Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.69 KB, 25 trang )

BỘ MÔN:

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

TÊN TIỂU LUẬN:

Vai trò của khoa học công nghệ
đối với sự phát triển lực lượng sản xuất
của nước ta hiện nay?

MỤC LỤC
A.Lời mở đầu................................................................................................. 1
B.Nội dung tiểu luận...................................................................................... 2
Chương I
Một số kiến thức chung về khoa học công nghệ và
lực lượng sản xuất................................................................................................2
I. Lý luận về khoa học công nghệ.........................................................................................2
1. Lý luận về khoa học..................................................................................................2
1.1 Khái niệm khoa học...........................................................................................2
1.2 Đặc điểm khoa học.............................................................................................2
2. Lý luận về công nghệ................................................................................................3
2.1 Khái niệm công nghệ.........................................................................................3
2.2 Đặc điểm công nghệ...........................................................................................3


3. mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ................................................................4
II. Lý luận về lực lượng sản xuất..........................................................................................5
1. Khái niệm lực lượng sản xuất...................................................................................5
2. Đặc diểm của lưc lương sản xuất.............................................................................5


Chương II
Vai trò của khoa học công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản
xuất của nước ta hiện nay...................................................................................6
I. Các nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của khoa học công nghệ đối với
lực lượng sản xuất.................................................................................................................6
1. Con người.................................................................................................................6
2. Giáo dục và đào tạo..................................................................................................7
3. Nguồn vốn cho sự phát triển khoa học công nghệ...................................................7
II. Vai trò của khoa học công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản xuất
nước ta hiện nay....................................................................................................................7
1. Sử dụng khoa học công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất
là một tất yếu khách quan của nước ta.................................................................................7
2. Khoa học và công nghệ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
nước ta hiện nay....................................................................................................................8
3. Khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất.................................................................................................................9
4. Khoa học kĩ thuật làm tăng giá trị cho lực lượng sản xuất....................................10
5. Khoa học kĩ thuật đến sự phân công lao động xã hội và
phương thức sản xuất của nước ta.......................................................................................11
6. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
khoa học công nghệ nước ta trong thời kì hiện nay............................................................12

Chương III
Tình hình phát triển của lực lượng sản xuất dựa vào khoa học công nghệ
của nước ta hiện nay.............................................................................................13
I.Thuận lợi...........................................................................................................................13
II. Khó khăn. ......................................................................................................................13
III. Những thành tựu đạt được..........................................................................15
1. Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.....................15



2. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong việc
phát triển kinh tế-xã hội.......................................................................................................15
3. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ từng bước được đổi mới..............................16
4. Trình độ nhận thức và ứng dụng KH và CN của nhân dân
ngày càng được nâng cao...................................................................................................17

IV. Vận dụng và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kì mới.........17
Chương IV
Giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất dựa vào
khoa học công nghệ tại Việt Nam.........................................................................19

C. Kết luận..................................................................................... ..............21


LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỉ 21, kỉ nguyên cho sự phát triển của toàn thế giới. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng ấy. Nhưng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi mà nền kinh tế còn
chưa phát triển là một thử thách lớn cho nước ta. Lịch sử đã để lại cho ta một nền kinh tế lạc
hậu, một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, với một lực lượng sản xuất còn non
trẻ. Để phát triển một nền kinh tế thị trường với bao thách thức và khó khăn thì hơn bao giờ
hết phải nâng cao lực lượng sản xuất. Với một xuất phát thấp thì ta không thể đi theo tuần
tự, mà cần phải có những bước nhảy nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Và
việc sử dụng khoa học công nghê làm động lực cho phát triển lực lượng sản xuất là một tất
yếu khách quan, mang tính quyết định cho sự nghiệp phát triển.
Lực lượng sản xuất với vai trò nòng cốt, nhân tố đầu tiên cho một đất nước phát
triển, bởi xét cho cùng, sự vận động và phát triển của xã hội loài người do xã hội quyết định,
trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò tiên phong. Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất
không chỉ bắt nguồn từ nhu cầu phát triển một nền kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ
việc phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Bài học của các nước phát triển đã chỉ

rõ ra rằng con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng sản xuất dựa vào con đường khoa
học công nghệ là con đường nhanh và hiệu quả nhất. Với nhu cầu cấp bách ấy, nhóm MácLênin đã chọn đề tài: “Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất của nước ta hiện nay” đề làm sáng tỏ thêm vấn đề này.
Trong đề tài này, ta sẽ tập trung giải quyết các vấn đề về vai trò của khoa học công
nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những vấn đề cơ bản của nước ta hiện
nay. Bằng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin là con đường cách
mạng soi sáng cho lý luận.
Do lượng kiến thức của chúng em có hạn nên bài viết còn nhiều hạn chế, kính mong
được thầy góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.

1


NỘI DUNG TIỂU LUẬN
Chương I
MỘT SỐ KIẾN THỨC CHUNG VỀ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

I. Lý luận về khoa học công nghệ.
1. Lý luận về khoa học.
1.1 Khái niệm về khoa học.
Khoa học được hiểu là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy của con
người được thể hiện qua các phát minh dưới dạng các lý thuyết, định lý, định luật và nguyên
tắc.
Như vậy thực chất khoa học là sự khám phá các hiện tượng, các thuộc tính vốn tồn tại
một cách khách quan. Sự khám phá này đã làm thay đổi nhận thức con người tạo điều kiện
nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này vào thực tế.
1.2 Đặc điểm khoa học.
Khoa học là những phát minh của con người và vì những phát minh này không có thể
trực tiếp áp dụng vào sản xuất nên không có hình thái hàng hóa để mua và bán. Nên các tri

thức khoa học có thể được phổ biến rộng rãi. Khoa học thường chia làm hai loại là Khoa
học tự nhiên và Khoa học xã hội.
Khoa học tự nhiên khám phá những quy luật của tự nhiên xung quanh chúng ta. Khoa
học xã hội nghiên cứu cách sống và cách hành động ứng xử của con người.
Vậy ta có thể nói khoa học là đúc kết của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng một
mặt nào đó nó lại có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất. Do đó con người có khả năng
đưa khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
2


2. Lý luận về công nghệ.
2.1 Khái niệm công nghệ.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ tùy theo mục đích nghiên cứu của mỗi
ngành. Nhưng cách chung nhất công nghệ được hiểu như sau:
Công nghệ là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kĩ thuật được áp dụng
vào sản xuất và đời sống.
Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm.
Phần cứng đó là trang thiết bị. Phần mềm bao gồm (thành phần thông tin, thành phần tổ
chức) bất kì quá trình sản xuất nào đều phải đảm bảo bốn thành phần, mỗi thành phần đảm
nhiệm nhưng chức năng nhất định.
2.2 Đặc điểm công nghệ.
Qua khái niệm ta có thể thấy trước đây người ta khái niệm công nghệ là đồng nhất
giữa kĩ thuật với trang thiết bị. Mà không lưu ý với thực tế vận hành, tay nghề của công
nhân, năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản xuất. Do đó ngày nay thuật ngữ công nghệ
thường được sử dụng thay cho thuật ngữ kĩ thuật. Việc hiểu nội dung như thế có ý nghĩa
quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ trở thành yếu tố quyết định khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Mội khoa học công nghệ đều bao gồm các thành phần chính:
Kỹ thuật: Bao gồm các máy móc, thiết bị. Thành phần kỹ thuật là cốt lõi của bất kỳ
công nghệ nào. Nhờ máy móc, thiết bị, phương tiện mà con người tăng được sức mạnh cơ

bắp và trí tuệ trong hoạt động sản xuất.
Con người: Bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học hỏi, tích lũy trong quá
trình lao động, nó cũng bao gồm các tố chất của con người như tính sáng tạo, sự khôn
ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức lao động.
Thông tin: Bao gồm các dữ liệu về phần kỹ thuật, về con người và tổ chức. Các thông
số về đặc tính của thiết bị, số liệu về vận hành thiết bị.

3


Khác với khoa học, các giải pháp kĩ thuật của công nghệ đóng góp trực tiếp vào sản
xuất và đời sống do đó được sự bảo hộ của nhà nước và là thứ hàng hóa để mua và bán.
3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mối lien hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới
kĩ thuật và sản xuất còn yếu, nhưng đã phát triển tới trình độ cao như ngày nay thì nó tác
động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Khoa học và công nghệ, kết quả của sự vận dụng
hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo cải tiến các công cụ, phương tiện
phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được phát triển qua các giai đoạn lịch sử.
Vào thế kỉ 17-18 khoa học công nghệ tiến hóa theo con đường riêng, có khi công nghệ
đi trước khoa học.
Vào thế kỉ 19 khoa học công nghệ bắt đầu có sự tiếp cận, mỗi khó khăn của công nghệ
là động lực cho khoa học và ngược lại những phát minh khoa học tạo điều kiện cho các
nghiên cứu, ứng dụng.
Sang thế kỉ 20 khoa học chuyển sang vị trí dẫn dắt cho công nghệ. Ngược lại sự đổi
mới công nghệ tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học tiếp tục phát triển.

II. Lý luận về lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất.


4


Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết quả của năng
lực thực tiễn, lực lượng sản xuất là kết quả cái đã đạt được bởi con người, là sản phẩm của
hoạt động đã qua của con người, chứ không phải là những cái mà tự nhiên có sẵn.
Lực lượng sản xuất được gom góp, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi
thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất đã có để tạo nên lực lượng sản xuất mới. Trong
mỗi giai đoạn phát triển khác nhau trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện rõ nhất ở
công cụ lao động. Đến lượt nó, trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động, ở
năng suất lao động. Năng suất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất.
Vậy lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kĩ thuật của quá trình sản
xuất, do các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất hợp thành.
2. Đặc điểm của lực lượng sản xuất.
Người lao động là yếu tố đầu tiên, chủ yếu của mọi quá trình sản xuất bao gồm các
nhân tố, nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người, nhu cầu thúc đẩy hoạt động. Sức lao
động của con người lao động là những sức thần kinh. Sức cơ bắp mà con người vận dụng để
sử dụng, điều khiển công cụ lao động, kinh nghiệm và kĩ năng lao động, là sự hiểu biết về
đối tượng lao động. Sự thành thạo ít hay nhiều trong việc sử dụng các công cụ, khả năng cải
tiến công cụ. Toàn bộ những nhân tố ấy kết hợp trong người lao động tạo thành yếu tố
người lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động và
những phương tiện, vật liệu khác dung để tăng cường, hỗ trợ cho tác động công cụ lao động
lên đối tượng. Tư liệu lao động là vật hay hệ thống những vật được con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, để truyền những tác động của con người lên đối tượng nhằm biến
đổi chúng thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, tư liệu lao động
được coi là cánh tay thứ hai của con người. Nó kéo dài và tăng cường sức mạnh thế giới
quan của con người. Tư liệu sản xuất do con người sáng tạo nên, trong đó công cụ lao động
sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong biến đổi tự nhiên.

C. Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra
cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với nhưng tư liệu lao động nào.”
5


Những yếu tố trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với nhau và chỉ trong trường
hợp đó chúng mới là lực lượng sản xuất. Còn trong sự tách rời chúng chỉ là lực lượng sản
xuất ở dạng tiềm năng. Trong những yếu tố của lực lượng sản xuất thì con người giữ vai trò
quyết định, vì con người không những tạo ra lực lượng sản xuất mà còn sử dụng nó, lực
lượng sản xuất chỉ là sự biểu hiện những năng lực của bản thân con người.

CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

I. Các nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của khoa học công nghệ đối với lực lượng
sản xuất.
1. Con người.
Con người với vai trò là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất. Nắm vai trò quyết định
trong việc phát triển khoa học công nghệ và áp dụng khoa học công nghệ vào phát triển lực
lượng sản xuất. Nên con người là điều kiện tiên quyết, mang yếu tố căn bản đầu tiên ảnh
hưởng.
Trong thời đại hiện nay, cần có những con người tri thức, năng lực để có thể khai thác,
sử dụng một cách hữu hiệu của trang thiết bị hiện đại.
Khoa học công nghệ trở thành phương tiện công cụ và đồng thời cũng là cơ sở để con
người vươn lên hoàn thiện về mọi mặt.
2. Giáo dục và đào tạo.

6



Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy trải qua mấy chục năm phát triển, nhưng nhìn
chung sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất còn lạc hậu so với trình độ phát triển chung
của thế giới. Với hơn 85 triệu dân số, nhưng lực lượng ấy con chưa tiếp cận nhiều tới khoa
học công nghệ tiên tiến. Sự hạn chế về tư duy lý luận đang là điểm yếu mà chúng ta phải
vượt qua.
Mọi người đều phải hiểu rằng để có thể khai thác tốt nguồn lực con người, trước tiên
phải tập trung đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Việc đào tạo căn bản và có hệ thống là một
việc hết sức quan trọng. Phải thường xuyên được đào tạo bổ sung và đào tạo lại để không
lạc hậu so với thế giới và để không bị loại ra khỏi cuộc chơi toàn cầu.
3. Nguồn vốn cho sự phát triển khoa học công nghệ.
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của khoa học công
nghệ và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Muốn phát triển thì cần phải có một nguồn vốn đảm bảo cho sự phát triển bền vững,
tránh lãng phí, thu về hiệu quả cao hơn.
Việc đầu tư vốn cho nhập khẩu chuyển giao khoa học công nghệ của ta còn hạn chế do
thiếu vốn đầu tư. Do vậy song song với việc huy động các nguồn vốn thì việc tự phát triển
vốn củng cực kì quan trọng. Phải có phương án tối ưu để bảo đảm nguồn tài chính.

II. Vai trò của khoa học công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản xuất nước
ta hiện nay.
1. Sử dụng khoa học công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất là một tất yếu khách
quan của nước ta.
Thế giới trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật lần thứ nhất của nước Anh những năm 30 của thế kỉ XVIII cho thấy thấy sự bức thiết
cần thay đổi từ thủ công với một trình độ đơn giản bằng cơ khí hóa. Cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật lần thứ hai xuất hiện những năm 50 của thế kỉ XX còn gọi là cuộc cách mạng
khoa học kĩ thuật hiện đại, mới chỉ mấy thập niên trôi qua, nhưng đã làm thay đổi căn bản
nền sản xuất của thế giới.
7



Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lực lượng sản xuất trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã được Đảng ta hết sức chú ý. Từ nhiều năm trước đây, những bài học về sự cần
thiết phải tôn trọng quy luật khách quan, về những sai lầm do quá nhấn mạnh ý nghĩa mở
đường của các quan hệ sản xuất, do sự tuyệt đối hóa vai trò của công nghiệp nặng... đã được
phân tích và rút kinh nghiệm. Tuy vậy, với các công trình ở những năm trước đây, vấn đề
đặt ra và cách giải quyết cũng có khác so với hiện nay, khi tình hình thế giới đã có nhiều
thay đổi và đất nước ta đã bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển. Và Đảng ta nhận
thấy, khoa học công nghệ là đòn bẩy, là động lực cho sự nghiệp phát triển của lực lưởng sản
xuất, để bắt kịp với trình độ chung của thế giới.
Do đó, vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển lực lượng sản xuất là tất
yếu trong tình hình nước ta hiện nay.
2. Khoa học và công nghệ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
nước ta hiện nay.
Lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác
động biện chứn lẫn nhau hình thành mối quan hệ khăng khít trong toàn bộ lịch sử loài
người. Quan hệ này vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của lực lượng sản xuất vào khoa
học công nghệ.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ.
Qua 25 năm đổi mới, trình độ lực lượng sản xuất của nước ta được nâng cao rõ rệt. Trình
độ sản xuất tác động đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất. Khái niệm trình độ sản
xuất nói đến khả năng của con người trong quá trình sử dụng công cụ lao động để cải biến
tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản
xuất được thể hiện ở:
-Trình độ tổ chức lao động xã hội
-Trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
-Kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người
-Trình độ phân công lao động

8


Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố cách mạng nhất, hoạt động nhất, còn khoa học
công nghệ có khuynh hướng thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ những yếu tố trên, ta nhận thấy rằng, với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
của nước ta hiện nay cần phải có một khoa học công nghệ phù hợp. Nhằm tận dụng tối đa
nguồn nhân lực, vật lực, tránh việc lãng phí.
3. Khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh sự quyết định của lực lượng sản xuất đối với
khoa học công nghệ nhưng cũng chỉ rõ rằng, khoa học công nghệ cũng thể hiện tính tương
đối độc lập của mình. Khoa học công nghệ là hình thức biểu hiện cho lực lượng sản xuất, có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khoa học công nghệ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trở thành
động lực cơ bản cho sự thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại
khoa học công nghệ lỗi thời không còn phù hợp sẽ bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng
sản xuất thì trở thành “xiếng xích trói buộc”. Song tác dụng kìm hãm chỉ mang tính chất tạm
thời, và cuối cùng theo tính tất yếu khách quan nó sẽ bị thay thế bằng một nền khoa học
công nghệ mới.
Sở dĩ khoa học công nghệ có tác dụng mạnh mẽ như vậy là vì nó quy định hệ thống tổ
chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại người
lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến
công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, hợp tác và
phân công lao động…
Thực tế lịch sử đã chứng mình, nước ta qua mỗi thời kì lịch sử, chịu sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật của thế giới thì trình độ lực lượng sản xuất lại tăng lên.
Khoa học công nghệ thế giới phát triển liên tục đòi hỏi một lực lượng sản xuất có trình độ
tương ứng, và trong hoàn cảnh ấy, lực lượng sản xuất của nước ta không ngừng đổi mới,
nâng cao để đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
4. Khoa học kĩ thuật làm tăng giá trị cho lực lượng sản xuất.

9


Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kĩ thuật của quá trình sản xuất,
chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo ra sức sx cải biến các đối tượng
trong quá trình sản xuất theo nhu cầu của con người. Lực lượng sản xuất cũng là yếu tố đầu
tiên chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất.
Khi khoa học công nghệ phát triển, đồng nghĩa với việc ra đời nhiều máy móc, thiết bị
tự động, nhiều vật liệu mới và vật liệu thay thế, công nghệ mới, năng lượng mới,… và
những thành tựu đó của khoa học công nghệ nhanh chóng được đưa vào sản xuất nhằm cải
thiện cũng như nâng cao chất lượng những yếu tố của quá trình sản xuất, trong đó có lực
lượng sản xuất và đầu tiêu là công cụ lao động.
Vì trình độ công cụ lao động là chỉ tiêu nói lên trình độ kĩ thuật của sản xuất vật chất,
là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Nhờ khoa học công nghệ phát
triển, công cụ lao động thủ công, năng suất thấp dần được thay thế bổi công cụ lao động cơ
khí, máy móc hiện đại, có kĩ xảo công nghiệp, với độ chính xác cao và hoàn toàn tự động.
Nhiều phương tiện với công nghệ mới và hiện đại ra đời hỗ trợ cho quá trình sản xuất và
cùng với công cụ lao động tạo nên quy trình sản xuất mới, hiện đại, ít tốn nhiên liệu và năng
lượng, thay thế dần lực lượng cơ bắp, làm tăng năng suất lao động cũng như chất lượng sản
phảm.
Khi khoa học công nghệ thâm nhập ngày càng sâu và tác động đến mọi mặt của nền
sản xuất tạo nên một nền sản xuất trình độ cạo, hiện đại thì tất yếu trình độ cũng như kĩ
năng của người lao động cũng dần được cải thiện và nâng cao để có thể vận hành và sử
dụng những công cụ lao động là phương tiên công nghệ cao.
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã mang lại cho nền sản xuất nhiều
vật liệu, nguyên liệu mới, sạch, làm đa dạng đối tượng lao động, tiến tới hạn chế sử dụng cái
đối tượng tự nhiên, góp phần bảo vệ sự cân bằng cho tự nhiên và bảo vệ môi trường. Nhìn
chung, khoa học công nghệ đã tác động đến mọi nhân tố của lực lượng sản xuất tạo động
lực cho sự phát triển cũng như tăng giá trị của lực lượng sản xuất.
5. Khoa học kĩ thuật đến sự phân công lao động xã hội và phương thức sản xuất của

nước ta.

10


Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đã tạo những bước phát triển vượt bậc “1
ngày = 20 năm” ở hiện tại và trong tương lại của khoa học công nghệ. Những thành tưu to
lớn của khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, tạo
nên sự chuyên môn hóa ở từng ngành nghề, từng khâu sản xuất đã dẫn đến phân công lao
động.
Như ta đã biết, phân công lao động là sự phân chia lao động để sản xuất hay ra một
hay nhiều sản phẩm nào đó mà phải qua nhiều chi tiết, công đoạn và cần nhiều người thực
hiện. Mà khi khoa học công nghệ phát triển, quá trình sản xuất được nâng lên trình độ cao,
quy trình sản xuất phức tạo với nhiều hệ thống, máy móc hiện đại, tự động cao. Vì vậy,
phân công lao động là điều tất yếu và giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất. Đó là: Phân
công lao động dẫn đến chuyên môn hóa; Trình độ, kĩ xảo, khéo léo, tài năng tháo vác của
con người được phát huy và ngày càng tiến bộ. Từ đó, nâng cao năng suất lao động.
Do có chuyên môn hóa nên tiết kiệm thợi gian, giảm bớt sức lao động. Tạo điều kiện
áp dụng máy móc, lao động trở nên giản đơn, giảm bớt sức lao động, tăng hiệu suất, năng
suất lao động và tăng của cải cho xã hội.
Bên cạnh đó, khi khoa học công nghệ phát triển, lực lượng sản xuất cũng không ngừng
được cải thiện và nâng cao trình độ. Vì vậy, quan hệ sản xuất cũng phát triển để tạo sự phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó hình thành nên phương thức sản xuất mới,
tiến bộ, đáp ứng kịp thời xu hướng phát triển của xã hội. Phương thức mới hiện đại, linh
hoạt hơn phương thức sản xuất cũ, với sự ứng dụng máy móc, phương tiện đã cơ khí hóa, có
công nghệ cao thay thế lao động chân tay, đồng thời phát huy tích cực lao động tri thức, góp
phần to lớn vào việc thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nhiều của cải vật vật chất với chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, nâng cao đời sống vật chất lẫn
tinh thần cho xã hội loài người.
Mặt khác, trình độ khoa học công nghệ là đặc điểm để phân biệt các phương thức sản

khác nhau. Chẳng hạn, phương thức sản xuất thời nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, khoa học công nghệ không có điều kiện phát triển vì thế phương thức sản xuất lạc hậu,
mang tính cá thể, lao động thủ công là chính. Còn trong xã hội ngày nay, khoa học công
nghệ phát triển với trình độ rất cao nên phương thức sản xuất được hiện đại hóa, sản xuất
dựa trên máy móc cùng với lao động trí óc của con người.
11


6. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ nước ta trong
thời kì hiện nay.
Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã phát triển đến một trình độ cao với nhiều thành
tựu to lớn trong nhiều lĩnh vực: Công nghệ thong tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới,… và khoa học công nghệ đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi sự biến đổi
trong đời sống xã hội. Ngoài ra, khoa học công nghệ cũng thâm nhập vào sản xuất tạo nên
sự phát triển về chiều sâu lẫn chiều cộng cho quá trình sản xuất, làm thay đổi sâu sắc các
yếu tố của lực lượng sản xuất, đưa lực lượng sản xuất từ trình độ thấp, lạc hậu, mang tính cá
thể, phát triển lên lực lượng sản xuất có trình độ cao, hiện đại, mang tính xã hội hóa rất cao,
tạo động lực thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
Chính những vai trò to lớn và quan trọng của khoa học công nghệ mang lại cho sản
xuất nói riêng và xã hội hiện nay nói chung đã đưa khoa học công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, chi phối mọi hoạt động sản xuất cũng như nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm.
Mặt khác, trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất làm nảy sinh nhiều nhu cầu mới
về công cụ lao động, phương tiện,…. Đòi hỏi khoa học công nghệ phải không ngừng vận
động, phát triển để tạo nên những đột phá mới, nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. Vì vậy, có
thể nói khoa học công nghệ quan hệ biện chứng , gắn kết chặt chẽ, thống nhất với lực lượng
sản xuất và lực lượng sản xuất tác động trở lại đối với khoa học công nghệ.

CHƯƠNG III


12


TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT DỰA VÀO
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Thuận lợi.
-Nước ta có nguồn nhân lực, lao động dồi dào , ham học hỏi , sẵn sàng tiếp thu
những cái mới , tìm tòi ,sáng tạo
-Nước ta đã gia nhập WTO nên có thể tiếp thu những khoa học công nghệ tiên
tiến từ nước ngoài

II. Khó khăn.
-Việt nam vẫn còn là một nước thuần nông nghèo nàn ,lạc hậu đang trên con
đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì thế tài chính đầu tư cho khoa học
công nghệ còn hạn chế
-Khoa học công nghệ của nước ta còn yếu kém , điều kiện cơ sở vật chất còn
nghèo nàn, lạc hậu trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại của nhiều
nước trên thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển cao thì nước ta vẫn chưa áp dụng
được nhiều thành tựu của nền khoa học công nghệ tiên tiến
Những bất cập giữa khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế ở Việt Nam
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ
sở quan trọng đảm bảo cho sự phát triển quốc gia. Song ở nước ta lại bộc lộ những nét nổi
cộm điều bất cập. Các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ dưới nhiều dạng thực tế
phong phú, các viện nghiên cứu, trường đại học còn mang nặng tính hàn lâm, ít gắn bó hữu
ích với các tổ chức kinh tế. Giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn tỏ ra lỏng lẻo
trong quan hệ. Cơ quan nghiên cứu còn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ
thống kinh tế. Đòi hỏi phải có sự hợp tác trao đổi qua lại giữa các nhà khoa học và đại diện
các khu vực sản xuất. Các hãng luôn được coi như nhiệm vụ trung tâm của đổi mới khoa
học công nghệ. Thật đáng tiếc phương pháp này còn xa lạ đối với Việt Nam.


13


Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện nay còn mất cân đối đáng kể
so với phát triển kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến. Khắc phục điều này = cách
chuyển các nhà nghiên cứu khoa học công nghệ cơ bản xong cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu đòi hỏi tối thiểu.
Mặt khác, sự phân bố lực lường khoa học công nghệ ko sát với địa bàn hoạt động kinh
tế. Thực tế có những vùng còn trống vắng hoạt động khoa học công nghệ.
Thực tế còn xuất hiện một nghịch lý và mở cửa mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế,
lại làm cho vai trò vị thế của các nhà khoa học công nghệ giảm xuống. Một bộ phận ko nhỏ
các nhà khoa học công nghệ chuyển sang làm việc khác hoặc thay đổi nghề.
Chúng ta từng hi vọng có thể thông qua đầu tư nước ngoài để có được công nghệ cần
thiết. Tuy nhiên, điều diễn ra không như mong muốn. Vì thấy được nguồn đầu tư nước
ngoài, chúng lại trong khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thay vào đó là chuyển giao công
nghệ cũ kỹ, lạc hậu với hiện tại.
Những nguyên nhân chủ yếu.
Đường lối chính sách phát triển khoa học công nghệ chưa được quán triệt đầu đủ.
Với nhận thức khoa học công nghệ là nền tảng động lực phát triển đất nước. Xong trên thực
tế cho thấy các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ để có sự quan tâm kịp thời.
Những chủ trương, chính sách của nhà nước chưa bắt kịp. Thể chế hóa văn bản về pháp
luật, tổ chức, chỉ đạo thực hiện còn thiếu kiến quyết nên kết quả còn gặp hạn chế.
Mặt khác, cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiếm thức, sinh ra thói quen ko
tốt tới cán bộ, tạo ra sức ỳ ko khắc phục được. Với cơ chế mới, ko đáp ứng được về đổi mới
quản lý để phục vụ cho việc phát triển lực lượng sản xuất.
=> Vấn đề dặt ra là phải làm sao để KH-CN đảm nhận được vai trò của nó .
Hay nói cách khác trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển KH-CN phù hợp
với vai trò là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình CNH-HDH thì chúng ta
phải làm gì. Đó là một vấn đề rất bức bách hiện nay . Trước thực trạng KH-CN của
đất nước còn phát triển chậm và chưa đi vào đời sống mặt dù tiềm năng là không

nhỏ. Đây là một vấn đề lớn cần có thời gian và sự đầu tư lớn

III. Những thành tựu đạt được.
14


1. Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước. Nhiều thập kỉ qua, chúng ta đã đào
tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 300.000 người
có trình độ trên Đại Học ( trên 11.000 tiến sĩ, 16.000 thạc sĩ ) và khoảng hơn 2 triệu công
nhân kĩ thuật; Trong đó có khoảng 34000 người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có kĩ năng tiếp thu tương đối nhanh và làm
chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong 1 số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ
với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có
gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường Đại Học và Cao Đẳng. Trong đó có 30 trường
ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí
nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học công nghệ và thư viện cũng được tăng cường và
nâng cấp. Số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản
xuất- kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ
năm 2000, tỉ lệ chi ngân sách Nhà nước cho khoa học công nghệ đã đạt 2%; đánh dấu 1 mốc
quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KH và CN của Đảng và
Nhà nước.
2. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong việc phát triển kinh tế-xã hội.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lí giải và khẳng định giá trị khoa
học và thực tiễn của Chủ Nghĩa Mác – Lenin và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cung cấp luận cứ Khoa học phục vụ hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi
mới nói chung và quá trình đổi mới tư tuy kinh tế nói riêng.

Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên tự nhiên
đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước.

15


Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích
nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ từ các nước khác. Nhờ đó trình độ công nghệ
trong một số ngành sản xuất; dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa
có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoa học và công nghệ đã
tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành 1 trong
những nước xuất khẩu gạo, cà phê, … hàng đầu thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu tự động hóa, công nghệ cơ khí – chế tạo máy đã góp phần nâng cao năng
lực nội sinh trong 1 số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả của nhiều ngành kinh tế. Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào
tạo và nâng cao trình độ, nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn
bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
3. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ từng bước được đổi mới.
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ trung ương đến
địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương. Thực hiện luật khoa học và công nghệ,
các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ
đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu phát triển
đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân
bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ của về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân được

mở rộng. Vốn huy động từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất – kinh doanh, tín dụng
ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hóa
nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải thiện việc cấp phát kinh phí đến nhà
khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian.

16


Việc phân công, phân cấp trong quản lí nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước
được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ,
cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
4. Trình độ nhận thức và ứng dụng Khoa học và Công nghệ của nhân dân ngày càng
được nâng cao.
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của
các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ
biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học công nghệ đến sản xuất và đời sống,
nhận thức về kĩ năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học công nghệ của người dân trong
thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học công nghệ ngày càng được xã hội hóa
trên phạm vi cả nước.

IV. Vận dụng và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kì mới.
Bước vào thien niên kỉ thứ 3 , khoa học công nghệ đã trở thành yếu tố cốt yếu
của sự phát tiển , là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu . Điều nay
được thực hiện rõ qua việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa
học công nghệ và kĩ thuật ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tùy vào trình độ phát
triển của từng nước mà xây dựng chiến lược chính sách phát triển khoa học công
nghệ mang tính đa dạng và đặc thù với từng giai đoạn phát triển cụ thể , phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia . Sự phát triển khoa học công
nghệ là một phương hướng quan trọng mang tính quyết định sự phát triển kinh tế
quốc gia. Bởi vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm, xây dựng các chính sách và chến

lược phát triển khoa học công nghệ của các nước trên toàn thế giới và trong khu vực
để áp dụng và phát huy một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của đất nước mình có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang trên con đường công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước nói chung Việt Nam nói riêng. Nhận thức được điều đó, Đảng
và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học công nghệ khẳng định
“ Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu , là động lực
phát triển kinh tế-xã hội , là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.”
17


1. Để nước ta có thể rút ngắn khoảng cách đối với các nước tiên tiến cần phải
có 1 đội ngũ nhân viên kĩ thuật được đào tạo tốt , chú trọng bồi dưỡng nhân tài làm
nhiem vụ chủ trì những hướng , ngành , lĩnh vực khoa học công nghệ quan trọng then
chốt của đất nước , mở rộng quy mô đào tạo , nâng cao chất lượng đào tạo , bồi
dưỡng thu hút các tài năng trẻ làm công tác nghiên cứu, tạo ra thế hệ đồng bộ 1 đội
ngũ chuyên gia , nhà khoa học có năng lực
_

Hình thành nhũng trung tâm chất lượng cao để đào tạo một số ngành khoa

học-công nghệ trọng điểm , đầu tư tốt đội ngũ giáo sư , giảng viên có cơ sở vật chất
và điều kiện học tập, giao lưu và hợp tác quốc tế
2. Phát triển dồng bộ các lĩnh vực khoa học công nghệ nhưng phải tập trung chủ
yếu vào những ngành có liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế tri thức như công
nghệ thông tin , công nghệ chế tạo vật liệu mới , công nghệ năng lượng mới ,công
nghệ sinh học, công nghệ quản trị , tài chính….
3. Do năng lực nội sinh về khoa học công nghệ của nước ta hiện nay còn yếu
kém rất cần có sự kết hợp hợp lí giữa việc tiếp nhận chuyển giao cong nghệ từ nước
ngoài , cải biến cho phù hợp với thực tiễn nước ta , nghiên cứu sáng tạo ở trong nước

với trỉnh độ cao có thể góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh nhất là khi nước ta đã
gia nhập WTO . Chú ý đến các nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ở trong
nước để có thể tự tạo ra những yếu tố ở trình độ trung bình trên thế giới
4. Định hướng đầu tư và phát huy nguồn lựu tài chính vào phát triển khoa học
công nghệ , tăng cường hợp tác quốc tế trong việc phát triển khoa học công nghệ.
 Nghiên cứu về vấn đề phát triển khoa học công nghệ để khoa học công nghệ
thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế không chỉ là nhiệm vụ của
Đảng ,nhà nước,các cơ quan ,tổ chức mà còn là của toàn thể xã hội . Và cho tới ngày nay,
chúng ta cũng đã thu dược nhiều kết quả không nhỏ , góp phần giúp đất nước hoan thành
mục tiêu là một nước công nghiệp vào những năm 2020.

Chương IV

18


GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
DỰA VÀO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

Phải đặt tính hiệu quả lên hàng đầu đối với công tác nghiên cứu khoa học. Phải phát
triển cân đối về nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng. Cho dù phương pháp này là mới.
Nếu không áp dụng vào phục vụ sản xuất, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm. Tất cả đều phục vụ sản xuất. Song cũng cẩn trọng trong phát triển
khoa học công nghệ, đừng vì lợi nhuận mà dẫn đến ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên.
Ta cần tranh thủ tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến để đầu tư và phát triển,
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh tốt hơn.
Các ngành mũi nhòn như điện tử , tin học và công nghệ cao đều tập trung phát triển
hơn cả. Bởi các ngành đó sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế pt hiện đại, tự động hóa. Với mục tiêu
của Đảng và nhà nước sẽ độc lập, tự chủ về khoa học công nghệ. Giai đoạn đầu là áp dụng,
mô phỏng, làm thử để có kết luận ban đầu, tiến tới cải tiến và phát minh công nghệ mới.

Mặt khác, tạo vốn cho hoạt động khoa học học công nghệ vốn để phát triển khoa học
công nghệ. Huy động từ 2 phía nhà nước và doanh nghiệp. Đảng và nhà nước đã khẳng
định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào khoa học công nghệ.
Tăng cường hỗ trợ, khuyến khích phát triển khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực.
Đẩy mạnh các chương trình phát triển xã hội, tạo động lực, tạo vốn cho hoạt động khoa học
công nghệ, mở rộng quan hệ quốc tế cũng là điều kiện quan trong để phát triển khoa học
công nghệ. Để mở rộng quan hệ quốc tế về khoa học công nghệ cần đa dạng hóa phương
thức hợp tác và đầu tư với nước ngoài. Coi trọng phát triển ngành công nghệ cao, hợp tác
với nước ngoài phát triển, tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với khả năng
của Đất nước.
Cùng với việc tạo vốn, mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt tăng nguồn nhân lực cho
khoa học công nghệ. Xây dựng đào tạo một lực lượng nhân lực chủ chốt, có trình độ tri
thức, nhận thức, có sự chủ động để sở hữu công nghệ. Nhất là phục vụ cho các kinh tế trọng
điệm chủ yếu như:công nghệ cao. Trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật.
19


Đồng thời quan tâm phát triển các trường đại học, cao đẳng. Các cơ sở kinh doanh,
phát triển mạnh thị trường nhân lực, khoa học, công nghệ.
Nhà nước cần tăng cường phát triển giáo dục, quan tâm đào tạo nhân tài để trong
tương lai không xa, sẽ có mộ thế hệ, đội ngũ kế thừa giỏi, có đủ khả năng chuyên môn và
trình độ nhận thức tri thức khoa học. Để sở hữu khoa học kĩ thuật, công nghệ đã và đang
phát triển trong nước.
Nhằm đạt được những kết quả, thành tựu cao nhất để phục vụ, đáp ứng trong công
cuộc xây dựng đất nước ngày càng văn minh, tiên tiến.

KẾT LUẬN
20



Để nước ta trở thành một đất nước giàu mạnh, sánh vai cùng các nước trong khu vực
và thế giới là một hành trình dài. Để thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra đòi
hỏi sự tác động của nhiều yếu tố. Và việc phát triển lực lượng sản xuất với vai trò quyết
định thì là cấp thiết hơn bao giờ hết. Với sự phát triển của khoa học công nghệ và một
đường lối đúng đắn thì việc phát triển lực lực lượng sản xuất sẽ được rút ngắn lại rất nhiều
mà vẫn đảm bảo bền vững.
Như vậy, việc nghiên cứu vấn đề vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất của nước ta là hết sức cấp bách và cần thiết. Qua đề tài này chúng ta
– chủ nhân tương lai của đất nước hiểu được rằng: Muốn đưa đất nước ra khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu thì hơn bao giờ hết phải phát triển nguồn nhân lực, vật lực một cách bài
bản, có khoa học, có định hướng lâu dài. Tuy nhiên, thực trạng lực lượng sản xuất của nước
ta ngày nay còn tụt hậu so với bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Do đó vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết và nắm vững mối quan hệ giữa khoa học công nghệ với lực lượng sản xuất.
Trong quá trình phát triển cần phải đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo định hướng rõ ràng từ cấp nhà nước, có sự phối hợp giữa các
cấp, các ngành nhằm đẩy mạnh khoa học công nghệ trong nước phát triển, bắt kịp với thế
giới. Chắt lọc, tiếp thu những cái phù hợp với hoàn cảnh nước nhà để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
Thứ hai, bên cạnh đó lực lượng sản xuất không ngừng học tập, đổi mới chính mình để
phù hợp với khoa học công nghệ hiện đại.
Ý nghĩa bản thân: Qua đề tài đã giúp cho sinh viên có một cái nhìn toàn diện hơn, sâu
sắc hơn về lực lượng sản xuất của nước ta trong thời kì hiện nay. Phương thức để phát triển
lực lượng sản xuất bằng con đường khoa học công nghệ. Để từ đó tự nâng cao trình độ, ra
sức học tập để rèn luyện bản thân mình để trở thành một công dân, một người lao động có
ích trong xã hội.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Bộ giáo dục và đào
tạo, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2009)
Văn kiện: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2006)
Thư viện điện tử Wikipedia Tiếng việt và một số nguồn tư liệu từ Internet.

22


×