Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bài tập lớn học kỳ Tư Tưởng Hồ Chí Minh Điều kiện lịch sử xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.53 KB, 7 trang )

Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh

A. MỞ BÀI
Hồ Chí Minh, con người vĩ đại của dân tộc, một vĩ nhân của thế giới đã ra đi
vào ngày 2-9-1969 trong niềm thương tiếc vô hạn của nhân dân Việt Nam. Người
ra đi để lại cho dân tộc cả một kho tàng tri thức trên mọi lĩnh vực. Nhưng giá trị
và có ý nghĩa hơn cả đó chính là hệ thống tư tưởng của Người. Có thể nói tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta và là ngọn đuốc soi
đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam suốt hơn mấy chục năm qua. Đồng thời
tư tưởng của Người còn tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới đất nước trong
thời đại ngày nay. Đó là hệ thống tư tưởng, quan điểm cơ bản phản ánh sâu sắc
thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thuộc địa, trên cơ sở kế thừa, vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc, trí tuệ nhân loại,
nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, con người. Tư tưởng đó là sản phẩm tất yếu
của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những
nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỉ XX đến nay. Nó
được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử - xã hội cụ
thể của dân tộc và thời đại mà Người đã sống và hoạt động. Thiên tài Hồ Chí
Minh là ở chỗ Người đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để
tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.

B. THÂN BÀI
Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Xã hội Việt Nam thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX
Suốt thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ,
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ được triều đại Tây Sơn, chính quyền
nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động:
tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan tỏa cảng đối với bên
ngoài, không tạo cơ hội để dân tiếp xúc với thế giới văn minh; vẫn duy trì nền


kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là chủ yếu, không mở trường đào tạo khoa
học, kĩ thuật, kinh tế; cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư
tưởng đương thời, dù là nhỏ bé và đã quá muộn mằn nên đã không mở ra được
khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới,
đặc biệt là với thị trường tư bản Tây Âu. Vì vậy, đã không phát huy được thế
mạnh của dân tộc và đất nước ( về địa lí – chính trị, tài nguyên, con người thông

1


Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh

minh, cần cù, dũng cảm...); không tạo ra được tiềm lực vật chất và tinh thần đủ
sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta,. Để rơi vào cảnh mất nước, trách nhiệm đó trước hết thuộc về bọn vua
chúa nhà Nguyễn.Nói như vậy để khẳng định: việc chúng ta mất nước vào cuối
thế kỉ XIX không phải là một định mệnh lịch sử. Dân tộc Việt Nam, trong quá
khứ đã từng đọ sức với những kẻ thù hùng mạnh hơn mình gấp bội mà vẫn chiến
thắng oanh liệt. Tri thức đánh giặc vốn là một troang những đỉnh cao của trí tuệ
Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam. Nếu
những người cầm quyền sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, trông dựa vào nhân
dân, ngoài cải thiện bang giao, chuẩn bị thực lực, quyết tâm lãnh đạo nhân dân
kháng chiến, bảo vệ đất nước thì mươi nghìn quân Pháp không phải là một lực
lượng bất khả chiến thắng. Nhưng triều đình nhà Nguyễn đã từng bước nhượng
bộ đi từ quan điểm chủ chiến đến quan điểm chủ hòa, rồi cuối cùng cam chịu đầu
hàng để mưu giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của chúng. Kể từ khi triều đình
nhà Nguyễn kí Hiệp ước Patonot (6-6-1884) chịu sự bảo hộ của đế quốc Pháp, trừ

một số ít người cam tâm tình nguyện làm tay sai cho giặc, còn đại đa số người
dân Việt Nam vẫn nung nấu chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự giải phóng.
Lớp lớp sĩ phu đồng bào yêu nước đã liên tục đứng lên chiến đấu giành độc lập.
Các phong trào vũ trang kháng chiến chống thực dân Pháp của quần chúng nhân
dân lần lượt xuất hiện và lan rộng trong cả nước: Ở Nam Bộ có Trương Định,
Nguyễn Trung Trực...; ở Trung Bộ có Trần Tấn, Đặng Thai Mai, Nguyễn Xuân
Ôn, Phan Đình Phùng...; ở Bắc Bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang
Bích...Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và
ý chí căm thù giặc sục sôi. Những phong trào đó đã viết lên những trang sử vẻ
vang của dân tộc, song cuối cùng đều bị thất bại vì còn mang nặng hệ tư tưởng
phong kiến,chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo họ là các sĩ phu
văn thân mang ý thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân. Điều đó cho
thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử. Tuy nhiên có
thể nói chủ nghĩa yêu nước của họ là chân chính vì đã giám đứng lên chiến đấu
tới cùng.
Bước sang đầu thế kỉ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc đấu
tranh vũ trang của nhân dân ta, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Đất
2


Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh

nước ta rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa của thưc dân Pháp. Xã hội
Việt Nam bắt đầu có sự chuyển biến và phân hóa. Giai cấp công nhân, giai cấp tư
sản xuất hiện. Bên cạnh đó “ Tân thư”, “Tân văn”...cùng với cuộc vận động cải
cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp
vào Việt Nam. Dưới tác động của những nhân tố mới, các phong trào yêu nước
Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản, như: phong trào Đông Du,

Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội,...Những phong
trào ấy đã ghi thêm vào những trang sử vẻ vang của dân tộc, song cuối cùng cũng
bị thất bại, vì còn gắn với hệ tư tưởng tư sản. Hệ tư tưởng tư sản lúc này đã trở
nên lỗi thời và lạc hậu ở phương Tây, hơn nữa lại được các sĩ phu phong kiến
truyền bá nên còn nhiều hạn chế và bất lực trước những nhiệm vụ lịch sử của đất
nước. Ngoài ra các phong trào này còn chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân,
chưa huy động được sức mạnh đoàn kết dân tộc. Đất nước ta vẫn bị rơi vào cảnh
nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa của thực dân Pháp. Đám mây đen của chủ nghĩa
thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam. Khi Nguyễn Tất Thành lớn lên, phong
trào cứu nước đầu thế kỉ XX đã rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc nhất, tưởng
chừng như không có đường ra. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (21907 ); cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp
đẫm máu (4-1908), vụ Hà Thành bị đầu độc bị thất bại và tàn sát ( 6-1908), căn
cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá(1-1909); phong trào Đông Du bị
tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật (21909), các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung kỳ, người bị lên máy chém
( Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi,...), người bị đày ra Côn Đảo ( Phan Chu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...).
Như vậy những dẫn chứng trên cho thấy cả hệ tư tưởng phong kiến và hệ
tư tưởng tư sản đều không đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử. Dân tộc Việt Nam rơi
vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Phong trào cứu nước của nhân dân ta
muốn dành thắng lợi phải đi theo một con đường mới. Điều đó đặt ra vấn đề cấp
bách là phải đi tìm lối đi cho dân tộc.
2. Quê hương và gia đình
Vào thời kì đó, trên quê hương Nghệ Tĩnh, Nguyễn Tất Thành được sinh
ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, gần gũi với nhân dân.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến, có
3


Khoa lí luận chính trị


Tư tưởng Hồ Chí Minh

lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Tấm gương lao dộng cần cù, tấm gương về ý
chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư
tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị xã hội của cụ Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành nhân cách
của Nguyễn Tất Thành. Sau này, cái chủ thuyết học được ở người cha bắt gặp
trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được Nguyễn Ái Quốc nâng lên thành tư
tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình. Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ
Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm,; đó cũng là
quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc
Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung; các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình
Phùng, Phan Bội Châu,... và biết bao con người ưu tú khác của dân tộc Việt Nam.
Mảnh đất Kim Liên cũng đã thấm mấu anh hùng của biết bao liệt sĩ chống Pháp
như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến,... cả chị và anh của Nguyễn Tất
Thành cũng đều tham gia hoạt động yêu nước, chống Pháp, bị bắt giam lưu đày
hàng chục năm. Không phải ngẫu nhiên mà Nghệ Tĩnh có vinh dự sinh ra vị anh
hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất của nước Việt Nam
mới.
Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến một cảnh ngộ đối lập giữa cuộc
sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, đọa đày của nhân dân mình, đồng bào mình
với cuộc sống xa hoa, đồi trụy, những tội ác dã man, tàn bạo của những tên thực
dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bè lũ quan lại Nam triều. Những bài học
thất bại của những nhà yêu nước tiền bối, đương thời cũng đã tác độngkhông nhỏ
tới Nguyễn Tất Thành.Chính những điều đó đã ảnh hưởng và nuôi dưỡng lí tưởng
yêu nước của Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu và theo suốt quá trình cách mạng.
Bởi vì, ở Người tư tưởng yêu nước, thương dân, của đồng bào luôn luôn có sự
gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. Chính điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Bằng trực giác, Nguyễn Tất Thành nhận
thấy rằng muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì không thể đi theo con đường các
bậc tiền bối đã đi, mà cần phải tìm ra một con đường mới. Và, Người đã quyết

định đi Pháp và từ Pháp đến các nước khác xem họ làm như thế nào, học tập rồi
trỏ về giúp đồng bào mình. Ở đây, Người sẽ không thể thành công được nếu
không đến được với trào lưu mới của thời đại.
3. Thời đại
4


Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh

Trên phạm vi thế giới, từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa
tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền,
tức chủ nghĩa đế quốc và xác lập được sự thống trị của chúng trên phạm vi thế
giới. Chủ nghĩa đế quốc là một hiện tượng quốc tế, một hệ thống thế giới, chúng
vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc
nhỏ yếu trong kìm kẹp thuộc địa của chúng. Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc sang thế kỉ XX không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại
sự xâm lược và thống trị của các nước khác như trước kia, mà đã trở thành cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế. Trong điều kiện
lịch sử mới, mỗi thuộc địa là một mắt khâu của hệ thống đế quốc, do đó cuộc giải
phóng dân tộc của mỗi nước nếu chỉ tiến hành riêng rẽ thì không thể nào giành
được thắng lợi. Sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế
kỉ XX không phải do nhân dân ta thiếu anh hùng, các lãnh tụ phong trào kém
nhiệt huyết mà vì họ không nhận thức được đặc điểm của thời đại nên vẫn tiến
hành đấu tranh theo đường lối và phương pháp cũ: tự mình nổi dậy đấu tranh như
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám; đấu tranh không thắng nổi thì đi cầu ngoại
viện, như trường hợp của Phan Bội Châu và nhiều người khác.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc

điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử, Người đã thấy rõ con đường của các
bậc cha anh là cũ kĩ, không đem lại kết quả. Người quyết tâm ra đi để tìm một
con đường mới. Nguyễn Tất Thành đã đi qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt
chân lên khoảng gần ba mươi nước. Đến khoảng cuối năm 1917, Người từ Anh
về Pháp, đến sống và hoạt động ở Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn hóa,
khoa học và chính trị của châu Âu. Nhờ lăn lộn với phong trào quần chúng, sát
cánh với những người yêu nước Việt Nam và những người cách mạng từ các
thuộc địa của Pháp, Người đã nhanh chóng tiếp cận với phái tả và gia nhập Đảng
xã hội Pháp năm 1919- một chính đảng duy nhất ở Pháp lúc bấy giờ bảo vệ, tỏ sự
đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột và theo
đuổi những lí tưởng cao đẹp của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Cùng
năm đó, nhân dịp Hội nghị hòa bình được tổ chức tại Vécxây, nhân danh những
người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc kí tên và gửi tới Hội nghị bản Yêu
sách của nhân dân An Nam với mong muốn được giúp đỡ để giành lại độc lập, tự
5


Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh

do cho dân tộc. Nhưng bản Yêu sách này đã không được chấp nhận. Qua sự thật
này, Nguyễn Ái Quốc đã nhận rõ bản chất giả dối của chủ nghĩa đế quốc và rút ra
được bài học là muốn được giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân
mình, vào lực lượng của mình. Không thể tin theo những tuyên bố bằng lời nói
của chủ nghĩa đế quốc mà cần phải nhận rõ những hành động của họ đằng sau
những lời tuyên bố ấy- gọi là “ Hội nghị hòa bình”, song trên thực tế là để thỏa
thuận giũa các nước đế quốc với nhau trong việc phân chia lại thị trường thế giới.
Tuy nhiên đến lúc đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa ý thức được đầy đủ và rõ
ràng về con đường giải phóng dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa nếu không

có tác động quyết định của hai sự kiện vĩ đại là Cách mạng tháng Mười và việc
thành lập Quốc tế thứ III. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười ở Nga thành công,
tháng 3 – 1919 V.I. Lênin thành lập Quốc tế III thay thế Quốc tế II. Thêm vào đó,
việc Nhà nước Xôviết non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế
quốc vào nước Nga, đồng thời giải quyết xong vấn đề nội chiến là những sự kiện
vĩ đại làm thay đổi cục diện chính trị của tình hình thế giới với lợi thế nghiêng về
nước Nga, về phong trào vô sản và làm cho bầu không khí chính trị của các nước
châu Âu trở nên sôi động, nhất là trong Đảng xã hội Pháp. Chính những sự kiện
đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc. Là một đảng viên hoạt động tích cực trong Đảng xã hội Pháp,
Nguyễn Ái Quốc không thể đứng ngoài cuộc tranh luận: Muốn tham gia đấu
tranh, phải tìm hiểu về lí luận. Tháng 7 – 1920, báo Luymanite đăng Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin và các
văn kiện khác chuẩn bị đưa ra Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Trước khi tiếp cận
với Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sơ bộ đi đến kết luận: chủ nghĩa
tư bản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng
bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, “ dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Đến khi đọc Luận cương của V.I.
Lênin trong một cuộc họp, thấy Lênin diễn đạt một cách đầy đủ và sâu sắc những
điều mình đang nung nấu, Người đã mừng rỡ đến trào nước mắt, đã reo lên như
tìm ra một phát kiến vĩ đại ! Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế III và tham
gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đã giúp Người tìm thấy con đường
6


Khoa lí luận chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh


chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và dánh dấu bước chuyển
căn bản trong tư tưởng của Người – từ lập trường dân tộc sang lập trường giai
cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Hồ Chí
Minh với trí tuệ của dân tộc và trí tuệ của thời đại. Chính sự vận động, phát triển
của tư tưởng yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX đến những năm 20 của thế kỉ
XX, khi bắt gặp chủ nghĩa Mác- Lênin, đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ tiếp thu, vận dụng sáng tạo, Hồ CHí Minh từng bước góp phần bổ sung, phát
triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin bằng những luận điểm mới, được rút
ra từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình.

C. KẾT LUẬN
Trên đây là bối cảnh và điều kiện lich sử- xã hội hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong điều kiện đó, bắt nguồn từ những giá trị truyền thống dân tộc, từ
tinh hoa văn hóa nhân loại, chủ nghĩa Mác – Lênin và từ những phẩm chất cá
nhân của Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được hình thành tạo nên một hệ
thống tư tưởng có giá trị lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu về
điều kiện hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần vào việc nhận thức một
cách đúng đắn và vận dụng sáng tạo nội dung của tư tưởng trong giai đoạn xây
dựng đất nước hiện nay.

7



×