Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phân tích điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.58 KB, 7 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU.
Hồ Chí Minh- anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới,
người thầy vĩ đại của cách mạngViệt Nam. Người đã để lại cho chúng ta những hệ
thống quan điểm toàn diện sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Điều đó đựoc thể hiện
trong tư tưởng của người và nó có ý không chỉ trong quá khứ mà cả trong thời đại
ngày nay. Vậy tư tưởng đó được hình thành như thế nào?Yếu tố lịch sử xã hội tác
động đến việc hình thành tư tưởng ra sao?Để tìm hiểu rõ về vấn đề này hơn em đã
lựa chọn đề bài số 2: “ Phân tích điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh ” để hoàn thiện bài tập lớn của mình. Bài làm của kết cấu gồm 3 phần: Mở
bài, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội dung chia làm 3 phần nhỏ
1) Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
2) Quê hương, đất nước
3) Yếu tố thời đại
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều song trong quá trình hoàn thiện bài của mình,
em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
từ phía thầy cô để bài em trở nên hoàn thiện hơn.Em xin trân thành cảm ơn
II. NỘI DUNG.
1) Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Đến hết thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến điển hình dưói sự
cai trị của triều đình nhà Nguyễn (An Nam). Đây là một xã hội bảo thủ và phản
động với nhiều chính sách cai trị hà khắc, bóc lột nhân dân một cách sâu sắc làm
cho nền kinh tế ngày càng đi xuống và tụt hậu, đời sống nhân dân cực khổ, lầm
than.
Tính bảo thủ của triều đình nhà Nguyễn thể hiện ở chỗ: Nhà Nguyễn vẫn duy trì
một nền kinh tế tự nhiên( tự cung, tự cấp) lấy nông nghiệp lạc hậu làm nền tảng,.
Cuộc sống con người An Nam hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, điều đó làm
cho cuộc sống người dân trở lên cơ cực. Công nghiệp cũng bị thâu tóm trong tay
triều đình chỉ phụ vụ triều đình là chủ yếu. Các nghề thủ công trong nhân dân
không có điều kiện phát triển. Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sút kém một cách
1
rõ rệt. Chính sách "trọng nông ức thương" của triều đình đã kìm hãm thương


nghiệp. Bên cạnh đó, xã hội phong kiến vẫn thi hành trật tự xã hội cũ mặc dù trật
tự này đã không còn phù hợp nữa. Bộ máy nhà nước được tổ chức một cách quan
liêu độc đoán, chuyên quyền, quyền lực tập trung trong bộ phận địa chủ và quan
lại, người dân nghèo khổ lại chiếm số đông trong xã hội, tạo nên mâu thuẫn gay
gắt trong lòng xã hội từ rất lâu mà chưa có cách nào giải quyết. Trong khi đó, thế
giới đã đạt được những thành tựu khoa học đáng kể nhờ cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật thì An Nam ngày càng tụt lùi trên tất cả các mặt, dặc biệt là kinh tế. Triều
đình nhà Nguyễn vẫn duy trì sự bảo thủ của mình, không mở trường dạy khoa học,
kỹ thuật tiên tiến để cải thiện đất nước. Bế quan toả cảng, không cho giao lưu buôn
bán và trao đổi với thế giới bên ngoài làm bó hẹp sự phát triển kinh tế, văn hoá,
khoa học và kỹ thuật. Điều này đã ngăn An Nam tiếp cận với thế giới văn minh
bên ngoài. Và triều đình nhà Nguyễn đã cự tuyệt mọi đề án cải cách canh tân của
nhiều nhà tư tưởng đương thời vì sợ quyền lực của mình bị lung lay. Các mâu
thuẫn vốn có trong xã hội, cộng thêm vào đó nền kinh tế kém phát triển đã làm cho
triều đình nhà Nguyễn không có đủ sức mạng để bảo vệ tổ quốc, chống lại kẻ thù
bên ngoài.
Tính phản động của triều đình Nhà Nguyễn:Rõ ràng là với những chính sách
phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi
ngon đối với các nước tư bản phương Tây, đặc biệt đối với tư bản Pháp.Sáng ngày
1/9/1858 quân Pháp với 2500 quân và 13 thuyền chiến nổ sung bắn phá và đổ bộ
lên bán bảo Sơn Trà đánh dấu sự xâm chiếm Việt Nam. Khi thực dân Pháp còn ở
xa, triều đình nhà Nguyễn với suy nghĩ “tự mãn” đã hiếu chiến bắn vào tàu chiến
của Pháp mà không tự lượng sức mình. Sau đó, khi biết không thể chống lại thực
dân pháp, triều đình nhà Nguyễn đã run sợ và từng bước nhượng bộ từ chủ chiến
sang chủ hòa. Cuối cùng cam chịu đầu hàng, cắt đất để mưu giữ lấy ngai vàng và
lợi ích riêng của chúng.
Mất nước là trách nhiệm thuộc triều đình nhà Nguyễn. Nước ta đang là một
nước độc lập, tự chủ lại trở thành một nước nô lệ. Với sự bảo thủ, phản động của
mình triều đình Nguyễn đã tuyên bố đó là “ định mệnh” của đất nước, đó là điều
2

không thể chấp nhận được. Không một đất nước nào có có định mệnh làm nô lệ
cho đất nước khác cả.
Xã hội nước ta sau khi triều đình nhà Nguyễn đã hèn nhát, cam chịu trở
thành nô lệ cho Pháp năm 1958. Những phong trào vũ trang kháng chiến chống
thực dân pháp của quần chúng nhân dân luần lượt xất hiện và lan rộng khắp 3
miền: Miền Nam(Trương định, Nguyễn Trung Trực…), Miền Trung(Trần Tấn,
Nguyễn Văn Ôn…), Miền bắc( Nguyễn Thiẹn Thuật,Nguyễn Quang Bích…).
Những phong trào ấy đã viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, song cuối
cùng đều thất bại vì còn mang nặng hệ tư tưởng phong kiến.
Đầu thế kỷ XX, thực dân pháp tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa ( lần
thứ nhất(1897-1913) và lần thứ hai(1919-1929)). Lúc này xã hội Việt Nam bắt đầu
có sự phân hoá: Thực tiễn đã xuất hiện 2 giai cấp mới đó là giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân. Bên cạnh đó đã có nhiều lý luận mới xuất hiện( “Tân thư”, “tân
văn”…) cùng các cuộc vân động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khả Siêu từ
Trung Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Dưới tác động của những nhan
tố mới các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang xu thế dân chủ tư sản
như: Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang
Phục Hội…Những phong trào này đã ghi thêm những trang sử vẻ vang của dân
tộc, nhưng cuối cùng thất bại, vì gắn với hệ tư tưởng tư sản. Hệ tư tưởng này đã
không phù hợp với tình hình trên thề giới nói chung và tình hình trong nước nói
riêng. Mặt khác, nó được truyền bá qua các vị sĩ phu phong kiến nên phần nào đó
không phù hợp vì không hiểu rõ bản chất và nặng theo tư tưởng phong kiến vì vậy
còn nhiều hạn chế. Họ không thể gánh vác được nhiệm vụ lịch sử của đât nước.
Có thể nói rằng, các phong trào cứu nước đầu thế kỷ XX đề lâm vào tình
trạng bế tắc, thất bại do gắn liền với hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản.
Nhìn chung, cần có một hệ tư tưởng mới làm kim chỉ nam cho các hoạt động của
cách mạng, phù hợp với diễn biến trên thế giới và hoàn cảnh cụ thể của nước nhà.
2) Quê hương, đất nước
Nguyến Tất Thành được sinh ra trên quê hương Nghệ Tĩnh- cái nôi với
truyền thống yêu nước được thể hiện qua các cuộc đấu tranh vũ trang, đánh dấu

3
những mốc son trong lịch sử của các anh hùng dân tộc như Phan Đình
Phùng(1847-1895),Phan Bội Châu (1867-1940). Là con trong một gia đình nhà
nho yêu nước, được trưởng thành trong cảnh đất nước lầm than và phong trào
quần chúng giàu lòng yêu nước Nguyễn Tất Thành đã mang trong mình tình yêu
nước, truyền thống dân tộc và lòng căm thù giặc sâu sắc.
Kết thừa truyền thống tốt đẹp của thế hệ các bấc tiền bối tư tưởng yêu
nước, thương dân, gắn bó với dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hoạt động
chính trị- xã hội của mình. Người đã ý thức được điều đó và hiện thực nó trong
hành động của mình về sau. Người luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Làm cách mạng là phải dựa vào dân: “dễ vạn lần
không dân cũng khó, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.Chính vì vậy, cả cuộc đời
của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Đây là vấn đề mang tính lý luận, là cơ sở, tiền đề
cho mọi hoạt động về sau của người và là sức mạnh để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trong quá trình tham gia các phong trào cách mạng. Nguyễn Tất Thành đã
chứng kiến nhiều cảnh ngộ đối lập giữa cuộc sống nghèo khổ bị áp bức bóc lột,
đầy đoạ của nhân dân mình, đồng bào mình với cuộc sống xa hoa, đồ truỵ, những
tội ác dã man, tàn bạo của thực dân pháp và thái độ ươn hèn, bạc nhượng của bè lũ
quan lại Nam triều.
Cuộc sống nghèo khổ của nhân dân ta: nhân dân ta giờ đây chịu cảnh “một
cổ hai tròng”. Vừa chịu sự bóc lột của triều đình phong kiến vừa chịu sự bóc lột
của thực dân pháp. Nông dân không có ruộng cày, phải đi làm thuê để kiếm tiền
nuôi sống bản thân, sức lao động của người dân lúc này trở lên rẻ mạt để phục vụ
qú trình khai thác thuộc địa của thựuc dân pháp.Nhân dân bị bóc lột tới tận xương
tuỷ và một trong những thủ đoạn bóc lột nhân dân ta là đánh thuế nặng(thuế ruộng,
thuế thân, thuế rượu, thuế muối) cảnh tô cao, thuế nặng làm người dân vốn đã
nghèo nay thêm phần cơ cực.
Cuộc sống xa hoa của bọn thực dân Pháp: Với việc thi hành các cuộc khai

thác thuộc địa, thực dân pháp ra sức vơ vét, của cải tài nguyên của nước ta, chúng
4
“ăn bám” trên sự bóc lột của nhân dân An Nam chúng sống cuộc sống sung sướng
trên nỗi xương máu của người khác.Sự dã man, tàn bạo của chúng thể hiện ở việc
bóc lột nhân dân lao động, thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của các sĩ
phu trong nước với nhiều thủ đoạn, đó là những cuộc đàn áp dã man, thậm trí cả
những người dân vô tội cũng bị chúng giết hại.
Thái độ bạc nhược của bè lũ quan lại triều đình nhà Nguyễn: Để giữ được
ngai vàng của mình, để có cảnh sống xa hoa dù chỉ là “bù nhìn” triều đình nhà
Nguyễn đã dung túng cho hành động của bọn ngoại bang, để mặc cho con dân kêu
cứu triều đình không những không có bảo vệ mà đã bắt tay cùng với kẻ thù bóc lột
chính người dân nước mình.
Các yếu tố trên đã ảnh hưởng và nuôi dưỡng lý tưởng yêu nước cách mạng
của Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu và theo suốt quá trình cách mạng. Bởi . Chính
điều đó đã thôi thúc người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Những bài học về sự thất bại của các bậc tiền bối, đương thời có tác động
không nhỏ tới Nguyễn Tất Thành. Bằng trực giác của mình, Nguyễn Tất Thành
nhận thấy rằng muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không thể đi theo con đường
các bậc tiền bối đã đi mà phải tìm ra một con đường mới. Các vị tiền bối đã gắn
cuộc cách mạng của dân tộc với hệ tư tưởng phong kiến và với hệ tư tưởng Tư sản
nhưng đều thất bại, vậy cần phải tìm ra một hệ tư tưỏng khác, phương pháp mới,
sao cho phù hợp nhất với điều kiện nước ta. Và người đã quyết định đi Pháp và các
nước khác xem các nước đó họ đã làm như thế nào để học tập và trở về giúp đồng
bào mình.
3) Yếu tố thời đại
Thời đại tư sản: Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ X, chủ nghĩa tư bản đã
chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao
nhất và cuối cùng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa đế quốc với bản chất nham
hiểm,hiếu chiến và âm mưu bành trướng thế lực của mình đã trở thành vấn đề
mang tính chất quốc tế. Lúc này, các nước thuộc địa trở thành một mắt xích của hệ

thống đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của toàn thế giới và
với sức mạnh của chủ nghĩa đế quốc thì một nước không thể đánh thắng được mà
5

×