Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích về bạo lực giữa vợ và chồng, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.09 KB, 17 trang )

MỞ BÀI
“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt”.Nhưng thật đáng tiếc, hàng ngày hàng giờ trong những gia đình
ấy vẫn đang diễn ra những hành vi bạo lực gia đình mà cụ thể là bạo lực giữa vợ
và chồng.Bạo lực giữa vợ và chồng đang trở thành một trong những nguy cơ
biến gia đình thành “địa ngục trần gian”.Dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn
cảnh nào, bạo lực gia đình không chỉ để lại hậu quả về thể chất, tinh thần mà còn
về mặt kinh tế - xã hội. Mà đó là vấn đề nhức nhối khiến dư luận, xã hội đặc biệt
quan tâm. Bạo lực gia đình làm xói mòn các giá trị, chuẩn mực, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, phá vỡ sự bền vững của gia đình.
NỘI DUNG
1.Khái quát chung về bạo lực giữa vợ và chồng
Bạo lực giữa vợ và chồng là hành vi vi phạm luật phòng,chống bạo lực gia
đình;vi phạm nghĩa vụ “chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ
nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững”
1.1. Khái niệm bạo lực giữa vợ và chồng
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn
áp hoặc lật đổ". Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi
bạo lực cũng rất phong phú.Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã
hội, là “hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng
gây tổn hại về thể chất,tinh thần ,kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
đình”.(Khoản 2 điều 1 Luật phòng,chống bạo lực gia đình).
Như vậy,bạo lực gia đình mà cụ thể là bạo lực giữa vợ và chồng chính là hành vi
cố ý của một hoặc hai bên vợ chồng gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại


về vật chất, tinh thần, kinh tế cho bên đối phương là vợ hoặc chồng của mình. Ở
đây, phạm vi chủ thể của hành vi bạo lực là giữa vợ và chồng, về bản chất hành


vi bạo lực được hiểu như thuật ngữ bạo lực giữa các thành viên trong gia đình.
1.2. Các dạng hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
1.2.1. Bạo lực thể chất
Bạo lực thể chất hay còn gọi là bạo lực thân thể là những hành vi sử dụng cơ
bắp (tay,chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) gây nên sự đau đớn về thân thể
đối với nạn nhân.Bạo lực thân thể còn bao gồm cả việc ngăn cấm phụ nữ tiếp
cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được tiếp cận
các nhu cầu vật chất của mình như:ăn,uống,ngủ,nghỉ….
Bạo lực thể chất là hình thức bạo lực dễ nhận thấy nhất và rất phổ biến,đặc biệt
là ở vùng nông thôn.Bạo lực thể chất là hành vi vi phạm pháp luật,gây tổn hại
cho sức khỏe nạn nhân và ảnh hưởng đến sự bền vững của gia đình.Các hành vi
cụ thể của bạo lực thể chất như:Ngắt,véo gây đau,đánh đau, gây thương tích ở
những khu vực khó phát hiện,xô đẩy, kiềm, xiết,giật, kéo, lắc mạnh, rứt tóc,tát,
cắn,đấm, đá,bóp cổ, ném đồ vật vào nạn nhân,đánh đập nặng gây thương tích
(gẫy xương, chấn thương nội tạng),quăng, ném nạn nhận,đánh, đá vùng bụng
gây sẩy thai;sử dụng hung khí có sẵn trong nhà tấn công nạn nhân,gây thương
tích nặng,không cho nạn nhân chữa trị,dùng phương tiện có dự định (dao,
súng…) huỷ hoại hoặc làm biến dạng hình thể.
Bạo lực của người chồng đối với người vợ trong gia đình: là hình thức bạo lực
được coi là phổ biến nhất trong gia đình. Không cần nhiều số liệu chứng minh
chúng ta cũng có thể khẳng định bạo lực do người chồng gây ra chủ yếu và lớn
nhất là bạo lực về thể chất – hình thức bạo lực dễ nhận thấy nhất và bị lên án
mạnh mẽ nhất. Sở dĩ người đàn ông chọn cách sử dụng “nắm đấm” để dạy vợ, là
vì họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Ngược
lại, trong xã hội ngày này, hiện tượng người vợ sử dụng bạo lực với chồng cũng


không phải là hiếm. Không chỉ dừng lại ở những lời lẽ chua ngoa, những cách
xử sự thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra những tổn thương về thể chất cho
chồng.

1.2.2. Bạo lực tinh thần
Bạo lực tinh thần là những hành vi nhằm hành hạ tâm lí thông qua những
hình thức như:đe dọa,lạnh lùng,bỏ rơi,không quan tâm,không hỏi han,cô
lập,cách ly,kiểm soát chặt chẽ,không để cho người bạn đời có cuộc sống riêng
của mình.
Bạo lực tinh thần chiếm một tỉ lệ khá cao trong các loại hình bạo lực gia đình
nói chung và hậu quả để lại rất lớn.Đây là loại hình bạo lực nghiêm trọng nhất vì
nó ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của người phụ nữ,và nó là loại hình bạo lực
có thể nói là “không nhìn thấy được”.Do đó,hầu hết nạn nhân mà đa số là những
người vợ không dám nói với ai và họ âm thầm chịu đựng.Bạo lực tinh thần đối
với phụ nữ xảy ra ở mọi nơi,mọi lúc với những hình thức như chửi bới,sỉ
nhục,lạnh nhạt,bỏ rơi,ngoại tình….Có khi người đàn ông dùng những thủ đoạn
tinh vi khác làm hại đến phẩm chất và tinh thần gây ra nhiều đau đớn cho người
phụ nữ.Trong gia đình,phụ nữ chịu sự điều khiển của người đàn ông về mọi mặt
như đi đứng,nói năng,ăn mặc.Người chồng kiểm soát mọi hành vi của vợ,tước
đoạt niềm vui cá nhân,làm rối loạn các thói quen sinh hoạt hàng ngày như
ăn,uống,ngủ,nghỉ,quan hệ bạn bè,họ hàng…làm mất tự do của phụ nữ trong
cuộc sống.Bạo lực tinh thần tuy không trực tiếp gây tổn thương về thể xác của
người phụ nữ nhưng là một hình thức bạo lực nguy hiểm vì đã làm người phụ nữ
phải chịu đựng,suy sụp,không có cơ hội bày tỏ cùng ai mà người ngoài lại khó
phát hiện.Loại hình bạo lực này đang có xu hướng gia tăng,nhất là khi pháp luật
đã có những khung hình phạt dành chi người bạo lực gia đình.Để tránh bị phát
hiện thì những người đàn ông,người chồng đã hạn chế những hành động bạo lực
thân thể mà chuyển sang hình thức tinh vi hơn,khó bị phát hiện hơn.Sự lăng
nhục và sự ngược đãi về tình cảm còn đau đớn hơn sự tấn công về thể xác,nó
làm cho phụ nữ giảm lòng tin.Bạo lực về thể xác không phải là tồi tệ nhất mà sự


tra tấn về tinh thần,sống trong lo sợ và khủng hoảng mới là điều đáng sợ nhất
đối với người phụ nữ.Với bạo lực tinh thần thì vết thương lòng không ai có thể

đong đếm được,nó đang từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí tâm can của người
phụ nữ,khiến họ luôn trong trạng thái căng thẳng,u uất,sầu lo và hậu quả đau
lòng khiến nhiều nạn nhân không thể chịu đựng được đã phải tìm đến cái chết để
giải tỏa.
1.2.3. Bạo lực tình dục
Bạo lực tình dục là cưỡng ép,ép buộc phụ nữ phải làm những việc liên quan
đến tình dục trái với mong muốn của họ;bàn luận về những bộ phận trên cơ thể
của phụ nữ;cưỡng hiếp,giam cầm và sử dụng các công cụ tình dục;ép phụ nữ
phải quan hệ tình dục hoặc bắt phải xem các hình ảnh khiêu dâm mà người phụ
nữ không muốn hoặc ép phải quan hệ tình dục khi đã bị đánh đập,cố tình gây
đau đớn hoặc tổn hại cho họ trong quá trình quan hệ tình dục.
Có thể nói,bạo lực tình dục giữa các cặp vợ chồng là khá phổ biến trong các gia
đình và đây là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề sức khỏe của phụ nữ.Nhưng
trên thực tế,người phụ nữ đã chấp nhận bị bạo hành để chỉ cố giữ lại hạnh phúc
và sự êm ấm của gia đình.Hơn thế nữa,đây là một vấn đề khá nhạy cảm,tế nhị
nên rất khó phát hiện và rất khó để người trong cuộc thổ lộ với bạn bè cũng như
người thân trong gia đình.Mặt khác,bạo lực tình dục không lấy đi sức
khỏe,mạng sống của người phụ nữ một các rõ rệt như bạo lực thể xác.Nhưng nó
khiến cho người phụ nữ không chủ động được trong việc phòng tránh nguy cơ
lây mắc các bệnh qua đường tình dục,mang thai ngoài ý muốn và làm ảnh hưởng
xấu đến đời sống tình dục của người phụ nữ,thấy nhiều người cảm thấy ghê sợ
mỗi khi nhắc đến chuyện ân ái.
1.2.4. Bạo lực kinh tế
Bạo lực kinh tế là sự kiểm soát về tài chính và ngân quĩ trong gia đình của
chồng đối với vợ hoặc vợ đối với chồng.Có những gia đình mà mỗi khi vợ muốn


chi tiêu cái gì đó thì đều phải được sự đồng ý của chồng,thậm chí có cả gia đình
chồng còn bắt vợ ghi chi tiêu các khoản hàng tháng để người chồng kiểm tra.
Những biểu hiện của hành vi bạo lực về kinh tế bao gồm những biểu hiện:không

cho nạn nhân sử dụng tài sản chung vào mục đích chính đáng;chiếm đoạt tài sản
riêng của nạn nhân;kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của nạn nhân nhằm tạo
cho nạn nhân sự phụ thuộc về tài chính;buộc nạn nhân đóng góp tài chính quá
khả năng của họ;đập tài sản riêng của mình cũng như tài sản chung của vợ
chồng nhằm gây áp lực về tâm lí đối với nạn nhân;dùng tài sản chung của vợ
chồng tham gia vào các giao dịch dân sự mà không được sự đồng ý của người
còn lại;ép buộc nạn nhân lao động quá sức,hoặc làm công việc nặng nhọc,nguy
hiểm,tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái với qui định
của pháp luật về lao động;ép nạn nhân đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống…
1.3. Một số đặc điểm của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
Qua nghiên cứu về hành vi bạo lực gia đình, thì hành vi bạo lực giữa vợ và
chồng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất,về người có hành vi bạo lực và nạn nhân của bạo lực.
Đa số các nghiên cứu đều cho rằng: người gây ra bạo lực giữa vợ và chồng chủ
yếu là người chồng- người có vị thế cao hơn trong gia đình.Thực tế này cũng có
thể giải thích ở chỗ nam giới khỏe mạnh hơn nữ giới. Theo nghiên cứu của TS.
Hoàng Bá Thịnh chỉ có khoảng 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình
là nam giới và thủ phạm chính là những bà vợ. Do vậy, nữ giới thường có nguy
cơ trở thành nạn nhân của bạo lực giữa vợ và chồng cao hơn nam giới.
Thứ hai,tính chất của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng: hành vi bạo lực được
biểu hiện chủ yếu dưới dạng hành động nhưng cũng có trường hợp hành vi bạo
lực gia đình được thực hiện bằng không hành động (bỏ mặc, không tiếp chuyện,
không cho tiền...).Tuy nhiên, dù là hành động hay không hành động thì hành vi
bạo lực cũng rất khó nhận biết, vì là những hành vi xảy ra trong gia đình nên nếu
các thành viên trong gia đình không thông báo cho các cơ quan công an thì rất


khó để nhận biết. Nếu nạn nhân là phụ nữ thì phần nhiều đều giấu kín với thái
độ cam chịu và tâm lí kì vọng vào sự thay đổi của chồng. Còn nếu nạn nhân là
nam giới thì họ càng ngại nói ra.

Thứ ba, hậu quả của hành vi bạo lực thường rất đa dạng và khó nhận biết. Nếu
như hành vi bạo lực có thể diễn ra riêng rẽ thì hậu quả của hành vi này thường
rất đa dạng, một hành vi bạo lực có thể gây ra nhiều hậu quả khác nhau. Nạn
nhân của bạo lực không chỉ phải hứng chịu những hậu quả về thể chất mà còn là
những tổn thương lâu dài về tinh thần không dễ gì xóa được. Hành vi bạo lực
thường khó nhận biết vì vậy mà hậu quả mà nó gây ra cho nạn nhân càng khó
phát hiện hơn.
Thứ tư, bạo lực giữa vợ và chồng có tính chu kì:Tính chu kì của hành vi bạo lực
thể hiện ở chỗ: đối tượng có hành vi bạo lực sau khi gây ra hành vi bạo lực
thường có thái độ ân hận, hối lỗi, cố gắng bù đắp bằng những cử chỉ ân cần, làm
cho nạn nhân nuôi hi vọng vào sự thay đổi của đối tượng và tha thứ cho đối
tượng. Và cứ như thế, đối tượng gây ra hành vi rồi hối lỗi, hứa hẹn, bù đắp và
các nạn nhân hết lần này đến lần khác mong chờ sự thay đổi của đối tượng. Vì
vậy mà bạo lực giữa vợ và chồng thường kéo dài, lặp đi lặp lại, khó phát hiện để
xử lí.Tính chu kì không thể hiện ở tần suất, thời gian mà ở sự lặp lại về hành vi
xử sự, thái độ của người gây bạo lực với nạn nhân.
1.4. Hậu quả pháp lý của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định rõ quyền và nghĩa vụ giữa vợ
và chồng khi họ xác lập quan hệ hôn nhân vì thế khi nam nữ kết hôn trở thành
vợ chồng họ có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các qui định đó.Nếu vi phạm một
trong các quyền và nghĩa vụ này,không những vợ,chồng có hành vi vi phạm phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình mà cao hơn nữa từ chính
những hành vi đó cuộc sống của gia đình sẽ mất đi sự êm ái,hạnh phúc,mục đích
của hôn nhân không đạt được và nguy cơ giảm sút sự bền vững của gia đình là
điều dễ xảy ra.


Khi có hành vi bạo lực giữa vợ và chồng xảy ra thì sẽ phát sinh nghĩa vụ của
người có hành vi bạo lực; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực giữa vợ và
chồng.Cụ thể như sau:

Thứ nhất là nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực giữa vợ và chồng:Tôn trọng
sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực;chấp hành
quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;kịp thời đưa nạn nhân đi cấp
cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.;bồi thường
thiệt hại cho nạn nhân khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực giữa vợ và chồng:Yêu cầu
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật
phòng chống bạo lực gia đình;được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp
luật;được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác
theo quy định của Luật phòng chống bạo lực gia đình và được hưởng các quyền
khác theo quy định của pháp luật.
Nạn nhân bạo lực giữa vợ và chồng có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan
đến bạo lực giữa vợ và chồng cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có
yêu cầu.
2.Thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng ở nước ta hiện nay và việc điều
chỉnh của pháp luật
2.1.Thực trạng
Cũng giống như các nước trên thế giới ,ở Việt Nam bạo lực giữa vợ và chồng
cũng đã xuất hiện từ lâu và đang ngày càng phát triển mạnh trên tất cả các vùng
miền, tỉnh, thành phố của Việt Nam. Theo thống kê của ủy ban các vấn đề dân
tộc, từ ngày 1/1/2000 đến ngày 31/12/2005 tại 8 tỉnh, thành phố phía bắc và kết
quả cho thấy, hằng năm có 2,3 % gia đình có hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
về thể chất , 25% có hành vi bạo lực giữa vợ và chồng về tinh thần và 30% cặp


vợ chồng xảy ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục ( theo Giadinh.net, cập
nhật ngày 3 tháng 6 năm 2006 ).Còn Bộ công an thì cho biết, trên toàn quốc cứ
khoảng 2-3 ngày lại có một người chết liên quan đến bạo lực giữa vợ và

chồng.Trong năm 2005 có 14% vụ giết người liên quan đến bạo lực giữa vợ và
chồng ( 115/1113 vụ, trong đó có 39 vụ chồng giết vợ, 8 vụ vợ giết chồng), chỉ
riêng đầu năm 2006, tỉ lệ này là 30,5% ( 26/77 vụ)( theo Giadinh.net cập nhật
ngày 21/4/2006) .Một số báo cáo của công an tại một huyện miền núi ở Tây
Bắc, trong giai đoạn 2001-2005, mỗi năm có 20 vụ tự tử bằng lá ngón, do
nguyên nhân chủ yếu là bị chồng ngược đãi, vì chồng có vợ hai hay tảo hôn.
Theo kết quả nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới ở Việt Nam, năm 2005 đã cho
thấy ,khoảng 20-25% các gia đình có bạo lực giữa vợ và chồng trên cơ sở giới,
cứ 6 người phụ nữ lại có một người là nạn nhân của bạo lực gia đinh ( Theo
Giadinh.net cập nhật ngày 3/6/2006 ).Điều tra gia đình Việt Nam do Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, UNICEF
thực hiện năm 2006 với 9.300 mẫu đưa ra kết quả: Có khoảng 21,2% số cặp
vợ/chồng xảy ra các hiện tượng bạo lực như: Đánh, mắng chửi, chấp nhận quan
hệ tình dục khi không có nhu cầu. Tỷ lệ cặp vợ chồng có 1 trong số các hiện
tượng bạo lực kể trên (tức là đối với cả vợ và chồng) chiếm khoảng 10,8%. Tỷ
lệ cặp vợ chồng xảy ra 2 hiện tượng bạo lực vào khoảng 7,3%.Nghiên cứu quốc
gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam năm 2010 do Tổng cục
Thống kê - Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tiến hành với 4.838 mẫu là phụ nữ độ
tuổi từ 18–60 trong cả nước, kết quả cho biết: Cứ 3 phụ nữ có gia đình hoặc đã
từng có gia đình thì có 1 người (gần 34%) cho biết họ đã từng bị chồng mình
bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình đang phải
chịu 1 trong 2 hình thức bạo lực này chiếm 9%. Nếu xét đến cả 3 hình thức bạo
lực: Thể xác, tình dục và tinh thần trong đời sống vợ chồng, thì có 58 % số phụ
nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất 1 hình thức bạo lực gia
đình kể trên.Theo điều tra về bạo lực gia đình do Vụ Gia đình phối hợp với Viện
Nghiên cứu giới năm 2012 trên 6.300 phụ nữ và tổng kết của 63 tỉnh, thành cả
nước, có tới 64% số phụ nữ đã và đang phải chịu các loại bạo lực gia đình các


loại. Con số này cao hơn điều tra quốc gia về bạo lực gia đình năm 2010 (58%

số phụ nữ bị bạo lực).
2.2.Nguyên nhân
Nhìn chung,do hoàn cảnh mỗi gia đình là khác nhau nên nguyên nhân dẫn
đến bạo lực giữa vợ và chồng cũng rất phức tạp.Sau đây,ta có thể kể ra một vài
nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan: Do nhận thức về giới và sự bình đẳng giới
còn hạn chế,do quan niệm phong kiến “trọng nam khinh nữ”, tư tưởng gia
trưởng, gia quyền còn nặng,do sự nhìn nhận, đấu tranh của người phụ nữ trước
nạn bạo hành gia đình còn hạn chế, thiếu thẳng thắn, thiếu tự tin, còn cam chịu.
Thứ hai là nguyên nhân khách quan:Trình độ học vấn, năng lực nghề nghiệp,
đặc biệt là tình trạng chênh lệch về nghề nghiệp giữa vợ và chồng là một trong
những yếu tố khách quan gây nên nạn bạo hành trong gia đình; năng lực tự chủ
tài chính của người đàn ông trong gia đình bị hạn chế, hình thành ở họ tư tưởng
tự ty, hẹp hòi. Đây cũng là nguyên nhân gây nên nạn bạo hành gia đình đối với
người phụ nữ.Tác động của các chất kích thích, của men bia, rượu, ma túy, của
thói trăng hoa...
Bên cạnh đó nguyên nhân dẫn đến bạo lực giữa vợ và chồng còn do nguyên
nhân pháp luật.Tức các qui định của pháp luật về bạo lực giữa vợ và chồng còn
xa rời với thực tế,thiếu tính khả thi.Nhiều qui định chỉ mang tính hình thức mà
khó có thể thực hiện được trên thực tế.
2.3. Việc áp dụng pháp luật xử lý hành vi bạo lực giữa vợ và chồng theo
pháp luật hiện hành
Theo điều 42 Luật phòng, chống bạo lực gia đình qui định về việc xử lý
người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau:
“1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật


hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật.

2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có
hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của
khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống
bạo lực gia đình, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người
có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.”
Chẳng hạn, trong việc xử phạt hành chính, theo nghị định 87 ngày 21-11-2001
của Chính phủ (về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình), hành vi ngược đãi, hành hạ thành viên trong gia đình nhưng chưa gây hậu
quả nghiêm trọng có thể bị phạt tiền từ 200.000-500.000 đồng...
Điều 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định nghĩa vụ của người có
hành vi bạo lực gia đình là “Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình
khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật”(Khoản 4) .
Những quy định này là hoàn toàn phù hợp với quy định của Điều 604, Bộ luật
Dân sự: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường” .Các nguyên tắc bồi thường, xác định thiệt hại…
được xác định theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình, người gây ra thiệt hại phải bồi thường và người
được bồi thường lại là những thành viên trong cùng một gia đình với những mối
liên hệ chặt chẽ về tình cảm cũng như về kinh tế, nên vấn đề bồi thường trở nên
rất nhạy cảm và tế nhị, có thể đe dọa phá vỡ hạnh phúc gia đình bất cứ lúc nào.
Trong việc xử lý hình sự, người ngược đãi hoặc hành hạ vợ, chồng, con... gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm có thể bị


xử tội “ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu” theo điều
151 Bộ luật hình sự với hình thức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba

năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.Người cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỉ lệ thương tật từ 11-30%... có thể bị xử tội
“cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” theo khoản 1,
điều 104 Bộ luật hình sự .
Hình thức xử lý kỷ luật được áp dụng với những người là cán bộ, công chức
theo quy định tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, đã có hành vi vi
phạm Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Các hình thức
kỷ luật đối với cán bộ bao gồm: khiển trách; cảnh cáo; cách chức; bãi nhiệm.
Các hình thức kỷ luật đối với công chức bao gồm: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc
lương; giáng chức; cách chức; buộc thôi việc.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phòng, chống và xử lý bạo lực
giữa vợ và chồng
Thứ nhất là quy định về biện pháp cấm tiếp xúc
Việc quy định về việc cấm tiếp xúc trong một thời gian giữa nạn nhân và người
có hành vi bạo lực là cần thiết để đảm bảo sự an toàn cho nạn nhân, để hai bên
có thời gian cân nhắc về hành động của mình và cũng là để giáo dục người có
hành vi bạo hành về tội lỗi của họ.Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này yêu
cầu có sự đồng ý của nạn nhân ,điều này có phần chưa khả thi.Bởi vì bản chất
của những mối quan hệ giữa vợ và chồng là gắn bó thân thiết và bền chặt, nếu
một người có ý từ bỏ,sống ra ngoài thì mối liên hệ giữa vợ và chồng thường bị
cho rằng sẽ trở nên lỏng lẻo và khó chấp nhận.Hơn nữa, với những nạn nhân bị
bạo lực là phụ nữ, do họ bị phụ thuộc nhiều vào người chồng. Do đó, việc quy
định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc phải có sự đồng ý của nạn nhân mặc dù rất
thỏa đáng khi để nạn nhân tự cân nhắc, quyết định theo tình cảm và ý thức của
họ, nhưng mặt khác cũng là chưa thể bảo vệ họ tránh những hành vi bạo lực
nguy hiểm có thể xảy ra sau này.


Bên cạnh đó, quy định về một trong những điều kiện áp dụng biện pháp cấm
tiếp xúc chưa thật hợp lý:Người có hành vi bạo lực và nạn nhân bạo lực có nơi ở

khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc, nơi ở này bao gồm nhà của người thân,
bạn bè, địa chỉ tin cậy hoặc nơi ở khác mà nạn nhân bạo lực gia đình tự nguyện
chuyển đến ở. Rõ ràng nạn nhân của bạo lực tiếp tục phải chịu thiệt thòi: họ bị
làm tổn thương, và để tránh những tổn thương này họ bị buộc phải rời khỏi nhà
của mình.Như vậy, những người khác nhìn vào có thể cho rằng đó là “hình
phạt” cho những người không cam chịu mà lên tiếng đòi công bằng cho mình.
Trong khi đó, kẻ có hành vi bạo hành lại đương nhiên được ở nhà của mình,việc
nạn nhân không ở đó thậm chí có thể là mong muốn của những người này, nên
họ có thể hoàn toàn không quan tâm. Quy định này có lẽ dựa trên quy định về tự
do cư trú của cá nhân mà quên rằng nạn nhân cũng bắt buộc phải chọn nơi ở
khác do những hành vi trái pháp luật của người có hành vi bạo lực; và những
người thực hiện hành vi này hoàn toàn có thể bị tước bỏ quyền tự do lựa chọn
nơi cư trú vì bản thân họ đã vi phạm pháp luật.
Do đó, khi áp dụng biện pháp này,trong một số trường hợp không cần đến sự
yêu cầu hay cho phép của nạn nhân (trường hợp hành vi bạo lực gây tổn hại hết
sức nghiêm trọng tới sức khỏe, danh dự của nạn nhân; hành vi lặp lại nhiều lần;
người có hành vi đã được giáo dục mà tiếp tục vi phạm…). Đồng thời nếu thực
hiện cấm tiếp xúc thì người thực hiện hành vi có thể phải rời khỏi nơi cư trú
(nếu nạn nhân không tìm được nơi ở khác thích hợp) và đảm bảo quyền trông
nom, chăm sóc gia đình, con cái của nạn nhân. Trong trường hợp nạn nhân bị lệ
thuộc hoàn toàn vào kinh tế thì khi cách ly có thể xem xét việc yêu cầu cấp
dưỡng cho nạn nhân như quy định của một số nước và không trái với quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Thứ hai là quy định về hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
Nghị định 110 đã đưa ra những chế tài cần thiết đối với người thực hiện hành vi
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, quy định về hình thức phạt tiền của Nghị định này


còn chưa thực sự hợp lý, bởi mức xử phạt nhìn chung là thấp, trong một số

trường hợp là rất bất hợp lý như với hành vi thường xuyên theo dõi vợ hoặc
chồng vì lý do ghen tuông gây tổn hại đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người
đó hoặc hành vi cưỡng ép người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy
hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác thì mức phạt chỉ từ 100.000 đồng đến
300.000 đồng. Mức phạt như vậy là quá thấp, không tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi. Ngay cả với những mức phạt cao hơn thì đối với
những người có điều kiện kinh tế thì phạt tiền cũng không có ý nghĩa giáo dục
với họ. Ngược lại, trong nhiều trường hợp biện pháp này có thể trở thành “con
dao hai lưỡi”, khiến tình trạng bạo lực nghiêm trọng hơn: người có hành vi bạo
lực vì phải nộp phạt mà trút giận lên nạn nhân bằng những hành vi bạo lực kinh
khủng hơn, tinh vi hơn.
Ngoài ra, có những trường hợp người phải nộp phạt không có thu nhập thì việc
phạt tiền với họ dường như không có nhiều ý nghĩa. Trường hợp người chồng
nát rượu,không việc làm mà đánh đạp vợ con thì ai là người phải nộp phạt? Pháp
luật có quy định về cưỡng chế kê biên thi hành án, nhưng tài sản trong thời kỳ
hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, nên nếu áp dụng chế tài này thì cơ quan
thi hành án cũng gặp khó khăn mà quyền lợi về tài sản của người vợ cũng bị ảnh
hưởng. Do đó, rất nhiều trường hợp nạn nhân phải đi nộp phạt thay người có
hành vi vi phạm, và như vậy thì không thể giáo dục người vi phạm mà chỉ làm
nạn nhân không muốn tố cáo lần sau.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên,chúng ta có thể bỏ chế tài phạt tiền, thay
vào đó là chế tài lao động công ích trong xử lý vi phạm hành chính trong phòng,
chống bạo lực gia đình. Biện pháp này có tính khả thi cao hơn vì nó có ý nghĩa
giáo dục tích cực với người có hành vi bạo lực, đồng thời không ảnh hưởng tới
quyền lợi của nạn nhân. Hơn thế nữa, biện pháp này còn có giáo dục tích cực đối
với những cá nhân khác: họ không muốn phải chịu hình thức xử phạt công khai,
có nhiều người biết tới như vậy, nên sẽ cố gắng tránh bằng cách không thực hiện
hành vi vi phạm. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng biện pháp này còn khá mới



ở Việt Nam, nên có thể quy định một cách mềm dẻo: chỉ áp dụng bắt buộc với
người có hành vi tái phạm; tính thời gian lao động công ích tương đương với số
tiền phạt; tiến hành lao động công ích trong các cơ sở kinh tế nhất định. Tuy
nhiên, nếu đã bị áp dụng hình thức xử phạt này thì không được cho phép thay
thế bằng phạt tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ ba là quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Với những ví dụ đã nêu ở trên, có thể thấy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, mà
nguyên nhân chính là do các cơ quan này chưa thực sự ý thức được tầm quan
trọng, ý nghĩa của công tác này cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đã được pháp
luật quy định cho họ.
Trong khi đó, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cũng chưa có một quy
định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này
Thực tiễn bạo lực gia đình ở Việt Nam cho thấy: việc thông tin, tuyên truyền về
phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao sự hiểu biết, từ đó thay đổi nhận thức
về vấn đề là hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng dường như chưa được chú ý
đúng mức. Các nhà làm luật đã mất nhiều công sức để xây dựng các quy định
này nhưng lại không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế, mà chỉ quy định
chung chung trong Chương 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về trách
nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành Luật. Vì vậy, cần quy
định chi tiết hơn về vấn đề này. Cụ thể: cần quy định việc tuyên truyền này như
là một trách nhiệm thường xuyên của một cơ quan, tổ chức cụ thể ở từng địa
phương, từng cơ sở (Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em; Ủy ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ; Hội phụ nữ; Tổ dân phố…).
Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối
với hành vi bạo lực gia đình là một trong những hành vì bị cấm theo quy định tại
Điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.. Tuy nhiên, khi xem xét Nghị định
110 thì không thấy bất cứ một hình thức xử phạt nào cho những hành vi này, dù



tất cả những hành vi bị cấm khác đều bị xử lý theo những mức độ khác nhau.
Điều này là hoàn toàn vô lý và cần phải được sửa chữa. Do đó, chúng tôi cho
rằng cần phải quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong
phòng, chống bạo lực gia đình: hành vi vi phạm cần phải bị xử lý; nhưng sự thờ
ơ, thiếu quan tâm, vô trách nhiệm cũng cần có những chế tài thích đáng.
KẾT BÀI
Tiếng nói,tiếng cười,sự quan tâm,yêu thương,chăm sóc,giúp đỡ lẫn nhau…đó
là những mong ước giản đơn của những nạn nhân phải chịu đựng hành vi bạo
lực giữa vợ và chồng.Mà đáng ra đó là những quyền mà họ được hưởng,những
quyền mà họ được pháp luật bảo vệ khi họ kết hôn với người còn lại.Vì vậy,bạo
lực giữa vợ và chồng không còn là chuyện trong nhà của mỗi gia đình mà đây là
việc được toàn xã hội quan tâm,thẳng thắn lên án và xử lí. Vâng,gia đình tốt thì
xã hội mới tốt,hãy nói: “Không với bạo lực giữa vợ và chồng”!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình: Luật hôn nhân và gia đình, NXB
Công an Nhân dân, 2009
2. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010.
3. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005.
4. Luật gia Nguyễn Văn Thông, hỏi đáp về Luật hôn nhân và gia đình, Nxb
Đồng Nai, năm 2009.
5. Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Bộ Tư
pháp- Viện khoa học pháp lý (Đinh Mai Hương chủ biên)
6. Thống kê của tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam về thực trạng bạo lực giữa vợ
và chồng tại Việt Nam.
http://

Giadinh.net/thong-ke-cua-to-chuc-y-te-the-gioi-tai-viet-nam-ve-thuc-


trang-bao-luc-giua-vo-va-chong-tai-viet-nam/
7.Bạo lực gia đình, thực trạng và giải pháp.
/>uuid=b3ef4caa-3cd0-4641-9b15-896fbdc1f82c&groupId=13025
8. Thực trạng nhận thức của người dân về bạo lực gia đình.
/>9.Trường đại học Luật Hà Nội,TS Ngô Thị Hường-THS Bùi Thị Mừng,Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam Hướng dẫn học tập,tìm hiểu,trả lời lí thuyết giải bài
tập tình huống và trắc nghiệm,NXB Chính trị-Hành chính,Hà Nội-2012
10. Phạm Văn Dũng và Nguyễn Đình Thơ ,Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình, Nhà xuất bản Tư pháp,2009


11.Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã sửa đổi bổ
sung ngày 19/6/2009),NXB Lao động-xã hội,Hà Nội-2009
12, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12;
13. Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình;
14.Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình;
15.Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010;
16. Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg ngày 16/5/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010.



×