Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.3 KB, 50 trang )

Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
MỤC LỤC
Lòi mở đầu

1

Chương 1: Bảo hiểm thất nghiệp trong mối tương quan vói bảo hiểm xã
hội................................................................................................3
1.1

Khái quát chung về bảo hiểm xã hội....................................................3

1.1.1

Sơ lược về lịch sử ra đời của bảo hiểm xã hội....................................3

1.1.2

Khái niệm về bảo hiểm xã hội............................................................10

1.1.3

Bản chất của bảo hiểm xã hội............................................................10

1.1.4

Vai trò của bảo hiểm xã hội...............................................................11

1.1.5

Phân biệt bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội..........................12



1.2

Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.........................................13

1.2.1

Những vẩn đề chung về thất nghiệp..................................................13

1.2.2

Phân loại và nguyên nhân của thất nghiệp.......................................14

1.2.3

Ảnh hưởng của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế xã hội.............16

1.2.4

Khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp...................................................17

1.2.5

Sự cần thiết của bảo hiếm thất nghiệp trong xã hội ngày nay...........18

1.2.6

Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam...............................19

1.2.7


Phân biệt bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp.....................19

1.3

Nhà nước tổ chức quản lý bảo hiểm thất nghiệp................................20

1.4

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của một số nước phát triển trên thế
giới...............................................................................................20

1.4.1

Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ................................20

1.4.2

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Thụy Điển................................25

Chương 2: Quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, thực trạng và
giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho ngưòi lao động.........28
2.1 Quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực trạng áp dụng.28
2.1.1 Đối tượng tham gia bảo hiểm thất ngiệp.............................................28
2.1.2 Thủ tục thực hiện bảo hiểm thất nghiệp...............................................32
2.1.3 Điều kiện để người lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp..................36
2.1.4 Mức đóng, mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp và các hỗ trợ khác cho người
bị thất
2.1.5 lao
Cácđộng

trường
hợp nghiệp.............................................................37
tạm dừng và chẩm dứt hưởng bảo hiểm thất nghiệp..39
2.1.6 Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia bảo hiểm thất nghiệp...41
2.1.7Nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiếm thất nghiệp........................44
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 2

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
2.1.8 Khiếu nại về bảo hiểm thất nghiệp.......................................................46
2.1.9 Tình hình thực hiện baoe hiểm thất nghiệp trên thực tế......................47
2.2 Một số kiến nghị về bảo hiểm thất nghiệp................................................48
Kết luận..........................................................................................................52

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 3

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
LỜI MỞ ĐẰU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá tình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và đặc biệt hàng năm trên cả nước có trên 1 triệu người bước vào tuổi lao động,

nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn, vì hai nguyên nhân hên
nên tỷ lệ thất nghiệp nước ta ngày càng tăng nhanh. Nếu tình trạng thất nghiệp cứ tiếp
tục gia tăng như hiện nay mà không có biện pháp hạn chế thì nó không chỉ tác động
trực tiếp đến đời sống người lao động mà còn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế
đất nước và vấn đề an sinh xã hội. Vì thế thất nghiệp đã trở thành một vấn đề kinh tế xã hội bức bách rất được Đảng và Nhà nước ta quan tâm , và vì mục tiêu “ Dân giàu,
Nước mạnh - Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nên việc hạn chế tỷ lệ thất nghiệp
là nền tảng để xây dựng mục tiêu trên. Hơn thế nữa, thất nghiệp là một trong những
nguyên nhân phổ biến nhất gây ra những tệ nạn xã hội và là tiền đề của các loại tội
phạm như: trộm, cướp, giết người.. .Song, nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn
hóa xã hội.
Thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu, không một quốc gia nào là ngoại lệ,
điều này có nghĩa là một đất nước phát triển đến mức độ nào đi nữa thì vẫn không
tránh khỏi tình trạng thất nghiệp xảy ra và các quốc gia hơn nhau ở chổ là họ làm như
thế nào để tỷ lệ thất nghiệp trên cả nước ở mức thấp nhất. Trước những tác hại không
hề nhỏ của thất nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội như thế, thì chúng ta cần
phải có những biện pháp thiết thực để hạn chế tỷ lệ thất nghiệp một cách hiệu quả. Bảo
hiểm thất nghiệp là một trong những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự gia tăng của
thất nghiệp, nghị định 127/CP được chính phủ ban hành ngày 12/12/2008 như một
bước tiến mới cho việc chuẩn bị đưa bảo hiểm thất nghiệp áp dụng vào thực tiễn. Đây
là giải pháp hoàn toàn mới ở Việt Nam nhưng đẫ được rất nhiều nước trên thế giới áp
dụng khá thành công như Mỹ và Thụy Điển, là hai nước có nền kinh tế phát triển bậc
nhất nhưng họ cũng rất quan tâm đến vấn đề thất nghiệp. Qua 2 năm thực hiện Bảo
hiểm thất nghiệp tuy đã đạt được kết quả khả quan, bên cạnh đó cũng gặp không ít
những khó khăn trong vấn đề áp dụng vì đây là quy định quá mới đối với người lao
động và kể cả nhà nước. Vì thế nên có những bài viết nghiên cứu và cho ý kiến về vấn
đề này nhằm hoàn thiện nó.
2. Mục đích nghiên cứu
Do bảo hiểm thất nghiệp là một quy định rất mới ở nước ta nên việc ban hành các
văn bản hướng dẫn và áp dụng bảo hiểm thất nghiệp trên thực tế còn rất nhiều thiếu
xót và không ít khó khăn. Mặc dù đã qua hơn 2 năm thực hiện nhưng hành lang pháp

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 4

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
lý về bảo hiểm thất nghiệp còn rất nhiều lổ hỏng, điều này làm cho việc áp dụng hên
thực tế gặp nhiều vướng mắc, vì thế việc chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp của
việc ảp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ”, người viết nhằm nghiên cứu
chủ yếu vào thực trạng của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp trên thực tế, từ đó đưa
ra những giải pháp và kiến nghị với mục đích hoàn thiện hệ thống các quy định về bảo
hiểm thất nghiệp. Qua việc nghiên cứu đề tài này người viết có thể nghiệm thu lại một
mảng kiến thức được tích lũy trong suốt thời gian học tập ở bậc đại học. Thông qua
việc nghiên cứu này sẽ giúp cho người viết và người đọc hiểu thêm hom nữa về những
quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Trong bài viết tác giả có
trình bày sơ lược về các quy định về bảo hiểm thất nghiệp của Mỹ và Thụy Điển, qua
đó ta có thể so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật của hai nước trên. Từ đó tiếp thu
những cái hay của họ, kế đến ta xem xét những quy định nào phù hợp có thể áp dụng
vào pháp luật nước ta nhằm giúp cho bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam phát triển làm
tiền đề để hệ thống an sinh xã hội vững mạnh và bảo vệ quyền lợi ích họp pháp của
người lao động.
3. Phạm vi nghiên cứu
Như đã nói trên bảo hiểm thất nghiệp là một quy định mới được triển khai thực
hiện ở Việt Nam, tuy các quy định xoay quanh vấn đề này không nhiều nhưng khi đưa
vào áp dụng thì thật sự rất khó khăn, còn nhiều qui định chưa rõ ràng nên người viết
không thể đề cập tất cả các khía cạnh của vấn đề mà chỉ đề cập đến những quy định cơ
bản, khi đưa vào thực tế thì còn nhiều bất cập và vướng mắc. Từ đó đưa ra những giải
pháp và kiến nghị cho vấn đề đó.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về thực tiễn của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động, đây là một vấn đề mang tính chất lý luận tổng họp nên người viết
chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích luật viết kết họp với phương pháp phân tích
tổng họp, đánh giá các báo cáo về việc thực thi bảo hiểm thất nghiệp.
5. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm 2 chương, vấn đề được tập trung ở chương 2. Bố cục của luận văn
gồm 4 phần:
-

Lời mở đầu

-

Chương 1: Bảo hiểm thất nghiệp trong mối tương quan với bảo hiểm xã hội

-

Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp, Thực
trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

-

Kết luận.

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 5

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng



Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
CHƯƠNG 1
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRONG MÓI TƯƠNG QUAN VỚI
BẢO HIÊM XÃ HỘI
1.1 Khái quát chung về bảo hiểm xã hội
Bước sang thế kỉ XXI, ở Việt Nam đây là thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiếp tục đường lối đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ vãn minh. Mọi người, mọi nhà ấm no hạnh phúc. Để thực hiện được mục
tiêu trên và nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của người lao động trong sự nghiệp
phát triển ngay từ khi thống nhất đất nước Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính
sách thể hiện sự quan tâm tới người lao động ừong đó có chính sách Bảo hiểm xã hội.
Chính sách Bảo hiểm xã hội là một ừong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
ta, đã được thực hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Trải qua hom 40 năm thực hiện
với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách Bảo hiểm xã
hội đã góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Đến nay Bảo hiểm xã hội đã
được thực hiện cho công chức nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong
các thành phần kinh tế ở những nơi có quan hệ lao động, có sử dụng lao động từ 10 lao
động trở lên...và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho các đối tượng khác. Với 6 chế độ về Bảo
hiểm xã hội đang được thực hiện ở nước ta là: Chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản;
trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí, chế độ tử tuất và chế độ
mới nhất là trợ cấp thất nghiệp. Chính sách Bảo hiểm xã hội đã khẳng định vai trò của
mình trong sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước chính
sách bảo hiểm xã hội cần phải luôn luôn được thay đổi cho phù hợp.
1.1.1 Stf lược về lịch sử ra đòi và phát triển của bảo hiểm
a. Lich sử phát triển của bảo hiểm thế giới
Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu trước khi xuất hiện thuật
ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay

là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Otto von Bismarck (1850) và
sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro
nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả 3 thành viên xã hội:
người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về bảo hiểm xã
hội ở Đức, sau đỏ, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước
châu Âu (Anh:1919, Ý: 1919, Pháp: từ 1918 ...), tiếp đến là các nước châu Mỹ Latinh,
Hoa Kỳ, Canada (từ sau 1930) và cuối cùng là các nước châu Phi, châu Á (giành độc
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 6

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Theo tổng kết của ILO (công ước 102 năm
1952), bảo hiểm xã hội bao gồm 9 chế độ chủ yếu sau: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau,
trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp
gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tử tuất. Công ước cũng nói rõ là
những nước phê chuẩn công ước này có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít
nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật hoặc ừợ cấp tử tuất. Việc áp dụng bảo
hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về nội dung thực
hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng noi trong việc đảm bảo cuộc sống
của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản
lý có thể đáp ứng. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế - xã hội,
bảo hiểm xã hội sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ.
Theo thống kê của ILO, đến năm 1981, có 139 nước có thực hiện hệ thống an
sinh xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội nói riêng, trong đó có 127 nước có chế độ trợ
cấp tuổi già, tàn tật và tử tuất; 79 nước có chế độ trợ cấp ốm đau và thai sản, 136 nước

có chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 37 nước có chế độ trợ cấp thất
nghiệp
b. Lịch sử phát triển của bảo hiểm Việt Nam
Giai đoạn trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước 1961)
Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và trong thời kỳ kháng chiến, mặc
dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn chăm lo cải thiện đời
sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với công nhân, viên chức Nhà
nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lưomg, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ
cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai
nạn lao động, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đĩnh công nhân, viên chức
khi chết và xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ.. .về mặt luật
pháp được thể hiện trong các văn bản sau: sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của
Chính phủ. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức.
Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân. Các văn bản
này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã hội, song do hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh tế khó khăn nên Nhà nước
chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về bảo hiểm xã hội
cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình quân với
tinh thần đồng cam cộng khổ. về nội dung chưa thống nhất giữa khu vực hành chính
và sản xuất, giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản
chi về bảo hiểm xã hội lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây dựng theo
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 7

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
nguyên tắc hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra

các văn bản lại chưa hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện.
“Một so vấn để quan trọng, cấp thiết đến đời song của đông đảo công nhân viên chức
như chế độ hưu tri, trợ cấp mẩt sức lao động, thôi việc, chế độ trợ cấp bệnh nghề
nghiệp chưa được quy định
Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một
cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các chế độ trợ
cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước, trong
kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết
một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia
đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi
người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào
khu vực kinh tế Nhà nước.
Giai đoạn thực hiện điểu lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ 1961 đến 12/1994)
Để phù họp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu không
ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế độ trợ cấp xã hội
cần được bổ sung và sửa đổi cho phù họp với thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32 Hiến pháp năm 1959 quy
định rõ: quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, mất sức lao
động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi
đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể
về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị
quyết trên, các Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn
Việt Nam đã phối họp nghiên cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội trình
Hội đồng Chính phủ ban hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn, Chính phủ đã ra Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo
Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước.
Nội dung của Điều lệ được tóm tắt như sau:
về đoi tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ quan, xí
nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân;
công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư họp doanh đã áp dụng chế độ trả

lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công
nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong kế hoạch Nhà nước.
về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứ vào sự cống hiến thời gian công tác, điều
kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội nhìn chung thấp
hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt phí tối thiểu.
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 8

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động - bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng chế độ có quy định
cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng...
về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cẩp\ do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước
đài thọ từ Ngân sách Nhà nước.
về quản lỷ quỹ bảo hiểm xã hội: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ
độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý toàn bộ quỹ này (sau này giao cho ngành
Lao động - Thưomg binh và Xã hội quản lý quỹ hưu trí và tử tuất).
Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã hội, các
chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm khuyến khích
mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và góp phần ổn định lực
lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Nghị định 218/CP được coi là văn
bản gốc của chính sách bảo hiểm xã hội và nó được thực hiện trong hom 30 năm. Tuy
nhiên để phù họp và đáp ứng với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn, nội dung
của các quy định trong Điều lệ tạm thời đã qua 8 lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản
hướng dẫn thực hiện. Đặc biệt là tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội

đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về sửa đổi, bổ sung một số chế độ chính sách
thưomg binh và xã hội khi Nhà nước thực hiện điều chỉnh giá - lương - tiền.
Trong giai đoạn này tuy qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng xét về bản chất thì
bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản sau:
Tồn tại trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, mọi vấn đề kinh tế xã hội nói
chung, bảo hiểm xã hội nói riêng đều do Nhà nước đảm bảo.
Nhà nước quy định và trực tiếp thực hiện bảo hiểm xã hội bằng bộ máy hành
chính từ ngân sách Nhà nước.
Mọi người khi đã vào biên chế Nhà nước thì đương nhiên được đảm bảo việc
làm, thu nhập và bảo hiểm xã hội.
Do Ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, thường xuyên mất cân đối, vì vậy đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa được mở rộng, trợ cấp tính trên tiền lương nên
chưa đảm bảo cho cuộc sống và không kịp thời.
Chính sách và các chế độ bảo hiểm xã hội còn đan xen thay nhiều chính sách xã
hội khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, an dưỡng, điều dưỡng, kế hoạch hoá gia
đình.
Tóm lại: Trong suốt thời kỳ lịch sử của đất nước từ khi Nhà nước Cộng hoà dân
chủ Việt Nam ra đời đến hết năm 1994, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn,
chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung, công tác tổ chức thực hiện chế độ chính
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 9

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
sách bảo hiểm xã hội nói riêng cũng luôn thay đổi, bổ sung, sửa đổi cho phù họp, song
nhìn chung trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, việc tham gia bảo hiểm xã hội
được xác định bằng thời gian công tác hay gọi là thời gian cống hiến thì việc xây dựng

các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được lồng ghép cùng với các chính sách xã hội,
chính sách kinh tế. về cơ bản, chính sách bảo hiểm xã hội trong thời kỳ này đã hoàn
thành cơ bản nhiệm vụ và sứ mệnh của mình trong một thời kỳ dài, nó đã góp phần ổn
định cuộc sống, đảm bảo thu nhập cho hàng triệu cán bộ công nhân viên chức đang
lảm việc được yên tâm công tác, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc; hàng triệu người lao
động khi già yếu được đảm bảo về vật chất và tinh thần, cũng như gia đình họ bằng trợ
cấp bảo hiểm xã hội hoặc lương hưu, đồng thời góp phần to lớn trong việc đảm bảo ổn
định xã hội và an toàn xã hội.
Tuy nhiên, qua nhiều năm các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn quá nhiều
nên không tránh khỏi sự chồng chéo, trùng lắp hoặc có những vấn đề không được quy
định, khó khăn cho việc thực hiện chế độ; có nhiều cơ sở cho việc vận dụng gây nên
mất công bằng xã hội; các vãn bản tính pháp lý chưa thật cao, chủ yếu mới ở dạng
Nghị định, Điều lệ tạm thời, Quyết định, Thông tư. về tổ chức bộ máy thực hiện chế
độ bảo hiểm xã hội chưa tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng hoạt
động sự nghiệp của bảo hiểm xã hội, còn phân tán, hoạt động kém hiệu quả, sự phối
họp để giải quyết các vướng mắc cho đối tượng gặp nhiều khó khăn, mỗi cơ quan, đơn
vị, ngành chỉ giải quyết một vài công việc hoặc khâu công việc. Quỹ bảo hiểm xã hội
thu không đảm bảo đủ chi, việc chi trả lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã
hội thường xuyên bị chậm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội.
Giai đoạn từ 1/1995 đến nay
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương đổi mới quản lý Nhà nước từ nền
kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phàn
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN,
chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem xét, nghiên cứu thay đổi sao cho phù họp
không những so với tình hình đổi mới kinh tế của đất nước mà dần hoà nhập với
những quy định, những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội thế giới và nhất là các nước
trong nền kinh tế chuyển đổi.
Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo hiểm xã
hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP

ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối với công chức,
công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình bảo hiểm xã hội bắt
buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 10

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ
bản và khắc phục được những nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm
thời ban hành những năm trước đây.
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động trong
khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo hiểm xã hội.
về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp mất sức lao động
mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với
mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện
hưởng, thời gian và mức hưởng.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ bảo
hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức tiền lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hưởng. Đối
với lực lượng vũ hang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã hội (Nghị định số
45/CP của Chính phủ).
Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội dung
chủ yếu sau:
Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người sử

dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn Quỹ bảo hiểm
xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc
thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động. Với quy định về
mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy
được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập; quỹ
bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng. Quỹ bảo
hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư, bảo đảm tính chất của bảo hiểm
xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời
đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội luôn được ổn định lâu dài.
Như vậy, từ năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm
xã hội với trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, xác định rõ
trách nhiệm của người sử dụng lao động, tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với
ngân sách Nhà nước.
Đe thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
theo luật định, xoá bỏ tính hành chính trong hoạt động bảo hiểm xã hội, ngày
16/02/1995 Chính phủ ra Nghị định số 16/CP về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 11

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Nam căn cứ Luật tổ chức Chính phủ Ngày 30 tháng 9 năm 1992 và điều 150 Bộ luật
Lao động, xét theo đề nghị của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức- Cán bộ Chính phủ.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập ừên cơ sở thống nhất các tổ chức Bảo hiểm
xã hội hiện nay ở Trưng ương và địa phương thuộc hệ thống lao động- Thương binh,
Xã hội và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Chính phủ chỉ đạo công tác

quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội theo
pháp luật của Nhà nước.Bảo hiểm xã hội Việt Nam có tư cách pháp nhân, hạch toán
độc lập và được Nhà nước bảo hộ, có con dấu riêng, có tài khoản, có trụ sở đặt tại thủ
đô Hà Nội. Quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của
Nhà nước. Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện chi
trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội đã đảm bảo
cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục được những tồn tại trước
đây.
Tuy nhiên, với các quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thực hiện từ năm 1995
còn một số điểm tồn tại cần được nghiên cứu hoàn thiện như:
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn hạn hẹp, Nhà nước mới quy định lao
động làm việc trong các doanh nghiệp mà có từ 10 lao động trở lên mới thuộc diện bắt
buộc tham gia bảo hiểm xã hội, vì vậy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tuy đã được
mở rộng hơn so với quy định trước đây, nhưng so với tổng số lao động xã hội thì còn
chiếm tỷ ừọng thấp, mới chỉ có khoảng 14% số người trong độ tuổi lao động tham gia
bảo hiểm xã hội. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến số người lao động trong xã hội
được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội, đồng thời quy mô quỹ bảo hiểm xã hội bị
hạn chế.
Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn đan xem một số chính sách xã hội.
Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội từ năm
1995 đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã có những sửa đổi, bổ sung:
về đổi tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã,
phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP thực hiện từ 1/1998; đối tượng là
người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc ngành giáo dục,
y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
về chỉnh sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ lệ
hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định số
93/1998/NĐ-CP, số 94/1999/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Điều lệ bảo
hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của
Luật Sỹ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số 61/2001/NĐ-CP về chế độ bảo hiểm

xã hội đối với người lao động khai thác trong hầm lò; Quyết định số 37/2001/QĐ-CP
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 12

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức; Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP về tinh giản biên chế
trong cơ quan hành chính sự nghiệp và Nghị quyết số 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lại
các doanh nghiệp Nhà nước.
Ngày 12 tháng 7 năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật bảo hiểm xã hội, luật
này có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2007. Bước đầu đánh dấu sự hoàn thiện của hệ
thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống bảo hiểm xã hội nói riêng. Luật bảo hiểm
xã hội đã bổ sung thêm chế độ bảo hiểm mới đó là bảo hiểm thất nghiệp đã góp phần
không nhỏ để hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển và ổn định đời sống của người lao
động khi họ gặp những rủi ro.
1.1.2 Khái niệm bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào quan
điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu nhìn từ những góc độ nào:
Từ góc độ pháp luật: Bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự
tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm ừợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia
đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bĩnh thường do ốm đau, tai nạn lao
động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết.
Từ góc độ tài chính: Bảo hiểm xã hội là việc chia sẻ rủi ro và tài chính giữa
những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Từ góc độ chính sách xã hội: Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội nhằm
đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro

xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội...
Từ những định nghĩa trên ta có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về bảo hiểm xã
hội như sau :“BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình
thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và
các nguồn thu họp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao
động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
1.1.3 Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát
triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống bảo hiểm xã hội
có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển
của bảo hiểm xã hội phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát
triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống bảo hiểm xã hội vững
mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống bảo hiểm xã hội càng đa dạng, các chế
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 13

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
độ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng
phong phú.
Thực chất bảo hiểm xã hội là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã
hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ
chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội và các nguồn thu họp pháp khác của quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy,
bảo hiểm xã hội cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội,

BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi
phát sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội như: ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, già yếu, chết... Xét trong nội tại bảo hiểm xã hội, sự phân phối của bảo hiểm
xã hội được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là
sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối
lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo chiều
dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa
những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người
sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. Nói
cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian.
Nói tóm lại, Bảo hiểm xã hội vừa mang bản chất kinh tế vừa mang bản chất xã
hội. về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao
động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. về mặt xã
hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của bảo hiểm xã hội, người lao động chỉ phải đóng góp
một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng xã hội sẽ có
một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, bảo hiểm xã hội đã
thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của bảo hiểm xã hội không tách rời mà đan
xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã
nói đến tính xã hội của bảo hiểm xã hội, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại
đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của bảo hiểm xã hội.
1.1.4 Vai trò của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Sự ra đời của
bảo hiểm xã hội không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa về mặt
chính trị đối với một quốc gia:
Dưới góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc
sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra
một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm
vi bảo hiểm xã hội.
GVHD:Nguyễn Ánh Minh


Trang 14

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Dưới góc độ chính trị, bảo hiểm xã hội góp phần liên kết giữa những người lao
động xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, bảo hiểm xã hội được hiểu như là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất.
Thông qua đó, bảo hiểm xã hội bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực
lượng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội.
Suy cho cùng, hoạt động của bảo hiểm xã hội trước hết là nhằm khắc phục
những thiệt hại của rủi ro, kịp thời bù đắp thiệt hại lấy lại sự cân bằng, ổn định tình
hình tài chính. Ngoài sự đảm bảo về mặt vật chất, tài chính trước rủi ro hoạt động bảo
hiểm còn mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất
trắc cho những người lao động. Cùng với việc mang lại sự an toàn về tài chính và tinh
thần thì nghề nghiệp bảo hiểm còn góp phần phát triển hệ thống an sinh xã hội, chia sẻ
gánh nặng cho hệ thống phúc lợi xã hội. Đặc biệt hoạt động bảo hiểm còn là hoạt động
trung gian tài chính, thông qua các hoạt động thu hút, tập trung các nguồn vốn nhàng
rỗi, chuyển hóa vốn và đầu tư vốn. Hoạt động bảo hiểm tạo nên một kênh huy động
vốn quan trọng trong nền kinh tế.
1.1.5 Phân biệt bảo hiểm kỉnh doanh và bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội thực chất là chế độ xã hội của nhà nước nhằm bảo vệ người lao
động bằng cách tập trung nguồn tài chính huy động được từ người lao động, người sử
dụng lao động và sự hổ trợ của Nhà nước để thực hiện trợ cấp cho người lao động khi
họ gặp rủi ro: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tuổi già, mất sức
lao động, tử vong hoặc bị mất thu nhập.
Mặc dù đều vận dụng nguyên tắc tương hổ, số lớn bù số ít để chuyển giao rủi ro

nhưng bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội là hai hệ thống hoàn toàn độc lập nhau,
sự khác biệt giữa hai loại hình bảo hiểm này thể hiện trên nhiều khía canh:
Bảo hiểm xã hội không có mục đích kinh doanh mà nhằm thực hiện phúc lợi xã
hội, được tiến hành bởi hệ thống bảo hiểm xã hội quản lý thống nhất từ trung ương đến
cơ sở. Kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi sự vận hành của thị trường bảo hiểm
với sự tham gia của nhiều loại doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và đại lý
bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm xã hội chỉ giới hạn trong các rủi ro ảnh hưởng
đến tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động của con người. Phạm vi hẹp hơn bảo hiểm
kinh doanh.
về cơ bản, mức đỏng gỏp bảo hiểm xã hội được ấn định thống nhất bởi quy định
chung của pháp luật, phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập của người được bảo hiểm không
giống các yếu tố định phí rất linh hoạt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 15

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Phương thức chi trả cũng khác nhau, bảo hiểm xã hội được tính theo những căn
cứ định mức cụ thể phụ thuộc vào mức đóng bảo hiểm xã hội, còn trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm thì việc xác định số bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm dựa trên
nhiều nguyên tắc,phương pháp khác nhau.
Bảo hiểm xã hội không áp dụng nguyên tắc sàn lọc đối tượng bảo hiểm và phân
chia rủi ro trong khi đó đây là những nguyên tắc kỹ thuật rất quan trọng của hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.
1.2 Bảo hiểm thất nghiệp cho ngưòi lao động
1.2.1 Khái quát chung về thất nghiệp

a. Khái niệm
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội khi con người có thể, có khả năng,
muốn làm việc nhưng không nhận được việc làm vì những nguyên nhân khách quan
không phụ thuộc vào bản thân họ có thể là do không có chổ làm việc trống hoặc có thể
là do nghề nghiệp không phù hcrp hay là do họ không đủ trình độ để đáp ứng với nhu
cầu công việc.
Quan điểm người như thế nào được gọi là người thất nghiệp ở mỗi nước đều
khác nhau như ở Anh thì người thất nghiệp là người không làm việc một giờ nào trong
vòng hai tuần điều tra; Ở Mỹ thì người thất nghiệp là những người không có việc làm
trong tuần điều tra, họ có khả năng và mong muốn tìm được việc làm trong vòng 4
tuần đã qua, đồng thời họ có liên hệ với trung tâm dịch vụ việc làm hoặc trực tiếp với
người sử dụng lao động; Còn ở Đức định nghĩa rằng người thất nghiệp là người tạm
thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện những công việc ngắn hạn; Thái
Lan thì cho rằng họ là những người lao động không có việc làm, có năng lực và muốn
làm việc; Nhật Bản lại cho rằng người thất nghiệp là người không có việc làm trong
tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm kiếm việc làm hoặc chờ kết
quả xin việc '. Nhưng tóm lại, một người được xem là thất nghiệp phải thể hiện đầy đủ
các đặc trưng: Là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang không có
việc làm, đang đi tìm việc làm và sẵn sàng đi làm ngay khi có việc làm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, việc làm và thất nghiệp là vấn đề
mang tính toàn cầu, vấn đề này không loại trừ quốc gia nào cho dù quốc gia đó là nước
đang phát triển hay là nước có nền công nghiệp phát triển. Việc giải quyết tình trạng
thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải bởi vì nó vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề chính
trị - xã hội nên việc đưa ra các biện pháp hữu hiệu giải quyết nạn thất nghiệp là việc
làm rất cấp thiết, "SÙ tính cấp thiết đó nước ta đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm hạn

GVHD:Nguyễn Ánh Minh
SVTH:Đào Trần Thúy Hằng
Trang 16
Xem: Hồ Sĩ Sà, giáo trình bảo hiểm, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002, tr 60



Nguyên nhân thất nghiệp
Thất
Thất
Thất
Thực
Thực trạng
trạng và
và giải
giải pháp
pháp của
củanghiệp
việc
việc áp
áp dụng
dụng
bảo
bảo
hiểm
hiểm thất
thất nghiệp
nghiệp cho
cho người
người lao
lao động
động
nghiệpnghiệp
tạm
cơ cấunhu

nhiềutăng
nguyên
nhân
dẫn
đến
thất
nguyên
nhân có
ra
chế tỉ lệ Có
thấtrất
nghiệp
nhanh

mức
thấp
nhấtnghiệp,
và bảomột
hiểm
thất nghiệp
là thể
mộtgây
trong
thời
cầu
nhiều
hơn
một
loại
thấtđể

nghiệp.
Suy tình
thoáitrạng
kinhthất
tế ảnh
hưởng
nhữngvề
biện
pháp
tối hình
ưu nhất
khắc phục
nghiệp
nóiđến
hên.toàn bộ nền kinh
* Không có thông
tình
hình
+++
(+ tin
: ảnh hưởng
ít; trên
++ : thị
ảnh hưởng
vừa; +++ : ảnh hưởng nhiầi)2
trường lao động.tế gâyb.ra thất Đặc
nghiệp nhu
cầu nhưng
một số ngành
vàViệt

lĩnh vực Nam
kinh
điểm
củacũng tác
thấtđộng đến
nghiệp

Bên cạnh đó, thất nghiệp là hậu quả tất yếu của hệ thống quan liêu mệnh lệnh,
* Do sự di chuyển
củađược
người
độngcơlàcấu.
tế
gây
ra
thất
nghiệp
Chínhnghiệp”
sách tiền
lươngtùy
tối thuộc
thiểu theo
cao có
thểtriển
ảnh
Tuy
gọilao
chung
“ +++
Thất

nhưng
vào hướng
tình hình
phát
chứa
đựnglao
rấtđộng
nhiều
nhu: việc
* Tham gia thị
trường
lầnmâu
đầu thuẫn+++
++du thừa sức lao động trong các doanh nghiệp
hưởng
việcmà
làmthất
gâynghiệp
ra thấtởnghiệp
cơ cấu,
đặc biệt
những
giathất
thị
kinh tế đến
xã hội
mỗi nước
có những
đặcvới
điểm

khácngười
nhau.tham
Riêng
nhảtrường
nuớc,lao
làmđộng
cho của
người lao+++
động không
* Tham gia lại thị
++ phát huy hết khả năng của mình, khi chuyển
trường lao
độngNam
lần
đầunhững
và những
ngườinhư
chưasau:
có Trước
tay nghề
hoặc
taynghiệp
nghề thấp;
nghiệp
ở Việt
đặc điểm
tiên,
Thất
được đồng
thừa

những người trước
nguyện
thấtcó
đổi đây
nền tựkinh
tế sang
cơ chế thị trường đi đôi với việc tinh giản biên chế đã dẫn đến
nghiệp
thời
giảmnhanh
nhu càu
lao động
của tế
một
số doanh
nghiệp.
Cơ chế
dụng
nhậnlàm
và tăng
từ khi
nền kinh
nước
ta chuyển
đổi sang
nềncứng
kinhtrong
tế thịsửtrường
hiện tượng thất nghiệp hàng loạt trên cả nước, một phần là do khả năng thích ứng thấp
* Lạm phát

++
lao
tại xã
doanh
nghiệp
nhàdonước
gây môn
ra cảnghề
thất nghiệp của
cơ cấu
thấtlao
nghiệp
địnhđộng
hướng
hội chủ
nghĩa,
chuyên
lực và
lượng
độngnhu
rất
thụ động
những người
* Mất đất nông và
nghiệp
do làmcủa
KCN,
++bị giảm++biên chế trong thị trường lao động sôi nổi, đòi
cầu
chi phí

cao,ngày
năng càng
lực cạnh
doanh
nghiệp
yếu. vìTiếp
theolao
là,động
thất quá
nghiệp
tăngtranh
trongcủa
môi
trường
sản nhà
xuấtnước
thủ thấp.
công
KCX
hỏi tính cạnh tranh về năng lực lao động cao. Song song với vấn đề trên, một nguyên
Những
nguyên
nhânyếu
củakém
thấttrong
nghiệp
có thể
khảo
Trên cơ
những

nghiệp,
cơ khíđộng
hóa
mộtta
nền
kinhtham
tế chủ
yếuởlàbảng
nông1.nghiệp
đã sở
kìm
hãm
* Tăng quy mô nhân
lực
lượng
+++
cũnglao
không kém phần quan trọng
quyết định tỷ lệ thất nghiệp trên cả nước là hệ
* Trình độ đào tạo
phù
vớinghiệp
+++
nghiên
vềhọp
thất
và tổng
ý kiến
của nhiều
nhà kinh

tế trên
việckhông
giảicứu
phóng
người
lao động.
Bênhợp
cạnh
đó, phần
lớn người
lao động
khithế
bị giới
thất
thống đào tạo chưa thích họp với nhu cầu chuyên môn kỹ thuật, số lượng cũng như cơ
yêu càu làm việcBảng
Nguyên
gắn với
nghiệp1.không
cónhân
khả năng
tự các
tạo loại
việchình
làm thất
cho nghiệp
mình, ở nước ta, tỷ lệ thất nghiệp thành
sự theo
của việc
* Cơ cấu nghiệpcấu

vụ thực
(nghề)
vùnglàm.
về
+++
thị cao, còn ở vùng nông nghiệp thì tỷ trọng việc làm không đầy đủ rất cao và tỷ lệ thất
số lượng và chất lượng1.2.3
không
Ảnh
phùhưởng
họp của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế và xã hội
ở những vùng phía bắc cao hơn
so với các vùng ở phía Nam. Ở Việt Nam phần
* Áp dụng côngnghiệp
nghệ Trước
mới
+++
hết thất nghiệp ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của người lao động,
* Thay đổi tronglớn
hệ thất
thống
giá trịlà giới trẻ, do
+ không có
+++
nghiệp
trình độ chuyên môn, chất lượng lực lượng lao
không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động khác,
* Thay đổi cơ cấu
dânthấp

số nên không đáp ứng nhu cầu của thị trường
+++ lao động. Khác với các nước chủ
động
tiêu
tốn tối
thờithiểu
giancủa
vô nghĩa, không có+++
khả năng
chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu
* Chính sách tiền
lương
+++
nghĩa Đông Âu, thất nghiệp ở Viêt Nam chưa mang tính chu kỳ.
cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Đặc biệt nó ảnh hưởng trầm trọng đến những người
Chính phủ
1.2.2
Phânkinh
loạitếvà nguyên nhân++dẫn đến+++
thất nghiệp
* Đình đốn nhuđược
cầu vàxem
suylàthoái
trụ cột trong
gia đình. Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất
* Cơ chế sử dụng lao Thất
động nghiệp
trong khu
vựcphân thành ba++
được

loại: Thất+++
nghiệp tạm thời là tình trạng không có
nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm chất lượng sức khỏe.
nhà nước
việc làm ngắn hạn do không có đày đủ thông tin về cung - cầu lao động, hoặc chờ đợi
Trước
đặt ra, nó
* Chi phí lao động
quánhững
cao khó khăn do thất nghiệp+++
+++buộc người lao động nhiều khi phải
vào những điều kiện lao động và thu nhập không thực tế hoặc liên quan đến sự di
rằng công việc đó là không đúng khả
* Năng suất laochọn
động công
thấp việc thu nhập thấp họ vẫn nhận thức+++
chuyển
của
người
lao
động
giữa
các
doanh
nghiệp,
các vùng và lĩnh vực kinh tế.
1 * Do tính chấtnăng
mùa của
vụ của
sản xuất

1giữađộng
họ hay
mức lương không phù họp với +++
sức lao
mà họ đã bỏ ra, nhưng họ
Thất nghiệp cơ cấu là tình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc dài hạn do không
vẫn chấp nhận công việc đó là vì họ muốn nhanh chóng giải quyết các khó khăn do
phù họp về quy mô và cơ cấu cũng như trình độ của cung lao động theo vùng đối với
thất nghiệp mang lại càng nhanh càng tốt. về phía người sử dụng lao động thì sử dụng
cầu lao động (số chỗ làm việc). Sự không phù họp có thể là do thay đổi cơ cấu việc
tĩnh trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công cho mình như: không
làm yêu cầu hoặc do biến đổi từ phía cung của lực lượng lao động. Ở nước ta thất
cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội
nghiệp cơ cấu biểu hiện rõ nhất trong những năm khi mà GDP tăng trưởng cao nhưng
thăng tiến, điều này cho ta thấy thất nghiệp cũng là nguyên nhân kìm hảm sự phát triển
thất nghiệp giảm không đáng kể, thậm trí còn trầm trọng hơn với một số đối tượng như
của lực lượng sản xuất làm xã hội chậm phát triển. Vì vậy, nếu thiếu các nguồn tài
thanh niên, phụ nữ, người nghèo và với những thành phố lớn. Thất nghiệp nhu cầu là
chính và phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù họp với
trình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc dài hạn do giảm tổng cầu về lao động và
trình độ, năng lực, gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Để hạn chế việc này thì
làm nền kinh tế đĩnh đốn hoặc suy thoái, dẫn đến giảm hoặc không tăng số việc làm.
trợ cấp thất nghiệp là cần thiết, cỏ trợ cấp thất nghiệp người lao động sẽ có nguồn tài
Thất nghiệp nhu càu xuất hiện trong những năm đàu của cuộc cải cách kinh tế ở nước
chính tạm thời để chan trãi các chi phí cần thiết trong thời gian tìm một công việc mới
ta (1986 - 1991) và gần đây cỏ xu hướng tăng lên do đình đốn, ứ đọng sản phẩm ở một
phù họp hơn, họ sẽ không vội vàng nhận một công việc không phù họp với bản thân.
số ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, đồng thời với đó là
quá trình cải cách doanh nghiệp nhả nước và dôi dư lao động.


GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 18
19
17

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


3Xem: Thị trường lao động, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, tr.440
4 Xem:
Thi trường lao
động, Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động Nxb. Chính tri
quốc
gia, 2005, tr.445
Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng tới đời sống vật chất người lao động mà còn
ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Người thất nghiệp dễ ở trong tình trạng mình là người
thừa của xã hội, tuy nhiên sự tác động là khác nhau giữa hai giới. Ở phụ nữ nếu không
có việc làm ngoài thì việc nội trợ và chăm sóc con cái vẫn có thể được chấp nhận là sự
thay thế thỏa đáng, ngược lại ở người nam, đem thu nhập cho gia đình gắn chặt đến giá
trị cá nhân, lòng tự trọng. Nam giới khi mất việc làm thường tự ti, rất nhạy cảm và dễ
cáu bẳn, họ có thể tìm đến rượu, thuốc lá để quên đi buồn phiền, tình trạng này kéo dài
ngoài khả năng gây nghiện ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe còn có thể khởi tạo một
vấn đề mới đỏ là bạo hành gia đình. Họ cũng dễ bị rối loạn tâm lý như buồn phiền, mất
ngủ, trầm cảm, đôi khi còn dẫn đến hành vi tự sát. Vì vậy thất nghiệp cũng là nguyên
nhân để tệ nạn xã hội tăng cao.
Đối với nền kinh tế thì ảnh hưởng của thất nghiệp cũng không nhỏ. Tỷ lệ thất
nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp - các nguồn lực con
người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất
nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.

Thất nghiệp làm người dân không có thu nhập nên nhu cầu tiêu dùng của họ cũng
giảm và dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng,
cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Các nhà kinh tế đã
tính rằng, mức độ thất nghiệp cho phép trong nền kinh tế khoảng từ 1 đến 3%, nếu thất
nghiệp lên tới 5% thì nền kinh tế có khả năng tồn tại, nhưng nếu vượt quá 7% thì có
nguy cơ bùng nổ những vấn đề xã hội 3. C.Mc Connell và S.L.Brue cho rằng: “... Thất
nghiệp - đó là một tai họa lớn nhất về kinh tế, nó đồng thời cũng là khủng hoảng về xã
hội. Sự đình trệ sẽ dẫn tới kém tích cực, còn kém tích cực sẽ dẫn tới mai mọt về
chuyên môn, tổn thương lòng tự tôn, suy đồi những nền tảng tinh thần, phân rã gia
đình và cũng dẫn đến sự bất ổn về chính trị - xã hội ”4. Tóm lại, thất nghiệp là nguyên
nhân kìm hàm sự phát triển kinh tế xã hội, làm mất đi nguồn thu nhập của gia đình và
góp phàn làm tăng khoảng cách về sự phân hóa thu nhập của cư dân.
1.2.4 Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Xã hội ngày càng phát triển, cái mới hình thành dần dần thay thế cái cũ lạc hậu
lỗi thời. Theo chủ nghĩa Mac - Lênin : “ Phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn”. Như vậy, nền
kinh tế nước ta ngày càng phát triển thì càn đòi hỏi một nguồn nhân lực có chuyên
môn cao để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, chính vì điều này mà các doanh

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 20

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


5 chương V của Luât bào hiểm xã hội 2006
Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
nghiệp và một số cơ quan nhà nước đã tiến hành giảm biên chế đối với những người
không có trình độ chuyên môn hoặc chuyên môn yếu, thay vào đó là máy móc, trang

thiết bị hiện đại và những người có trình độ chuyên môn cao. Bên cạnh đó, việc lấy đất
nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp khu chế xuất làm cho người dân mất đất
sản xuất mà không có một chính sách hổ trợ hợp lý để người dân chuyển đổi ngành
nghề. Từ đó, tình hình thất nghiệp ngày càng tăng cao không chỉ riêng nước ta mà ở tất
cả các nước trên thế giới, giải quyết vấn đề này là việc rất cấp thiết vì nó liên quan đến
vấn đề an sinh xã hội mang tính toàn cầu. Vì thế, để hạn chế hậu quả của việc thất
nghiệp nhà nước ta đã ban hành quy định về bảo hiểm thất nghiệp, có hiệu lực ngày
01/01/2009 5. Bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận nhỏ của bảo hiểm xã hội nhưng đã
góp phần không nhỏ để hoàn thiện chính sách xã hội ở Việt Nam. Đây là một hình
thức bảo hiểm xã hội mới không chỉ ở Việt Nam mà còn trên cả khu vực Đông Nam Á,
cả khu vực chỉ có 2 nước triển khai mô hình này đó là Việt Nam và Thái Lan. Chính vì
đây là một loại hình bảo hiểm mới nên không tránh khỏi những thiếu sót trong việc áp
dụng trên thực tế, dẫn đến nhiều bất cập làm ảnh hương đến lợi ích của người lao động.
Song, chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mà bảo hiểm thất nghiệp mang lại
sau 2 năm thực hiện.thu nhập do bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều
kiện tham gia vào thị trường lao động, bảo hiểm thất nghiệp cũng là một loại hình của
bảo hiểm con người, nó là một mảng nhỏ của bảo hiểm xã hội ( chương V luật Bảo
hiểm xã hội)
1.2.5 Sự cần thiết của bảo hiểm thất nghiệp trong xã hội ngày nay
Bảo hiểm thất nghiệp có vai trò trợ giúp về mặt tài chính cho người bị thất
nghiệp để họ ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định,
từ đỏ tạo điều kiện cho họ có thêm cơ hội mới để tìm kiếm việc làm trên thị trường lao
động. Vì thế bảo hiểm thất nghiệp được xem là hạt nhân của thị trường lao động và
nằm trong chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia. Chính sách này trước hết là vì lợi
ích của người lao động và người sử dụng lao động và sau đó là vì lợi ích quốc gia.
Ngoài hỗ trợ về mặt tài chính bảo hiểm thất nghiệp còn kích thích người thất
nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng đi làm việc. Như vậy bảo hiểm thất nghiệp có
hai chức năng: Bảo vệ quyền lợi và khuyến khích người lao động bị mất việc làm, điều
này không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động mà còn có ý nghĩa đối với cả người
sử dụng lao động. Đối với người sử dụng lao động, do có bảo hiểm thất nghiệp nên khi

thất nghiệp xảy ra đối với người lao động, người sử dụng lao động không phải tăng
thêm chi phí để trả trợ cấp mất việc làm cho họ.

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 21

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Hom nữa, khi người lao động biết rõ nếu thất nghiệp mình sẽ được trợ cấp thất
nghiệp, họ sẽ yên tâm làm việc cho doanh nghiệp hom. Điều này sẽ khuyến khích
doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hom, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển sản xuất.
Đối với Nhà nước, nhờ có bảo hiểm thất nghiệp nên gánh nặng ngân sách sẽ
giảm đi khi thất nghiệp xảy ra (thường vào thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách nhà
nước eo hẹp lại phải chi nhiều cho các vấn đề xã hội khác). Mặt khác, khi có trợ cấp
thất nghiệp vấn đề căng thẳng xã hội sẽ không xảy ra, nhà nước không còn phải lo đối
phó với các cuộc biểu tình, không phải chi nhiều ngân sách để giải quyết các tệ nạn xã
hội, tội phạm do nguyên nhân thất nghiệp gây nên. Vì những lý do trên sự ra đời của
bảo hiểm thất nghiệp là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
1.2.6 Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm thất nghiệp không có hợp đồng trước. Người tham gia và người thụ
hưởng là một. Không được chuyển rủi ro của những người bị thất nghiệp sang những
người có khả năng bị thất nghiệp. Không có dự báo chính xác về số lượng, phạm vi và
có thể bị thiệt hại về kinh tế rất lớn nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, tỷ lệ thất
nghiệp ngày càng tăng như hiện nay.
1.2.7 Phân biệt bảo hiểm thất nghiệp và trọ cấp thất nghiệp
Pháp luật Việt Nam chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa hai chế độ này. Theo hệ

thống pháp luật của Mỹ thì bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp được phân
định rõ ràng, bảo hiểm thất nghiệp có mục đích chính là hỗ trợ cho những người lao
động đang ừong tình trạng bị thất nghiệp tạm thời hoặc trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế người lao động bị thất nghiệp trong thời gian dài hoặc đã nhận bảo hiểm thất
nghiệp quá thời gian quy định mà vẫn chưa tìm được công việc làm mới thì họ sẽ bị
cắt chế độ bảo hiểm thất nghiệp, người lao động chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp
khi đã bị cắt chế độ bảo hiểm thất nghiệp mà vẫn còn gặp khó khăn về tài chính, người
thất nghiệp lúc này có quyền xin hưởng trợ cấp thất nghiệp, trong trường hợp này các
đối tượng hưởng trợ cấp phải trải qua kiểm tra thu nhập và tài sản. Họ phải chứng
minh được bản thân đang trong hoàn cảnh khó khăn, không thể tự nuôi bản thân bằng
bất kỳ nguồn thu nhập nào ngoài tiền trợ cấp thất nghiệp. Điều này không có trong bảo
hiểm thất nghiệp. Các khoản tiền mà người lao động nhận được từ bảo hiểm thất
nghiệp hay trợ cấp thất nghiệp cũng khác nhau tùy quy định của mỗi bang hoặc của
nhà nước. Một điểm khác biệt nữa là bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp được
tài trợ từ các nguồn khác nhau. Bảo hiểm thất nghiệp thường được lấy từ khoản nộp
thuế của các chủ doanh nghiệp, ở một số bang còn lấy từ đóng góp của người lao động
và nếu quỹ này gặp tình trạng thâm hụt sẽ được nhà nước cho vay có lãi suất. Trong
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 22

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
khi đó, trợ cấp thất nghiệp là một dạng phúc lợi xã hội, do chính quyền bang và liên
bang tài trợ.
Như vậy do không phân biệt rõ ràng hai chế độ đã dẫn đến sự thiếu sót của pháp
luật Việt Nam, ừong điều kiện nước ta đã hòa nhập vào nền kinh tế thế giới và lúc bấy
giờ vấn đề an sinh xã hội đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất

nước.
1.3 Nhà nước tổ chức quản lý bảo hiểm thất nghiệp
Nhà nước bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động bảo hiểm thất nghiệp: Khác với
các loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm thất nghiệp có vai trò đảm bảo an sinh xã hội.
Vì vậy, Nhà nước luôn luôn bảo hộ và bảo trợ cho bảo hiểm thất nghiệp, nhằm đảm
bảo cho bảo hiểm thất nghiệp không bị ảnh hưởng trước những biến động về kinh tế và
xã hội, đặc biệt là những biến động về tài chính. Sự bảo hộ và bảo trợ của Nhà nước
đối với các hoạt động của bảo hiểm thất nghiệp thể hiện ở một số điểm sau: Bảo đảm
giá trị của quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong các tài khoản tại ngân hàng để đảm bảo mức
chi trả cho đối tượng hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hộ cho quỹ bảo hiểm thất
nghiệp trong các hoạt động đầu tư, sinh lời. Nhà nước ưu tiên cho quỹ bảo hiểm thất
nghiệp được đầu tư phần quỹ nhàn rỗi vào những lĩnh vực an toàn, rủi ro thấp nhất và
thuận lợi khi thu hồi vốn để kịp thời chi trả các khoản chi bảo hiểm thất nghiệp khi có
nhu cầu lớn. Không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp đối với các dự án đầu tư của quỹ
bảo hiểm thất nghiệp. Hỗ trợ về tài chính cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong những
trường hợp quỹ bảo hiểm thất nghiệp bị thâm hụt vì những lý do bất khả kháng.
Nhà nước tham gia bảo hiểm thất nghiệp với hai tư cách. Thứ nhất, là người sử
dụng các cán bộ,công chức, viên chức nhà nước và những người hưởng lưomg từ ngân
sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia đóng góp bảo hiểm thất nghiệp thông qua kinh
phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp tưomg đương người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp. Thứ hai, là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ bảo hiểm thất
nghiệp, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong những
trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn với tư
cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho các hoạt động.
1.4 Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của một số nước phát triển trên thế giói
1.4.1 Khái

quát

chung


về

bảo

hiểm

thất

nghiệp

của

Mỹ

Trên thế giới hệ thống bảo hiểm thất nghiệp phát triển không đồng đều, các
nước công nghiệp có kinh nghiệm hơn trăm năm đối phó với thất nghiệp và khắc phục
được hậu quả của nó vì họ có trình độ phối hợp cao trong chính sách kinh tế - xã hội của
nhà nước, thích ứng với những thay đổi trong và ngoài nước, trong khi đó các nước đang

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 23

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
phát triển và chậm phát triển thì bảo hiểm thất nghiệp đang trong tình trạng phôi thai hoặc
hoàn toàn chưa có.

Ở Mỹ bảo hiểm thất nghiệp được tổ chức như một hệ thống liên bang - bang để
cung cấp hỗ trợ cơ bản cho người lao động bị mất việc làm. Đây là khoản hỗ trợ tài
chính tạm thời dành cho những người bị mất việc mà đáp ứng đủ yêu cầu theo Luật
của bang, thường lấy tiền từ khoản nộp thuế của các chủ doanh nghiệp thuộc hệ thống
chính quyền liên bang - bang. Hệ thống Liên bang quy định chung, từ đó cấp Tiểu
bang hướng dẫn, quản lý và thực hiện chương trình của bang mình. Việc quản lý và
thực hiện chương trình bảo hiểm thất nghiệp ở các Tiểu bang cũng khác nhau. Một số
Tiểu bang có mức hỗ trợ thất nghiệp khá cao, một số Tiểu bang lại có mức thấp hơn.
Mục đích của chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Hoa Kỳ là: - Ngăn ngừa sự bất ổn định về
kinh tế, xã hội; hỗ trợ, đào tạo nhằm giúp người lao động có cơ hội trở lại thị trường
lao động, tìm việc làm mới; trợ cấp thất nghiệp. - Thay thế một phần thu nhập cho
người lao động bị mất việc làm mà không phải lỗi của họ. Để được hưởng bảo hiểm
thất nghiệp người lao động phải đăng ký tại một trung tâm dịch vụ việc làm, phải có
một khoảng thời gian lao động với thu nhập nhất định, tích cực tìm việc làm và sẵn
sàng trở lại làm việc và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp. Những
người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỷ lệ nhất định so với khoản thu nhập cũ
nhận trong những thời kỳ cụ thể.
Thẩm quyền ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp: cấp Liên bang: Ban
hành chính sách khung có tính nguyên tắc gồm: quy định về đối tượng; khung mức
đóng, mức hưởng tối đa, thời gian hưởng tối đa, cơ sở đánh thuế, phân bổ quỹ, ngân
sách cho các chương trình của Liên bang và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các
Tiểu bang, cấp Tiểu bang: Quy định cụ thể đối tượng hưởng, mức hưởng, mức đóng,
hình thức đóng; tổ chức thực hiện chi, trả; thủ tục chi, trả; giải quyết khiếu nại của
người lao động. Mức trợ cấp thất nghiệp mà người lao động được hưởng ở mỗi Bang
khác nhau theo Luật của từng Bang và thu nhập trước đó của người lao động, nhưng
không được vượt quá mức trần tối đa do Luật của Liên bang quy định.
Theo Luật của Liên bang thì thông thường thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
tối đa là 26 tuần. Những người đã hưởng hết khoản trợ cấp thất nghiệp theo chương
trình thông thường có thể được hưởng tiếp tối đa 20 tuần nữa theo chương trình gia
hạn trợ cấp (EB). Chương trình gia hạn trợ cấp chỉ được áp dụng trong thời kỳ có tỷ lệ

thất nghiệp cao. Chi phí cho chương trình EB được chia đều giữa chính quyền Liên
bang và Tiểu bang. Các chuyên gia hoạch định chính sách của Hoa Kỳ cho rằng
chương trình trợ cấp thất nghiệp của Hoa Kỳ còn thấp hơn các nước Châu Âu. Mức trợ
cấp thất nghiệp chỉ đủ cho người lao động chi dùng những khoản thiết yếu trong đời
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 24

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
sống (khoảng 50% thu nhập đóng bảo hiểm xã hội), nhằm để họ không ỷ lại vào trợ
cấp mà phải tích cực tìm kiếm việc làm tự nuôi sống bản thân.
Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp: Người lao động trong các doanh
nghiệp công nghiệp và thương mại. Người lao động trong các tổ chức phi lợi nhuận có
từ 4 lao động trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1 năm trở lên. Các doanh nghiệp trong
ngành nông nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1 năm,
quỹ lương 20.000USD/quý và ở một số bang cán bộ công chức Nhà nước cũng được
tham gia chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trên thực tế có 97% người lao động ở Hoa Kỳ
(khoảng 135 triệu người) đang tham gia chương trình bảo hiểm thất nghiệp. Các đối
tượng không thuộc diện áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp là lao động tự do, lao
động khoán việc, người giúp việc gia đình và lao động thuộc các tổ chức tôn giáo.
Cơ chế thu, chi của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp: Nguồn thu của Quỹ Bảo hiểm
thất nghiệp ở Hoa Kỳ hoàn toàn do chủ sử dụng lao động đóng (có 3 Bang đó là:
Alaska, New Jersey, Pensylvania quy định người lao động đóng một phần, nhưng rất
thấp (khoảng 0,3% tiền lương tháng và đang có xu hướng giảm). Việc thu tiền bảo
hiểm thất nghiệp của người lao động do cơ quan thuế đảm nhiệm. Luật Liên bang quy
định tổng mức đóng bảo hiểm thất nghiệp là 6,2% quỹ lương tháng, trong đó mức
đóng cho Liên bang là 0,8% , khoản này dùng để chi trả các chi phí về hành chính, trả

lương cho các nhân viên thuộc hệ thống bảo hiểm thất nghiệp của Liên bang và Tiểu
bang.
- Lịch sử hình thành bảo hiểm thất nghiệp tại Mỹ
Chương trình bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ đã được thực hiện từ hơn 70 năm nay.
Năm 1932, Wisconsin là Tiểu bang đầu tiên tại Mỹ đã thông qua chương trình bảo
hiểm thất nghiệp Liên bang để đối phó với cuộc Đại suy thoái khi mà có đến 25%
người lao động bị mất việc làm.
Sau đỏ, vào ngày 14 tháng 8 năm 1935, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã ký
thông qua một dự luật An sinh xã hội ghi rõ các điều khoản về bảo hiểm thất nghiệp.
Bản dự luật này là một sự chuẩn bị quan trọng cho việc thành lập hệ thống bảo hiểm
thất nghiệp tại Mỹ.
Trong vòng 2 năm, các bang ở Mỹ đã tiến hành thông qua luật bảo hiểm thất
nghiệp và tất cả các Tiểu bang đều thực hiện chương trình này với sự tài trợ là các
khoản thuế thất nghiệp của Liên bang và bang. Tuy vậy, bảo hiểm thất nghiệp chỉ
được các công đoàn và các doanh nghiệp chấp nhận một cách tự nguyện nên khi đó chỉ
có khoảng 235 nghìn người lao động nhận được khoản bảo hiểm này khi bị mất việc.
Trong thập kỷ 70, Quốc hội Mỹ đã thông qua một số qui định mới về an sinh xã
hội và xem đó như là một phần trong chương trình “Đại Xã hội” (Great Society). Với
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 25

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
những qui định mới này, đã có ngày càng nhiều người lao động được nhận tiền và
khoảng thời gian họ được nhận số tiền ấy cũng dần tăng lên. Lúc này, đã có hom 10
triệu người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Vào những năm 80, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều quy định

về bảo hiểm thất nghiệp đã thay đổi và khoản lợi ích cho người lao động cũng đã bị cắt
giảm. Đến thập kỷ 90, dưới thời Tổng thống Clinton, đã có thêm nhiều thay đổi mới
nhằm thu hẹp trách nhiệm của chính phủ và làm tăng trách nhiệm đóng góp của các cá
nhân. Bằng cách giảm khoản lợi ích cũng như rút ngắn thời gian được hưởng tiền hỗ
trợ, người thất nghiệp sẽ cỏ động lực để nhanh chóng tìm việc làm mới.
- Các loại hình bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ
Bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ rất đa dạng với nhiều loại hình, mỗi loại
hình bảo hiểm thất nghiệp khác nhau có đối tượng tham gia khác nhau. Cụ thể có các
loại hình bảo hiểm thất nghiệp sau:
Bảo hiểm thất nghiệp trên diện rộng (Unemployment Insurance Fact
Sheet): là chưomg trình hỗ trợ tài chính của Liên bang đối với hầu hết người lao động
tính những người bị đuổi việc do lỗi cá nhân.
Bảo hiểm thất nghiệp dành cho nhân viên liên bang (Unemployment
Compensation for Federal Employees): là chưcmg trình hỗ trợ cho những nhân viên
của bang bị mất việc có đủ điều kiện do chính quyền từng bang quản lý.
Bảo hiếm thất nghiệp dành cho các cựu quân nhân (Unemployment
Compensation for Ex-Servicemembers): là chưcmg trinh hỗ trợ dành cho các cựu quân
nhân đủ điều kiện và cả những cựu nhân viên của Ban NOAA (the National
Oceanographic and Atmospheric Administration) và Tổ chức USPHS (U.s. Public
Health Service).
Khoản lợi ích mở rộng (Extended Beneíĩts): là chưcmg trình của chính
quyền bang - liên bang dành cho các khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao.
Hố trợ thất nghiệp do thiên tai (Disaster Unemployment Assistance): là
chưomg trình đặc biệt dành cho những người lao động bị mất việc làm hoặc đột ngột
phải ngừng công việc do hậu quả của thiên tai.
Phụ cấp ảnh hưởng thương mại (Trade Readjustment Allowances): là
khoản phụ cấp thu nhập dành cho những người lao động đã hết hưởng bồi thường thất
nghiệp và công việc của họ bị ảnh hưởng bởi hoạt động nhập khẩu.
Hỗ trợ cho hoạt động tự kinh doanh (Self Employment Assistance): là
chưomg trình tự nguyện đặc biệt của nhà nước ở một số vùng dành cho những người

lao động tự tổ chức hoạt động kinh doanh
- Các quy đinh của pháp luật Mỹ đối với loại hình bảo hiểm thất nghiệp
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 26

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Như đã nói ở trên, nguồn luật chính điều chỉnh bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ là
Đạo luật An sinh Xã hội ra đời năm 1935. Đạo luật này gồm có 11 điều khoản, trong
đó điều khoản III và IX điều chỉnh các vấn đề liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp. Cụ
thể như sau:
Điều khoản IX quy định nững nội dung cơ bản mà luật về bảo hiểm thất nghiệp
mỗi bang cần có để được Hội đồng An sinh Xã hội (thành lập trên cơ sở đạo luật này)
thông qua. Chẳng hạn như các nội dung về việc điều khoản chống phân biệt đối xử về
giới tính hay tôn giáo giữa những người được nhận bảo hiểm thất nghiệp là các điều
khoản bắt buộc trong luật bảo hiểm thất nghiệp mỗi bang.
Điều khoản III quy định những nội dung bắt buộc cần có trong luật mỗi bang để
được nhận chi phí quản lý hành chính hệ thống bảo hiểm thất nghiệp từ ngân quỹ Liên
bang. Bởi vì theo quy định của luật pháp Mỹ, chi phí quản lý hành chính trong các quỹ
bảo hiểm thất nghiệp của mỗi bang không được lấy từ tiền thuế của doanh nghiệp hay
người lao động.
Theo Đạo luật An sinh Xã hội 1935, nếu một bang có thể tự soạn thảo luật của
riêng bang mình và được Hội đồng An sinh Xã hội thông qua thì doanh nghiệp của
bang đó, thay vì phải trả toàn bộ tiền thuế cho Quỹ thất nghiệp của Liên bang, sẽ chỉ
phải trả 10% cho Liên bang. 90% còn lại sẽ được đóng vào quỹ của chính bang đó để
giải quyết vấn đề thất nghiệp tại địa phương. Chính vì thế mà cho đến năm 1937, mỗi
bang ở Mỹ đều có luật riêng về bảo hiểm thất nghiệp

Luật Liên bang Mỹ chỉ bao gồm những điều khoản mang tính định hướng
chương trình bảo hiểm thất nghiệp còn việc thực hiện chi tiết là do luật mỗi bang quy
định. Chẳng hạn như mỗi bang có quyền quyết định những điều kiện cụ thể mà người
lao động càn đáp ứng để có thể nhận được bảo hiểm thất nghiệp cũng như số tiền và
thời gian người lao động được hưởng. Luật bang còn quyết định tỷ lệ thuế mà doanh
nghiệp phải trả vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với thu nhập của họ, cũng
như cỏ quyền thay đổi những điều khoản này khi cần thiết. Chính vì vậy điều kiện để
được hưởng bảo hiểm thất nghiệp, số tiền và thời gian hưởng bảo hiểm cũng như tỷ lệ
thuế doanh nghiệp. Để tạo nên một cơ chế hoạt động thống nhất trong việc quản lý bảo
hiểm thất nghiệp giữa chính quyền Liên bang và từng bang cũng như cụ thể hóa những
điều khoản đã được nêu ra trong Đạo luật An sinh Xã hội 1935, Luật thuế thất nghiệp
Liên bang (FUTA) đã được ra đời năm 1939 vói những mức thuế cơ sở áp dụng cho
từng đối tượng doanh nghiệp có những mức thu nhập khác. Riêng đối với lao động

GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 27

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


Thực trạng và giải pháp của việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
trong ngành đường sắt bị mất việc thì sẽ nhận bảo hiểm thất nghiệp theo những quy
định cụ thể trong Luật bảo hiểm thất nghiệp đường sắt ra đời năm 1938 6.
1.4.2 Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Thụy Điển
Thất nghiệp không còn là hiện tượng lạ đối với tất cả các quốc gia trên thế giới,
Thụy Điển một quốc gia với nền kinh tế phát triển vượt bậc cũng không là ngoại lệ.
Việc đảm bảo chi tiêu mỗi khi lâm vào cảnh thất nghiệp luôn là những thách thức đối
với người lao động, tuy nhiên trên một bình diện nào đó thì các công dân Thụy điển ít
chịu sức ép khi rơi vào tình trạng thất nghiệp hơn công dân của các nước châu Ầu khác

vì có hệ thống phúc lợi khá vững chắc của chính phủ. Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp
của đất nước này đảm bảo những người có thu nhập trung bĩnh vẫn có khả năng chi trả
cho cuộc sống bình thường của mình trong suốt thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp và
tìm kiếm công việc mới.
- Mức trợ cấp và điểu kiện nhận trợ cấp thất nghiệp
Phần lớn những người làm việc ở Thụy điển đều tham gia Quỹ bảo hiểm thất
nghiệp. Trong 200 ngày đầu tiên sau khi thất nghiệp, mức quyền lợi được hưởng tối đa
là 80% theo mức lương trước khi thất nghiệp, nhưng không quá 680 cu-ron/ngày; 100
ngày tiếp theo (có thể được kéo dài tới 1 năm sau đó) mức hưởng trợ cấp còn 70%.
Tuy nhiên, không phải tất cả các đối tượng đều được hưởng mức tối đa mà chỉ có
những người có mức thu nhập thấp thì mới được nhận 80% tiền trợ cấp. Phần lớn tiền
đảm bảo cho trợ cấp thất nghiệp lấy từ tiền thuế, nhưng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp
ở quốc gia này được quản lý bởi những tổ chức tư nhân - chủ yếu là các nghiệp đoàn7.
Người lao động không nhất thiết phải là công dân Thụy điển - người lao động chỉ cần
có giấy phép nhập cư và có thẻ cư trú là đủ điều kiện để tham gia Bảo hiểm thất
nghiệp.
Ngoài nghiệp đoàn còn có hai tổ chức dành cho các đối tượng khác trong xã hội:
Tố chức AEA (Akademikemas Erkãnda Arbetstõshetskassa) dành cho những người có
bằng cấp về mặt học vấn - trình độ từ đại học trở lên. Quỹ này dành cho những người
đạt 180 điểm theo thang điểm của Hệ thống chuyển giao tín chỉ châu Ầu hoặc 120
điểm theo thang điểm trước đây của Thụy điển. Với những người có bằng cấp giáo dục

do-Bao-hiem-that-nghiep-o-Hoa-Kỵ/language/vi7 Hệ thống nghiệp đoàn ở Thuy điển hết sức linh hoạt đối vói những nguôi liên quan đến
các
ngành
nghề
khác
nhau. (Ví dụ: Tổ chức nghiệp đoàn cơ khí thì dành cho những nguời làm việc trong
ngành
công

nghiệp
nặng,
tổ
chức nghiệp đoàn giáo viên - có tên là Laraíorbundets Arbetstõshetskassa - dành cho
những
nguời
làm
công
tác
giảng dạy. Nguôi lao động không nhất thiết phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo
GVHD:Nguyễn Ánh Minh

Trang 28

SVTH:Đào Trần Thúy Hằng


×