Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc – giai cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.13 KB, 8 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập
trường, quan điểm của một giai cấp nhất định. Chỉ đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Do
đó, việc giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp luôn là một vấn đề quan trọng
đối với các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam. Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam như thế nào? Người đã kế thừa
và sáng tạo quan điểm của Mác – Lênin về vấn đề này ra sao? Chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu trong phạm vi bài viết dưới đây.
B. NỘI DUNG
1. CÁC KHÁI NIỆM.
1.1. Khái niệm dân tộc.
Dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức
về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung (1).
1.2. Khái niệm giai cấp.
Giai cấp là những tập đoàn người trong xã hội, có địa vị khác nhau, có quan
hệ sản xuất khác nhau, có quan hệ tư liệu sản xuất khác nhau, có phương thức
hưởng thụ khác nhau về tài sản xã hội (2).
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận được mối quan hệ đó một cách đúng đắn dựa trên
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và đã tìm ra con đường giải phóng
cho dân tộc.
2. TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
2.1. Quan điểm của Mác – Lênin về mối quan hệ dân tộc – giai cấp.
−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
(1), (2): Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, trang 101, 245.

1



2.1.1. Nội dung quan điểm.
Theo Mác – Ăngghen, cần phải triệt để xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột giai
cấp thì mới có điều kiện xóa bỏ ách áp bức, bóc lột dân tộc, mới đem lại độc lập
thật sự cho các dân tộc. Đồng thời, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi
ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc, mới thực hiện
được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.
Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, Lênin chỉ rõ sự cần thiết phải thực
hiện liên minh giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với các dân tộc bị áp bức ở thuộc
địa. Theo ông, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành bộ phận quan trọng của
cách mạng vô sản; cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không giành
được thắng lợi nếu không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức ở thuộc địa. Từ đó, Lênin đã bổ sung vào khẩu hiệu chiến lược của Mác: “Vô
sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Điều đó cho thấy “Lênin
đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”(1).
2.1.2. Nhận xét, đánh giá.

Trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, cả Mác và Ăngghen
đều chú trọng đến vấn đề giai cấp hơn là vấn đề dân tộc, vì về cơ bản, vấn đề dân
tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong các cuộc cách mạng tư sản nổ ra trước đó;
nhất là Mác và Ăngghen lại chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc
địa. Vì vậy, các ông chỉ tập trung vào vấn đề giai cấp. Đồng thời, khi đó, hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành
độc lập chưa có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung
tâm của cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là
phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được
nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, trang 36.


2


Tóm lại, Mác, Ăngghen và Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ
yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều
hơn vào vấn đề giai cấp. Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn cách
mạng vô sản Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc – giai cấp.
Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ
bản của Mác – Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc – giai cấp trong cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trên cơ sở ấy, Người đã vừa
phát triển nhận thức, vừa xử lý mối quan hệ đó theo quan điểm mới phù hợp với
những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói
chung và Việt Nam nói riêng. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau:
2.2.1. Nội dung quan điểm.
Trong mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh chú trọng hơn tới
vấn đề dân tộc. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu là vấn đề dân
tộc thuộc địa, dân tộc bản xứ. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu
tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước
ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền
dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Vấn đề đó được biểu hiện
qua bốn nội dung chính:
Một là, các dân tộc thuộc địa trước hết phải đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc mình, sau đó mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, không được ỷ lại, chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Ba là, phải dựa vào sức mình là chính, biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến bộ toàn thế giới.
Bốn là, có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Những nội dung này đã được áp dụng hiệu quả vào thực tiễn cách mạng Việt

Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định “đường lối chiến lược cách

3


mạng của ta là tiến hành cuộc tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, phong
kiến và phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ
công nông binh, tổ chức quân đội công nông,…tiến hành cách mạng ruộng đất”

(1)

.

Ta không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, “đem sức ta tự giải phóng
cho ta" (2), biết tranh thủ đoàn kết vô sản và nhân dân lao động tiến bộ toàn thế giới
để tiến hành cách mạng. Điều này thể hiện rõ trong nội dung của Chỉ thị toàn dân
kháng chiến năm 1946: “…tính chất, phương châm kháng chiến chống thực dân
Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế” (3). Nhờ đó, ta đã có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô
sản thế giới qua những sự kiện lớn như: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp đã góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ “đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc” (4).
2.2.2.

Những nhân tố cơ bản để có thể tiến hành thắng lợi cách mạng

giải phóng dân tộc

Với những quan điểm mới đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhân tố cơ bản
để có thể tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc như sau:
Thứ nhất, động lực lớn của đất nước là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc. Theo đó, dân tộc và giai cấp, quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp luôn thống
nhất và phù hợp với lịch sử của xã hội Việt Nam. Bởi vì, trong lịch sử “Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước”(5). Còn ở thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân
−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
(1), (2): Bộ Giáo dục Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử 12 nâng cao, Nxb. Giáo dục, t. 153, 256.
(3): Gs Trương Hữu Quỳnh, Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục, 2006, t. 694.
(4): Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, 1997, trang 5 – 6.
(5): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, trang 466.

4


tộc đã chuyển thành “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” hay chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
hiện đại. Ở Việt Nam “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương
Tây”. Vì thế, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại vừa kế thừa tinh thần dân tộc
được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, vừa khác về
bản chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Nó có
nhiệm vụ giải quyết đồng thời hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa công, nông
với tư sản, phong kiến trong nội bộ dân tộc. Từ đó, Người đề nghị: “Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ
thắng lợi,… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” (1).
Thứ hai, đường lối cứu nước là đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ
đạo của cách mạng vô sản, nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở ấy, Hồ Chí Minh chỉ rõ: hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam là làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản và mục

tiêu giải phóng dân tộc, giai cấp, con người của cuộc cách mạng ấy. Khi cách
mạng thành công, phải thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, đảm bảo hài hòa giữa độc lập dân tộc với
tự do, hạnh phúc con người. Do vậy, giành được độc lập dân tộc rồi, phải đi lên
chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (2). Như vậy, sự phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, mục đích của đấu tranh không chỉ cho độc lập dân tộc mình mà còn
cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới. Với mục đích đó, ở
Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn thống nhất với sức mạnh thời đại. Theo
Hồ Chí Minh, mỗi Đảng Cộng sản trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc −−
−−−−−−−−−−−−−−−−−
(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, trang 467.
(2): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 1, trang 56.

5


mình. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Người không quên nghĩa vụ quốc
tế. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc,
cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu
“giúp bạn là tự giúp mình”, đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
2.2.3. Nhận xét, đánh giá.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc đã trở thành vấn đề cần giải quyết trước
tiên của cách mạng Việt Nam. Nước Việt Nam lúc bấy giờ tồn tại hai mâu thuẫn cơ
bản, đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, tay sai phản động
(mâu thuẫn dân tộc) và mâu thuẫn giữa nông dân – công nhân với địa chủ, tư sản
mại bản (mâu thuẫn giai cấp); trong đó mâu thuẫn chủ yếu và sâu sắc nhất là mâu
thuẫn dân tộc. Do đó, vấn đề đặt ra trước mắt không phải là làm ngay cách mạng vô
sản, mà phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, có độc lập mới có địa bàn để làm

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, do yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam cũng như các nước thuộc địa cần phát huy tính
chủ động, sáng tạo của mình trong việc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dựa vào sức
mình là chính và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Đây chính là những điểm sáng tạo của
Người từ quan điểm của Mác – Lênin về mối quan hệ dân tộc – giai cấp.
C. KẾT LUẬN
Các cuộc vận động cứu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
đều được dẫn dắt bởi ý thức hệ phong kiến hoặc tư sản nên đã không giải quyết
được những nhiệm vụ lịch sử của dân tộc ở giai đoạn mới. Xuất phát từ vị trí của
người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam và thực tế cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin trên lập
trường của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp, đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu, độc lập dân tộc gắn liền với xã hội
chủ nghĩa. Đúng như Ăngghen đã nhận định: Những tư tưởng dân tộc chân chính
trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.

6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***

1.

TS. Nguyễn Mạnh Tường, Tư tưởng Hồ Chí Minh – một số nhận thức cơ
bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

2.

Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia cán bộ môn khoa

học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

3.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005.

4.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

5.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 – Nâng cao, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2008.

6.

Gs Trương Hữu Quỳnh, Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo
dục, 2006.

7.

TS Nguyễn Duy Hùng, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002.

8.


Hoàng Thư, Tinh thần dân tộc ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo pháp luật, số
17/05/2010.

9.

Mai Hoa, Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, báo Công an Nhân dân, số
19/05/2010.

7


10.

Các trang web:
-

Báo Pháp luật TP HCM Online:



-

Bách khoa toàn thư mở:



- Tạp chí Xây dựng Đảng:




8



×