Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tư tưởng hồ chí minh về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.43 KB, 28 trang )

Bài thảo luận nhóm

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG I. VĂN HÓA VÀ TÍNH CHẤT CỦA VĂN HÓA

4

I. KHÁI NIỆM VĂN HÓA

4

1. Khái niệm văn hóa trong lịch sử

4

2. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh

6

II. Tính chất của văn hóa

7

1. Văn hóa có tính hệ thống

7


2. Văn hóa có tính giá trị

8

3. Văn hóa có tính nhân sinh

10

4. Văn hóa có tính lịch sử

11

CHƯƠNG II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TÍNH CHẤT
CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA

13

I. QUAN ĐIỂM VỀ TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA

13

II. QUAN ĐIỂM VỀ CHỨC NĂNG CỦA NỀN VĂN HÓA

14

1.Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp

14

2. Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí


15

3. Bồi dưỡng những phẩm chất phong cách và lối sống đẹp lành mạnh
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân

15

CHƯƠNG III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

17

I. QUAN NIỆM VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

17

1. Khái niệm

17

2. Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc

17

3. Bản sắc dân tộc- hệ giá trị

17

II. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

1.Điều kiện xã hội

18

2. Nền văn hóa tiên tiến

20

3. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

22

1


Bài thảo luận nhóm

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRƯỚC MẮT ĐỂ XÂY DỰNG 1 NỀN VĂN HÓA
TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

23

IV. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG MẶT TIÊU CỰC TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC

24

1.Những mặt tiêu cực trong đời sống xã hội

24


2. Giải pháp

24

KẾT LUẬN

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

28

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà khoa học, kĩ thuật và công
nghệ đã đem đến những biến đổi cực kì lớn lao cho cuộc sống con người, trở
2


Bài thảo luận nhóm

thành động lực vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia. Nhưng cũng chính ở thời điểm này, nhiều vấn đề tiêu cực và khủng
hoảng về xã hội đã nảy sinh trong đời sống, buộc chúng ta phải nhìn nhận lại
yêu cầu phát triển bền vững với vai trò, vị trí đặc biệt của văn hóa. Vì lẽ đó, trở
lại với quan điểm văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đất nước là
một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược vừa mang ý nghĩa thời sự quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một trong những nội dung cơ bản
của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và đã được nhiều công trình nghiên cứu.
Tuy nhiên, thực tiễn của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đòi hỏi phải tiếp tục

nghiên cứu sâu sắc hơn nội dung trên. Do đó chúng tôi chọn đề tài: "Quan điểm
Hồ Chí Minh về tính chất chức năng của văn hóa, vận dụng tư tưởng đó vào
việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"
làm đề tài tiểu luận tư tưởng của mình.
1.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; nghiên cứu cơ sở hình
thành, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng tư
tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
2.Đối tượng nghiên cứu của đề tài này
Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa; những
phương hướng, biện pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc ở Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.Cơ sở và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam.
Đề tài tiểu luận góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
và hướng đi đúng đắn của Đảng và nhà nước trên con đường xây dựng nền văn
hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG I
VĂN HÓA VÀ TÍNH CHẤT CỦA VĂN HÓA
I. KHÁI NIỆM VĂN HÓA
3


Bài thảo luận nhóm

1. Khái niệm văn hóa trong lịch sử
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy,
văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn

ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các
phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một
phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại
học Mỹ là Alfred và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa
khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề
cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo
cách gọi của Mỹ) hoặc dân tộc học hiện đại (theo cách gọi của Châu Âu), dân
gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,... và trong mỗi lĩnh vực
nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn
hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định
nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định
nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây:
1.1 Về mặt thuật ngữ khoa học
Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" mà nghĩa gốc là gieo
trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất" và Cultus
Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con
người". Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): "Lao động giành
cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần ".
Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao
hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa
rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, tập quán nào
mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội.
1.2 Các định nghĩa lịch sử

4



Bài thảo luận nhóm

Nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan
điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của
Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ: văn
hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống
trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng
xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống. Các định nghĩa chuẩn mực:
nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng hạn William Isaac Thomas
(1863- 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã
hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,...).
1.3 Các định nghĩa tâm lý học
Nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi,
hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một trong những cách định
nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 - 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư
Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là: Tổng
thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là
văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con
đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế
thừa.
1.4 Các định nghĩa cấu trúc
Chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa, ví dụ Ralph Linton
(1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa:
a.Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của
các thành viên xã hội.
b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được
các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa.
1.5 Các định nghĩa nguồn gốc
Định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của nó, ví dụ định nghĩa của
Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889- 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc

Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: Với nghĩa rộng
nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt

5


Bài thảo luận nhóm

động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và
tác động đến lối ứng xử của nhau.
1.6 UNESCO định nghĩa về văn hóa
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và
nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa
lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã
hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã
hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương
tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo
ra.
2. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Định nghĩa về văn hóa
Khái niệm "văn hóa" có nội hàm phong phú và ngoại diện rất rộng.
Chính vì vậy đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Tháng 8-1943, khi còn
trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định

nghĩa của mình về văn hóa. Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh có rất
nhiều điểm gần với quan điểm hiện tại về văn hóa. Người viết:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện

6


Bài thảo luận nhóm

của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan điểm phiến
diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần,
trong văn học nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình
độ học vấn... Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn
và cũng là mục đích cuộc sống của loài người.
2.2 Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
- Xây dựng tâm lí: Tinh thần độc lập tự cường.
- Xây dựng luân lí: Biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
- Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
- Xây dựng chính trị: Dân quyền.
- Xây dựng kinh tế.

Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã
thấy rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì
sao ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây
dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ
kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lí con người, đã sớm đưa văn hóa
vào chiến lược phát triển đất nước.
II TÍNH CHẤT CỦA VĂN HÓA
1. Văn hóa có tính hệ thống
Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật
thiết với nhau. Nhược điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là ở
chỗ coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. E.B.
Taylor định nghĩa văn hóa như một "phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen

7


Bài thảo luận nhóm

khác mà con người như một thành viên của xã hội tiếp thu được". Định nghĩa
văn hóa trong các loại từ điển, các công trình nghiên cứu... thường mở đầu bằng
câu: "Văn hóa là một tập hợp (hoặc phức hợp) của các giá trị..." Quan niệm
cảm tính này là sản phẩm của lịch sử, của thời kỳ chia tách các khoa học- khi
mà văn hóa chưa được coi là đối tượng của một khoa học độc lập.
Với tư cách là một khoa học lý luận, VĂN HÓA HỌC có nhiệm vụ
nghiên cứu văn hóa như một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do
các ngành khác (dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học...) cung cấp
với mục đích phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển.
Nghiên cứu văn hóa dân tộc theo lối này không chỉ là tìm hiểu "Cái gì?", mà
chủ yếu là tìm hiểu "Tại sao?" và "Như thế nào?" Nhờ đi vào bề sâu, tìm những

mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học sẽ cho phép ta, chẳng
hạn, nếu biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được
rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào... Từ đó, người
đọc có thể suy ngẫm và lý giải các tư liệu văn hóa mà anh ta bắt gặp.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn
hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi
phương tiện cần thiết để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
2. Văn hóa có tính giá trị
Trong từ "văn hóa" thì văn (ở Đông phương đối lập với "võ") có nghĩa
là "vẻ đẹp" (giá trị), hóa là "trở thành", văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp,
thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo
mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục
vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần).
Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm
my (chân, thiện, mỹ). Các giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù
giá trị tinh thần.

8


Bài thảo luận nhóm

Giá trị tinh thần còn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng (khoa học,
giáo dục...), trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua
kinh nghiệm ngàn đời, con người đã tích lũy được. Theo nghĩa này, văn hóa có
thể được xem như một dạng hoạt động: Theo L. White (1949), văn hóa là một
phạm trù khoa học biểu thị một lĩnh vực hoạt động đặc biệt chỉ có ở riêng xã
hội loài người, với những quy luật hành chức và phát triển riêng của mình. Tuy

nhiên, tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của nó hoặc những
hiện tượng phi văn hóa, loại ra những cách hiểu quá rộng, quy về văn hóa mọi
hoạt động của con người. Chẳng hạn, theo L. White (1975) thì thậm chí ngay cả
những hiện tượng như tội ác có tổ chức (maphia) cũng được xem là một loại
"véctơ văn hóa"!
Theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.
Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện
hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho
phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá
trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan- phủ nhận sạch
trơn hoặc tán dương hết lời. Nhờ vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng
có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét.
Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác
nhau sẽ có thể có hay không có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của
từng giai đoạn. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nô lệ với tính dã man của nó quen
được xem là phi giá trị. Song, ngay chính F. Engels trong "Chống Đuyrinh"
cũng đã từng nói rằng "nếu không có chế độ nô lệ cổ đại thì không thể có chủ
nghĩa xã hội hiện đại", bởi lẽ nhờ nó tạo ra sự phân công lao động trên một quy
mô rộng lớn mà nền văn minh Hy Lạp được hình thành. Mà như F. Engels giải
thích "nếu không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không thể
có châu Âu hiện đại được". Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong
kiến, vai trò của Nho giáo, triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư
duy biện chứng như thế. Bởi vậy, không thể áp đặt một quan niệm về phẩm

9


Bài thảo luận nhóm

chất của giá trị cho mọi không gian, mọi thời gian, không thể đưa khía cạnh này

vào ngay trong định nghĩa như có người đề nghị.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã
hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng tự hoàn thiện
và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và
phát triển.
Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng bộ phận là định hướng
các chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con người. Từ việc điều chỉnh xã
hội, văn hóa có chức năng phái sinh là động lực cho sự phát triển của xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO nhấn mạnh rằng văn hóa chiếm vị trí
trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển.
3. Văn hóa có tính nhân sinh
Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của
con người. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập với tự nhiên: nó là cái nhân tạo,
trong khi tự nhiên là cái thiên tạo. Nhưng nó không phải là sản phẩm của hư vô,
mà có nguồn gốc tự nhiên: văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác
động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người.
Đặc trưng này cho phép phân biệt loài người sáng tạo với loài vật bản
năng, phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo
của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất). Sự tác động của
con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để
chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên,
tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành,
hòn Vọng Phu...).
Như vậy, "văn hóa học" không đồng nhất với đất nước học như nhiều
người quan niệm (Vereschagin – Kostomaro 1983). Nhiệm vụ của đất nước học
là giới thiệu thiên nhiê - đất nước - con người, đối tượng của nó bao gồm các
giá trị tự nhiên. Và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó

10



Bài thảo luận nhóm

rộng hơn văn hóa học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn
đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn
hóa trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức
năng thứ ba của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là
nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc,
lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và
giao tiếp giữa các nền văn hóa.
4. Văn hóa có tính lịch sử
Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong
một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa
một bề dày, một chiều sâu, và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều
chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thống là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời gian
trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích
lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố
định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư
luận....
Truyền thống văn hóa tồn tại được nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là
chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng
giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng
cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang
hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó
mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con

người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Một đứa trẻ sau khi ra đời nếu được
sống với cha mẹ, nó sẽ được giáo dục theo truyền thống văn hóa nơi nó sinh ra,
còn nếu bị rơi vào rừng, nó sẽ mang tính cách của loài thú. Không phải ngẫu

11


Bài thảo luận nhóm

nhiên mà trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" (culture, cultura) đều
có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo dục...
Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế
tục của lịch sử: Nếu gien sinh học di truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con
người thì văn hóa là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại
cho các thế hệ mai sau.

12


Bài thảo luận nhóm

CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TÍNH CHẤT,
CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
I.QUAN ĐIỂM VỀ TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt
đầu ngay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề về văn hóa đã
được đặt ra và giải quyết ngay trong những ngày đầu của chính quyền cách
mạng, như: giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm,
chính, cấm hút thuốc phiện, lương giáo đoàn kết và tự do tín ngưỡng... Như

vậy, nền văn hóa mới ra đời đã gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hóa
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hóa kháng
chiến, kiến quốc, nền văn hóa dân chủ mới. Khi miền bắc bước vào thời thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa được xây dựng là nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau song nền văn hóa mới mà chúng
ta xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính chất: tính dân tộc,
tính khoa học và tính đại chúng.
Tính dân tộc của nền văn hóa được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái
niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu
bản chất rất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với
văn hóa của các dân tộc khác. Người cho rằng để được như vậy, phải "trau dồi
cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam", phải "lột tả cho hết
tinh thần dân tộc", đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường... của dân tộc. Người cho rằng, "nếu dân tộc hóa mà phát
triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó, vì lúc bấy giờ văn hóa thế
giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình và văn hóa của mình sẽ chiếm được
địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới". Tính dân tộc của nền văn hóa không
chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp

13


Bài thảo luận nhóm

của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp
với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến,
thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải
đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư

tưởng triết học mác xít, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín
dị đoan, phải biết gạn đục, khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tính đại chúng của nền văn hóa được thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải
phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói, "văn hóa
phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ công, nông, binh, tức là
phục vụ đại đa số nhân dân"; "quần chúng là những người sáng tạo, công nông
là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa...".
II. QUAN ĐIỂM VỀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa
có ba chức năng chủ yếu sau đây:
1. Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của
con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn
hoặc cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao
tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai
lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình
cảm thêm phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và
tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, của một
dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì không thể nói đến thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng chức
năng hàng đầu của văn hóa là phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,

14


Bài thảo luận nhóm


độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng "có tinh thần vì nước quên mình, vì
lợi ích chung và quên lợi ích riêng".
Tình cảm lớn theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu
con người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư, tật
xấu, sự sa đọa... Tình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ: Với gia
đình, quê hương, với bạn bè, anh em, đồng chí... Thông qua mối quan hệ tốt
đẹp, văn hóa phải góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân,
tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân và tin vào tiền đồ của cách mạng.
2. Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn
kiến thức của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết
viết, để có thể hiểu biết những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: kinh tế,
chính trị, lịch sử, khoa học kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề
nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải
phóng, toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có
thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu chung
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể
tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng"... Biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh
phúc". Đó cũng là mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh" mà Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới.
3. Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ, để hoàn thiện bản thân
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong
cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm
chất, trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị
trí công tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối

sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sống... Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm

15


Bài thảo luận nhóm

vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết
để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến phẩm chất đạo đức- chính trị. Bởi vì, nếu không có những phẩm
chất này thì họ không thể hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không
thể biến lý tưởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị con người. Văn
hóa giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt
đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng,
cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đấu làm cho cái
tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, càng nhiều, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng
giảm, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩa
đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý
quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng,
phù hoa xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

16


Bài thảo luận nhóm

CHƯƠNG III
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

I. QUAN NIỆM VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
1.Khái niệm
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết cá nhân- gia đình- làng xã- tổ quốc; lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh
tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm
đà trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
2. Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc
- Bản sắc văn hóa dân tộc giữ vị trí rất quan trọng, chính bản sắc văn hóa
dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại, đứng vững và phát triển qua các biến động
của lịch sử.
- Nhờ bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta biểu lộ được trọn vẹn sự hiện diện
của một bản sắc trong giao lưu với quốc tế. Mục tiêu của giao lưu là thông qua
giao lưu với nền văn hóa mới, ta hội nhập với văn hóa thế giới. Chỉ giữ được
bản sắc văn hóa dân tộc thì ta mới có điều kiện giao lưu bình đẳng với các nền
văn hóa thế giới. Còn sao chép, trở thành "cái bóng", "cái đuôi" của người ta thì
không còn có gì mà hội nhập bình đẳng.
Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, trước nguy cơ "đồng nhất" về
văn hóa thực chất là sự thống trị của văn hóa nước lớn, nước giàu thì bản sắc
dân tộc có ý nghĩa cực lớn.
3. Bản sắc dân tộc - hệ giá trị
Văn hóa, theo UNESCO, là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất
của một xã hội thể hiện trên mặt vật chất và tinh thần, tri thức và tình cảm. Văn
hóa mang bản sắc dân tộc.

17



Bài thảo luận nhóm

- Bản sắc dân tộc biểu hiện ở một số dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát
triển của nó, giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy nhất (tính độc đáo), tính
thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình.
- Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực trong đời sống- ý thức
thuộc về một dân tộc (cội nguồn), cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ
nước, cách sáng tạo văn hóa, khoa học, công nghệ.
- Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một
văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, tin tưởng thuộc phạm vi tốt
và xấu, hoặc không đáng mong muốn. Nó là những giá trị và những niềm tin,
mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
- Hệ giá trị biểu hiện trong tư tưởng triết học (thế giới quan) chính trị, văn
học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống (phong tục, tập quán).
- Hệ giá trị chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa
chọn trong hành động của con người, cá nhân và cộng đồng.
- Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức
mạnh to lớn đối với cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các
giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo
quy luật kế thừa và tái tạo.
II TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1.Điều kiện xã hội
Thực trạng đời sống văn hóa nước ta hiện nay là không phải vấn đề dễ
đánh giá. Có người quá bi quan với tình hình cho là trong khi đời sống kinh tế
có khá lên từ đổi mới đến nay thì đời sống tinh thần lại sa sút chưa bao giờ có.
Ngược lại, có người quá lạc quan cho mọi sự đều tốt đẹp, những hiện tượng tiêu
cực là tự nhiên và không đáng kể. Thật ra, bức tranh không chỉ có một màu,
hoặc toàn tối hoặc toàn sáng.
Trước hết, cần khẳng định đời sống căn hóa xã hội ta so với thời kỳ trước

có bước tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy tính năng động xã hội- kinh tế và tính tích
cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại trong
cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng dân
18


Bài thảo luận nhóm

trí được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người được khuyến khích,
tôn trọng. Những nét mới nổi bật ấy trong đời sống được phản ánh qua hoạt
động khởi sắc, phong phú, đa dạng trên các lĩnh vực báo chỉ, xuất bản, phát
thanh, truyền hình giáo dục, văn học, nghệ thuật,… Trong sự phong phú, đa
dạng và bộn bề của đời sống và hoạt động văn hóa, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sảng tạo vẫn là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng hướng. Kinh
tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt
động xã hội, phát triển giao lưu hàng hóa, du lịch và các sản phẩm văn hóa,
giúp nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn
phương. Các mặc trái của kinh tế thì trường và mở cửa, dù là tác động dữ dội,
đã không thể ngăn nổi nhân dân ta duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp,
như thấy rõ nhất vào những dịp kỉ niệm lớn, hướng về cội nguồn, về cách mạng
và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa những
người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn…
Đương nhiên, bức tranh không chỉ toàn màu sáng. Nghị quyết Trung ương
V đã nghiêm khắc chỉ ra những mảng tối cùng nguyên nhân chủ quan. Đó là
trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin lý tưởng ở một số người, kể cả
một bộ phận đảng viên, cán bộ. Đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc
biệt là nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, gian lận thương mại trước sự tấn công
của thói ích kỉ, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh đồng tiền và
chủ nghĩa thực dụng. Đó là một số hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có

trong quan hệ gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn
giá trị và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là trong một bộ phận dân cư, kể cả một số
thanh niên, học sinh, sinh viên sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử và cách mạng
đã xây dựng nên trong khi đó lại phục hồi không phân biệt tốt xấu các vốn của
dân tộc đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù quáng, phi
lí, kệch cỡm. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều gia tăng, sự đam mê nhu cầu vật
chất cùng những dục vọng thấp hèn, lối sống bất chấp đạo lí, dư luận xã hội và
pháp luật đang xô đẩy một số người đi vào con đường phạm tội. Tất cả những

19


Bài thảo luận nhóm

hiện tượng trên đang làm vẩn đục môi trường xã hội- văn hóa, gây bất bình
trong nhân dân, làm xói mòn nền tảng tinh thân xã hội, tạo miếng đất màu mỡ
cho sự xâm nhập những sản phẩm văn hóa độc hại ngoại lai.
2.Nền văn hóa tiên tiến
Trước tình hình xã hội đã phân tích ở trên, việc tập trung xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có tầm quan
trọng đặc biệt không chỉ cho hiện tại mà cả tương lai tổ quốc ta. Nhưng nền văn
hóa thế nào là “tiên tiến”? Thế nào là “đậm đà bản sắc dân tộc”?
Đọc nghị quyết trung ương V, ta có thể hiểu nền văn hóa tiên tiến có mấy
đặc trưng:
-

Một là Yêu nước

-


Hai là Tiến bộ

-

Ba là Có nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.

-

Bốn là, nhân văn: tất cả vì con người…

-

Năm là, tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.

Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp CNH, HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật
chất- kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động tối đa tiềm năng vật chất
và tinh thần của cả dân tộc, của tất cả các thành phần kinh tế. Chủ nghĩa yêu
nước ở đây là một động lực cực kì to lớn. Nền văn hóa tiên tiến do đó trước hết
phải là một nền văn hóa yêu nước. Có thể coi yêu nước là tiến bộ đặc trưng bao
quát nhất của văn hóa tiên tiến. Yêu nước là ý chỉ đưa đất nước thoát khỏi cảnh
nghèo nàn lạc hậu, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh đó là một nội dung tư tưởng lớn của nền văn hóa tiên tiến. Gắn liền với
yêu nước là tiến bộ. Nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa kết tinh tất cả
những gì là tiến bộ, là chân, là thiện, là mĩ của dân tộc, của thời đại, của loài
người.

20



Bài thảo luận nhóm

Nếu đặc trưng bao quát nhât của nền văn hóa tiên tiến là yêu nước thì hạt
nhân cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội dưới ánh sảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói văn
hóa không thể không nói đến hệ tư tưởng. Vì hệ tư tưởng chi phối quan niệm về
giá trị, chi phối đạo đức, lối sống và hành vi con người. Đành rằng hệ tư tưởng
không đồng nhất với văn hóa, không thể quy toàn bộ các giá trị văn hóa vào hệ
tư tưởng, nhưng xét chung và xét cho cùng, trong xã hội có giai cấp, văn hóa
bao giờ cũng có cốt tủy là hệ tư tưởng giai cấp. Vì vậy, thật sai lầm nếu đồng
nhất hệ tư tưởng với văn hóa, bởi văn hóa có nội hàm rộng hơn nhiều so với hệ
tư tưởng. Song, cũng phạm sai lầm nghiêm trọng nếu phủ nhận vai trò của hệ tư
tưởng đối với văn hóa, nhất là khi nói đếncả một nền văn hóa, cả một dòng văn
hóa. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu
không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất
vậ chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những
tư tưởng của giai cấp thống trị”.
Là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp (công nhân) như mọi hệ tư tưởng,
nhưng khác với bất cứ hệ tư tưởng nào khác, chủ nghĩa Mác- Lênin là học
thuyết cách mạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hóa nhân loại, hướng
vào giải phóng toàn xã hội, giải phóng con người, khắc phục triệt để tình trạng
con người bị tha hóa, tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con
người. Chủ nghĩa Cộng sản trong bản chất của nó như C.Mác, là “chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực”. Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
dân tộc và những hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hóa lớn Đông Tây, đến với
chủ nghĩa Mác- Lênin như một bước ngoặt quyết định hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Sự gặp gỡ thần kì này đã sản sinh ra một nhân cách, hơn thế, một
mẫu hình văn hóa mới, mẫu hình “văn hóa của tương lai” như nhà thơ Xô Viết

Mandenxtam với một tình cảm đặc biệt đã sớm khám phá từ năm 1923 khi tiếp
xúc với Bác. Như vậy, thật là chính xác và tự nhiên khi Nghị quyết Trung ương
V nêu lên mục tiên nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con người, vì hạnh phúc và
sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện con người trong mối quan hệ hài hòa

21


Bài thảo luận nhóm

giữa cá nhân và cộng đồng giữa xã hội và tự nhiên. Ở đây là tinh nhân văn cao
cả, trong đó giai cấp, dân tộc và nhân loại, cá nhân và xã hội, xã hội và tự nhiên
là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh- hệ
tư tưởng thấu suốt nền văn hóa mà chúng ta xây dựng.
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa còn phải thể hiện cả trong hình thức
biểu hiện, trong những cơ sở vật chất kĩ thuật, phương tiện để chuyển tải nội
dung. Ví dụ: Trong phong cách văn chương, trong công nghệ truyền hình, điện
ảnh, trong kiểu dáng kiến trúc, trong thiết kế những công trình tượng đài, những
khu vui chơi giải trí… Ở đây, tiên tiến thường có nghĩa là hiện đại song không
phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không được nhầm lẫn
hiện đại với “chủ nghĩa hiện đại” tắc tị, bệnh hoạn, nhất là trong nghệ thuật, văn
thơ.
3. Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam không tách rời bản sắc dân
tộc. Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc. Văn hóa bắt rễ sâu trong đời sống dân
tộc qua trường kì lịch sử. Văn hóa là bộ mặt tinh thần của dân tộc. Bản sắc dân
tộc của văn hóa, như người ta thường nói, là cái căn cứ cái chứng chỉ của một
dân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai, thiếu nó, anh không tồn tại như một giá trị. Lịch sử
mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc ta biết bao giá
trị truyền thống tốt đẹp. Đó là chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái bao dung, trọng

nghĩa tình, đạo lý, là tính cố kết, cộng đồng… Nhờ sức mạnh những giá trị đó,
dân tộc Việt Nam đã chiến thắng bao thử thách khắc nghiệt của thiên tai, dịch
họa để tồn tại và phát triển như ngày hôm nay. Bảo về phát huy bản sắc dân tộc
của văn hóa trước hết là bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần đó. Cố nhiên
bản sắc dân tộc có cả nội dung và hình thức. Cùng với những giá trị tinh thần,
bản sắc dân tộc của văn hóa còn được đặc trưng bởi các phương thức biểu hiện
độc đáo. Đó là tiếng nói của dân tộc, là tâm lý, là phong tục tập quán, là cách
cảm nghĩ của dân tộc, là những hình thức nghệ thuật truyền thống… Nước ta có
54 dân tộc. Trong nền văn hóa đa dân tộc của nước ta, mỗi dân tộc anh em đều
có bản sắc riêng của mình. Giữ gìn và phát huy, mỗi dân tộc anh em đều có bản

22


Bài thảo luận nhóm

sắc riêng của mình. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của tất cả dân tộc anh
em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo nên
sự phong phú đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRƯỚC MẮT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT NỀN
VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Để góp phần thực hiện tư tưởng cốt lõi của đảng ta về văn hóa, trước mắt cần
tiến hành tốt những giải pháp lớn sau đây:
- Trước hết, phải tạo ra bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức của toàn
Đảng và toàn xã hội, tiếp tục củng cố niềm tin ở chủ nghĩa Mác- Lênin và con
đường tiến lên CNXH, có nhận thức đứng về lý tưởng, lẽ sống, nếp sống phù
hợp với truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng.
- Tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoàn chỉnh hệ thống chính sách phát
triển văn hóa, nhất là trên lĩnh vực cấp bách: nâng cao các hoạt động văn hóa
thông tin ở cơ sở; bảo tồn; tôn tạo các di tích lịch sử- văn hóa; phát triển các

loại hình nghệ thuật; sưu tầm khai thác các vốn văn hóa dân tộc…
- Phải đổi mới cơ chế phát triển sự nghiệp văn hóa trong điều kiện cơ chế
thị trường. Trên cơ sở định hướng chính trị và pháp luật, nêu cao vai trò nòng
cốt của các cơ quan văn hóa, nghệ thuật của nhà nước; từng bước thực hiện xã
hội về văn hóa.
- Tạo chuyển biến tích cực trong xây dựng đạo đức, nếp sống văn minh,
ngăn chặn có hiệu quả các tệ nạn xã hội, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội,
những hủ tục và nếp sống không lành mạnh, khắc phục tình trạng thoái hóa,
biến chất của một số cán bộ đảng viên những hủ tục và tệ nạn xã hội đang có
chiều hướng gia tăng ở cả thành thị, nông thôn và miền núi.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ những người hoạt động văn hóa, mở rộng
hợp tác quốc tế về văn hóa.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Nâng cao hiệu lực quản lí của nhà
nước trong sự nghiệp quản lí và phát triển văn hóa, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

23


Bài thảo luận nhóm

IV. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG MẶT TIÊU CỰC TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Những mặt tiêu cực trong đời sống văn hóa xã hội
Đối với nước ta hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa với cả hai mặt tích cực
và tiêu cực kể trên lại đồng thời diễn ra cùng với quá trình nền kinh tế quốc dân
chuyển sang sử dụng cơ chế thị trường và chính sách mở cửa nhằm đẩy nhanh
nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đẩy tới một bước sự nghiệp CNH, HĐH.
Bên cạnh những tiến bộ và thành tựu to lớn đã đạt được trong 10 năm qua,
cơ chế thị trường và chính sách mở cửa cũng đã và đang làm cho chúng ta phải

đối mặt với nhiều hiện tượng đáng lo ngại trong đời sống văn hóa của đất nước.
Tâm lí sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, chỉ coi trọng các tiện nghi vật
chất đơn thuần mà xem thường các giá trị văn hóa náy sinh trong một bộ phận
dân cư. Bệnh sùng ngoại, chạy theo lối sống tiêu thụ của phương Tây lây lan
trong không ít người nhất là trong lớp trẻ. Các sách báo, tranh ảnh, băng nhạc,
băng hình có nội dung kích động, bạo lực, nhập lậu ồ ạt gây tác động xấu đến
nhiều thuần phong mĩ tục của dân tộc…
2. Giải pháp
Để đấu tranh đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực kể trên, làm lành mạnh
hóa đới sống vật chất và tinh thần của dân tộc, bên cạnh pháp luật và các chính
sách kinh tế- xã hội khác, việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc để làm cơ sở
định hướng cho việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế của nước ta ngày nay
được xem là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Những bài học kinh nghiệm ngàn đời của cha ông ta trong quá trình giao
lưu văn hóa với thế giới trước đây cần được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện để
khai thác, vận dụng để phát triển sáng tạo trong điều kiện mới ngày nay. Làm
được như vậy, chúng ta có thể vững tin và chủ động tăng cường giao lưu văn
hóa với các nước trên cơ sở biết mình biết người một cách thực tế khách quan.
Cần biết cả chỗ mạnh, chỗ yếu của mình và của người, qua đó mà lựa chọn tiếp
thu các yếu tố nhân bản, hợp lí khoa học tiến bộ của văn hóa thế giới- cả
phương đông và phương tây để làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc,

24


Bài thảo luận nhóm

xem đó là nhân tố cực kì quan trọng thức dậy các tiềm năng, phát huy mọi
nguồn cảm hứng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong
quá trình CNH, HĐH đất nước.

Chúng ta không tự kìm hãm mình trong tính riêng biệt văn hóa khước từ
giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Đồng thời, chúng ta cũng kiên quyết
phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ” của văn hóa ngoại lại mà
không phân biệt hay dở, tốt xấu để đi đến chỗ mất gốc, lai căn và cuối cùng khó
tránh khỏi sẽ bị đồng hóa, bị hòa tan chứ không phải là hội nhập với nền văn
minh nhân loại.
Trong kinh tế, sự đa dạng của phân công mới làm nảy sinh tính tất yếu
của giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia. Trong văn hóa lại càng như vậy. Do đó
chỉ có trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc và cốt cách riêng của căn hóa Việt
Nam nghĩa là tính độc đáo của nó trong quá trình vươn tới sự hoàn thiện con
người hướng chân thiện mĩ thì văn hóa dân tộc mới có sức nặng trong tiếp xúc
đối thoại với các nền văn hóa khác, nhất là mới có những cái đáng giá để góp
vào kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng của nhân loại.
Thực hiện được như thế thì chắc chăc công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước của chúng ta, trong đó có đổi mới về giao lưu văn hóa thế giới sẽ gặt hái
được nhiều hoa thơm quả ngọt vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.

25


×