Trong tác phẩm “Sửa đối lối làm việc” đăng báo vào tháng 10 năm 1947, phần
“Sáng kiến và hăng hái” Bác viết: “ Chúng ta thường nêu vấn đề đó. Nhưng đến
nay cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì?
Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách
công tác của ta không được tích cực…
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán
bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê
bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng đối với Đảng rời
xa nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra.
Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên
cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác.
Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh
ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng
nhiều mồm”, sinh ra nói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác…
Dân chủ, sáng kiến, hăng hái ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm

cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì
nhưnmgx người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi


tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự
sửa chữa được nhiều. Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra”. (6)
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ trong nhân dân, Đại hội X của Đảng đã tổng
kết: “ Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc có tiến bộ” (7).
Tuy nhiên, Đại hội X cũng thẳng thắn chỉ ra: “ Dân chủ trong Đảng và trong xã
hội còn bị vi pham. Kỷ cương, kỷ luật nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự
đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ còn yếu”(8). “ Công tác tổ chức trên một số
mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.
Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ chức và cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ
thống chính trị, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước và
cán bộ, đảng viên. Còn thiếu những quy chế cụ thể đảm bảo phát huy dân chủ, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo
thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán
bộ một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình
thức”. (9).
Từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong Đảng và thực tiễn
mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và xã hội trong thời gian qua, để tiếp tục
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng hiện nay cần thực hiện tốt những vấn đề
sau:
Thứ nhất, cần sớm xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong Đảng. Từ đó
mỗi đảng viên và tổ chức Đảng, mọi cấp uỷ và người đứng đầu đều thấy được
quyền hạn và trách nhiệm của mình về thực hiện dân chủ trong Đảng, đồng thời đó
cũng là căn cứ đê giám sát dân chủ trong Đảng.
Mặt khác, các tổ chức cơ sở Đảng cần xây dựng quy chế nội bộ. Trong quy chế,

cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa bí thư với các thành
viên của cấp ủy; giữa đảng ủy, chi ủy với chính quyền, mặt trận và các đoàn thể
nhân dân... Mọi hoạt động của cấp ủy, chi bộ phải theo quy chế. Việc thực hiện
nghiêm quy chế sẽ giúp đảng ủy, chi ủy, chi bộ giữ vững được nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động, trong lãnh đạo và sinh hoạt; là cơ sở bảo
đảm; giữ vững và tăng cường khối đại đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, trong chi
bộ, cơ sở cho sự đồng thuận giữa tổ chức Đảng và chính quyền; ngăn ngừa những
biểu hiện chuyên quyền, độc đoán của cá nhân người đứng đầu. Đồng thời, cũng
góp phần ngăn chặn tình trạng lợi dụng dân chủ bôi nhọ, công kích lẫn nhau gây
mất đoàn kết nội bộ. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc, một mặt vừa đề cao vai
trò người đứng đầu, mặt khác vừa tạo điều kiện cho các cấp ủy viên và đảng viên
phát huy tinh thần chủ động sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, đề cao vai trò
trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc.
Thứ hai, thực hiện dân chủ trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của


Đảng.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam là nhờ có sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, trong đó vấn đề hàng đầu là Đảng phải xây dựng được
đường lối chủ trương đúng đắn. Để xây dựng đường lối đúng đòi hỏi Đảng ta phải
luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo, phải nắm bắt quy luật khách quan và xu thế phát
triển của thời đại; phải huy động được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Trong những thời gian gần đây, nhiều nghị quyết của Đại hội Đảng và Ban chấp
hành trung ương được lấy ý kiến đến từng chi bộ và tổ chức quần chúng. Tuy
nhiên vấn đề này chưa thành nề nếp trong nhiều tổ chức Đảng. Do đó trong thời
gian tới cần có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của tất cả các đảng viên trong
những vấn đề quan trọng của toàn Đảng, đồng thời cần phát huy dân chủ, đảm bảo
tôn trọng ý kiến của Đảng viên trong việc thông qua các nghị quyết chủ trương của
tổ chức Đảng.
Thứ ba, đảm bảo việc thực hiện các quyền của Đảng viên một cách thực sự. Quyền

của Đảng viên như đã được giải thích tại Đại hội IV của Đảng là quyền dân chủ
của Đảng viên. Nói cách khác, đó là quyền làm chủ của Đảng viên đối với các
công việc của Đảng. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội X đã xác định 6
quyền của đảng viên như sau:
1. Quyền được thông tin.
2. Quyền được thảo luận và biểu quyết.
3. Quyền được ứng cử, đề cử và bầu cử .
4. Quyền được phê bình, chất vấn kiến nghị và yêu cầu trả lời.
5. Quyền được trình bày ý kiến về bản thân mình.
6. Quyền được bảo lưu ý kiến khi ý kiến của mình thuộc về thiểu số.
Tất nhiên, việc mở rộng và dân chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật, đấu
tranh, xử lý những trường hợp lợi dụng dân chủ để có hành vi vu cáo hoặc gây rối
nội bộ.
Thứ tư, phát huy dân chủ trong công tác cán bộ.
Phát huy dân chủ, đặc biệt là dân chủ trong công tác cán bộ là một nội dung quan
trọng. Bởi vì cán bộ là gốc của công việc, mọi việc thành bại là do cán bộ tốt hay
kém. Thực tế cho thấy, trong Đảng có thực hành dân chủ và mở rộng, phát huy dân
chủ hay không, vai trò của cấp uỷ Đảng và người đứng đầu cấp uỷ là rất quan
trọng. Các cấp uỷ Đảng và người đứng đầu có nhận thức đúng, có thực hành dân
chủ trong nội bộ hay không thì nguyên tắc tập trung dân chủ và các quyền dân chủ
và quy chế làm việc mới thành hiện thực. Do đó cần phát huy dân chủ trong Đảng
để đảng viên có quyền lựa chọn được đội ngũ cán bộ của Đảng có phẩm chất chính
trị, có uy tín và năng lực lãnh đạo, thật sự tâm huyết với Đảng với dân. Đồng thời
cần đổi mới phương thức bầu cử, thực hiện rộng rãi việc bầu cử trực tiếp đối với
các chức danh trong Đảng
Thứ năm, xây dựng chế độ và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra


của cấp ủy cấp trên và giám sát của quần chúng.
Kiểm tra là một nội dung và hình thức lãnh đạo. Công tác kiểm tra của cấp uỷ cấp

trên nhằm phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ các tổ chức. Nhờ có
kiểm tra thường xuyên mà phát hiện được việc chấp hành đúng hay không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm chủ trương chính sách, điều lệ Đảng; phát
hiện kịp thời những vi phạm dân chủ để uốn nắn, khắc phục nhằm giữ vững kỷ
luật; kỷ cương của Đảng; giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo hoặc những thắc mắc
của cán bộ, đảng viên hoặc nhân dân. Đồng thời, cũng nhờ kiểm tra mà phát hiện
những điển hình tiên tiến để nhân rộng. Nhìn chung, việc kiểm tra của cấp ủy cấp
trên và giám sát của quần chúng được xây dựng thành chế độ sẽ góp phần xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đảng viên.
Muốn Đảng mạnh thì chi bộ phải mạnh, muốn chi bộ mạnh thì đảng viên phải
mạnh. Đảng viên là lực lượng quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên là yêu cầu quan trọng
để đảm bảo việc thực hiên dân chủ trong Đảng. Thực tế ở đâu chất lượng đảng viên
thấp thì ở đó cơ sở Đảng yếu kém, không phát huy dân chủ, phong trào yếu kém.
Đảng viên yếu kém hoặc hạn chế về năng lực trình độ thì khó tham gia đóng góp
được gì nhiều cho Đảng, thậm chí không dám đấu tranh chống lại các hiện tượng
sai trái mất dân chủ. Chất lượng đảng viên thể hiện ở trình độ chuyên môn, trình độ
chính trị, năng lực công tác, khả năng vận động, thuyết phục, tổ chức quần chúng
thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, ở tấm gương mẫu mực cho nhân dân noi
theo.
Phát huy dân chủ trong Đảng không chỉ là yêu cầu nội tại của công tác xây dựng
chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn là quy
chế bắt buộc để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
khắc phục bệnh độc đoán, chuyên quyền; bảo đảm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân. Để phát huy được sức mạnh của việc thực hiện dân chủ trong
hoạt Đảng cần phải thực hiện tốt những giải pháp từ việc làm tốt công tác chính trị
tư tưởng; nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; gắn việc thực
hiện dân chủ với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.


Trong phiên bế mạc sáng 19/1, Đại hội XI đã thông qua Nghị quyết
các mục tiêu phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015, như xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả giám sát cán
bộ.
Phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả giám sát cán bộ


Theo đó, mục tiêu 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp hiện đại.
Đại hội cũng đã thông qua năm nhiệm vụ chủ yếu là:
1- Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
2- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực;
phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc
làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội. Bảo vệ môi trường.
3- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
4- Tiếp tục phát huy dân chủ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp
quyền. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính
phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp;
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.

5- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm
tra, giám sát. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội cũng Quyết nghị, ngay trong nhiệm kỳ khoá XI, cần tập trung tạo chuyển
biến mạnh mẽ bảy nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục liên quan đến DN và dân;
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;


- Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống
giao thông;
- Cần đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập;
- Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống,
tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội);
- Đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí.
Tránh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng
Trong Đại hội, BCH Trung ương cũng điểm lại một số bài học trong nhiệm kỳ vừa
qua làm kim chỉ nam cho chỉ đạo, điều hành sắp tới.
1- Đầu tiên là mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân.
2- Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững.
3- Ba là, coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
4- Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng.

5- Cuối cùng, công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo,
bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp
phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận.
Đại hội xác định, 5 năm tới là giai đoạn kinh tế đứng trước nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường
thách thức nào.
- Đáng chú ý là, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới vẫn tồn tại.


- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn
nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
- Bên cạnh, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình",
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.
BCH Trung ương Đảng khoá XI và các cấp uỷ, tổ chức đảng xây dựng chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết.
Các chỉ tiêu chủ yếu của Nghị quyết phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm.
+ Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%;
+ Giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm.
+ Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD.
+ Cơ cấu GDP:
- Nông nghiệp 17 - 18%,
- Công nghiệp và xây dựng 41 - 42%,
- Dịch vụ 41 - 42%;
+ Sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng
GDP;

+ Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%.
+ Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến
năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu.
+ Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP.
+ Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP;
+ Giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015.
+ Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động.


+ Tỉ trọng lao động nông - lâm - thuỷ sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã
hội.
+ Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
+ Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%.
+ Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi.
+ Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm.
+ Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 – 43%.

TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CHĂM LO, BỒI DƯỠNG THẾ
HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU

I/ Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh vềchăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ với cách mạng và sự
phát triển của dân tộc.
- Thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng,
của dân tộc.
+ Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã
nhắc nhở: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu
đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” . Cũng năm
1925, khi truyền bá tư tưởng cách mạng cho dân tộc, Hồ Chí Minh chọn

đối tượng đầu tiên là thanh niên và Người tập hợp họ trong tổ chức Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Ngay ngày khai trừơng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hồ
Chí Minh căn dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà
trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tời đài vinh quang để


sánh vai với các cường quốc nam châu được hay không chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh niên:
“Người ta thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”.
- Thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử
đó.
+ Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai
cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng
của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”.
+ Với tuổi nhi đồng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nay các cháu là
nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới.
Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bìnhvà dân chủ, sẽ không có chiến
tranh.
Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm được việc gì
có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”
- Trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định, thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế
hệ đi trướng, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ
trẻ. Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy
trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho

đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau:
- Truyền thống dân tộc:


+ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam ta có truyền
thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dân ta vì trọng đạo làm người mà
tôn sư và coi trọng giáo dục. Mục tiêu là học để làm người, để trở thành
tài. Phương châm giáo dục truyền thống là “Tiên học lễ, hậu học văn” và
“cần khổ học”.
+ Hồ Chí Minh hấp thụ truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
của dân tộc ngay từ cái nôi gia đình và quê hương. Xứ Nghệ tuy đời
sống vất vả nhưng rất hiếu học, thời nào cũng sản sinh người hiền tài.
Hồ Chí Minh ảnh hưởng sâu sắc tấm gương kiên trì học tập của người
cha, tấm gương nhà giáo mẫu mực của ông ngoại.
- Sự khổ công học, khổ công luyện ngay từ nhỏ theo truyền thống
dân tộc và gia đình và trong suốt cuộc đời của Người.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa, những tri thức của
giáo dục phương Đông từ nhỏ và không ngừng bồi đắp thêm cho mình.
Sau khi đi khắp thế giới trở về nước, Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở
mọi người hãy nhớ lời Khổng Tử dạy “Học không biết chán, dạy không
biết mỏi”.
+ Hồ Chí Minh đi nhiều, học nhiều, tiếp xúc với văn minh và nền
giáo dục phương Tây, thấy rõ mối quan hệ giữa học đi đôi với hành, lý
luận kết hợp với thực tiễn.
- Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của
chủ nghĩa Mác-LêNin về giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ.
+ Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Bộ phận giác ngộ nhất của giai
cấp công nhân nhận thức rất rõ ràng tương lai của họ và do đó tương lai

của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công
nhân đang lớn”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc
trước hết phải thức tỉnh thanh niên”.
+ Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: “Không học thì không trở
thành người cộng sản được”, Hồ Chí Minh nói: “Đốt nát cũng là kẻ


địch”. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, và người cán bộ cách mạng
Việt Nam phải nhớ: “cán bộ phải có văn hóa làm gốc”, vì “muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức”; và khi “chủ nghĩa xã
hội gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật” thì đó là “bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

II. Những nội dung chính cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:

1. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân.
- Tố cáo thực dân Pháp thực thi ở Việt Nam chính sách ngu dân.
+ Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí Minh tố
cáo: “Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một
cách êm thắm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân
dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách
ngu dân triệt để”.
+ Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp cấu kết với phong kiến hạn
chế giáo dục và thực hiện giáo dục nhồi sọ làm hư hỏng các thế hệ trẻ
Việt Nam. Người viết: Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong
kiến đã dùng giáo dục nô lệ để nhồi sọ thanh niên ta, làm cho thanh niên
ta hư hỏng.

- Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện
nền giáo dục cách mạng. Nhưng “trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh
hưởng của giáo dục thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rồi đời sống lao động và đầu tranh của nhân dân; học để lấy bằng
cấp; học theo lối nhồi sọ”.


2. Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo
trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Giáo dục là bước đầu tiên.
+ Sau hơn một tháng đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác
định: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí” 1, vì
“Nuớc nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” 2.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có
cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng
không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là
bước đầu.” 3.
- Xây dựng nền giáo dục kháng chiến.
Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải phát triển
mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt
trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”4.
- Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định rõ: “Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp
giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”1.
Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi
hỏi đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải được nâng

cao, giáo dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế
hệ cách mạng, trong đó đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ.
3. Mục đích của giáo dục là chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng.
- Đào tạo cán bộ cho cách mạng.


Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho
dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân
dân”2. Cụ thể là nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo con em những
người lao động thành “những người công dân có ích cho nước Việt
Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lục sẵn só
của các em”.
- Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất
nước .
Về nhà trường, Người nói: “Trường học của chúng ta là trường học
của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân
và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt,
trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong
kiến.”1
- Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.
+ Với các cháu thiếu nhi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách dạy trẻ, cần
làm cho chúng biết: Yêu tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động,
giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hoá”2. Đó chính là con đường “làm cho
con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt và mai sau là
những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của
chế độ xã hội chủ nghĩa”.
+ Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tinh thần
yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối
với công nông, tuyệt đối trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà
Đảng và nhân dân giao cho”3.
+ Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng
giáo dục họ để “làm việc, làm người,làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn
thể, “giai cấp và nhân dan, Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt mục đích,
thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”1.


4. Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách
toàn diện.
- Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú
trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn
hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”2; “thành những người thừa kế xây
dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”3.
- Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được
trong bồi dưỡng giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964
Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, là rất quan trọng” 4; “Trên nền tảng
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao
chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề
do cách mạng nước ta và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh
cao của khoa học và kỹ thuật”1.
- Bồi dưỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể, mỹ”.
Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Giáo dục toàn diện, nhưng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối
tượng.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng
(ngày 30/10/1955) Người đã chỉ ra: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ
nhiệm vụ của mình trong lúc này”:
+ Đại học thì cấn kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức

học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực
tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước
nhà.
+ Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông
chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước
nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.


+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy
phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người
lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
5. Phương châm giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh.
- Học đi đội với hành, giáo dục gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết:
“Đối riêng với các em lớn, …Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp
nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến
tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài
giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho
quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong
cuộc phòng thủ đất nước”2.
Với các em nhỏ, Người khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức
thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả
đội đem nhau đi giúp đồng bào”3.
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương: “Chúng ta cần
phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc
cho các trường”1.

+ Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh,
sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: “Giáo
dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền
với sản xuất và đời sống của nhân dân”2.
- Phối hợp nhà trường – xã hội – gia đình.


+ Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một
phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho
việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn”.
Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết:
“Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà
trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt
lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”3.
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ
trẻ, nhất là Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: “Trường học,
gia đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng,
thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời
khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường học, gia đình và đoàn thể
thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi
vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát
biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ
nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối
bằng đầu”. Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ
cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm
lành canh ngọt để cho học sinh ăn no, học tốt.
+ “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy
đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật

chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa
cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ đó”1.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.


Người dạy: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc,
thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn
hóa”1; “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài
kháng chiến và kiến quốc”2.
- Giáo dục là một khoa học.
Người nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học” do vậy, cách dạy
trẻ “phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ
trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”.
Nhiều thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một
triệu chứng già sớm nên tránh)”3; ở bậc tiểu học, “cách dạy phải nhẹ
nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải
đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”4.



×