Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

NHỮNG ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.93 KB, 31 trang )

Lời mở đầu:
Trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH, để tạo nên sức sống cho nền kinh tế
của mình, trong điều kiện thế giới đang bị cuốn vào xu thế tồn cầu hố lắm
thuận lợi và nhiều khó khăn, Việt Nam ta đang áp dụng cơ chế thị trường theo
định hướng XHCN.
Chúng ta áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với mục đích tận dụng ưu thế
truyền thống của hình thái kinh tế này là huy động mọi nguồn lực xã hội, phát
huy mọi năng lực sản xuất để xây dựng cơ sở căn bản bền chắc cho nền kinh
tế nước nhà.
Phát triển nền kinh tế thị trường, chúng ta mới có khả năng tạo cho đất
nước một sức mạnh vật chất xứng đáng và điều kiện cải tạo một cách căn bản
mức sống của nhân dân và vị thế quốc gia trong bảng xếp hạng phát triển của
thế giới, nhằm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Vâng, vấn đề này không chỉ là người Việt Nam mới biết, thế giới cũng đã
biết đến, và cụm từ “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
được nói đến rất thường xuyên. Nhưng người ta có thật sự hiểu “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì khơng? Vấn đề này thật ra đang
cịn trong vòng tranh luận gay gắt. Nhưng thiết nghĩ đã là người Việt Nam
đang sống trong “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, thì
cũng cần phải tìm hiểu xem nó là như thế nào, đúng khơng?
Qua đề án này tơi xin đóng góp một chút hiểu biết của mình về “ nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Đầu tiên, chúng ta


2

làm quen với những khái niệm cơ bản trước: sản xuất hàng hóa và điều kiện
tồn tại của nó…



3

Chương 1:

NHỮNG ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
I.

Sơ lược lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá:
“Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức

kinh tế rõ rệt là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hố.”[3, 53]
Kinh tế tự nhiên là hình thức sản xuất mà sản phẩm lao động chỉ dùng
để thoả mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đó là
kiểu sản xuất tự cấp, tự túc, khép kín trong từng đơn vị kinh tế nhỏ, không
cho phép mở rộng các quan hệ với đơn vị kinh tế khác trong xã hội. Nền
sản xuất này thích ứng với lực lượng sản xuất chưa phát triển, lao động thủ
công chiếm địa vị thống trị, năng suất lao động cịn rất thấp trong thời kỳ
cơng xã ngun thuỷ và tồn tại phổ biến trong thời kỳ chiếm hữu nơ lệ.
Trong thời kỳ phong kiến nó tồn tại dưới hình thức điền trang, thái ấp và
kinh tế nơng dân gia trưởng.
Đối lập với sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất hàng hoá – sản xuất ra
sản phẩm để bán. Đó là hình thức tổ chức nền sản xuất xã hội, trong đó,
mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất biểu hiện qua thị trường,
qua việc mua bán sản phẩm lao động của nhau. Hình thức đầu tiên của sản
xuất hàng hoá xuất hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ
và chúng tiếp tục tồn tại và phát triển ở các phương thức sản xuất tiếp theo.
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá chủ yếu là sản
xuất hàng hố giản đơn, cịn gọi là sản xuất hàng hoá nhỏ. Sản xuất hàng
hoá giản đơn là sản xuất hàng hố của nơng dân và thợ thủ công dựa trên

chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động cá nhân của người sản


4

xuất. sản xuất hàng hoá giản đơn đã tạo khả năng phát triển lực lượng sản
xuất, thiết lập nên các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế vốn tách
biệt nhau trong nền kinh tế (các công xã, các điền trang của chủ nô, thái ấp
của quý tộc, …).
Quan hệ hàng hố phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến
tan rã và góp phần thúc đẩy q trình đó diễn ra nhanh chóng hơn.
Hình thức điển hình của sản xuất hàng hố là sản xuất hàng hố tư bản
chủ nghĩa (cịn gọi là sản xuất hàng hố với qui mơ lớn). Đó là hình thức
sản xuất hàng hoá đã phát triển ở mức độ cao và phổ biến trong lịch sử.
Trong nền kinh tế này, quan hệ hàng hoá đã phát triển, thâm nhập vào mọi
lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội; hàng hoá trở thành tế bào
của nền sản xuất xã hội. Đặc điểm của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
là dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động , trên cơ sở bóc lột
lao động làm th dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm của sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa là nó khơng dựa trên cơ
sở chế độ người bóc lột người và nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật
chất, tinh thần của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh.
Như vậy sản xuất hàng hoá tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của lồi người. nó có nhiều ưu thế và
là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự
cấp tự túc.

II.Điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển dựa trên hai điều kiện sau:

1.Có sự phân cơng lao động xã hội:


5

“Phân cơng lao động xã hội là chun mơn hố sản xuất; mỗi người,
mỗi tập thể, mỗi vùng trong nền kinh tế, chỉ sản xuất một hay một số loại
sản phẩm nhất định, với số lượng lớn.”
Phân công lao động xã hội ra đời và ngày càng phát triển là một qui
luật tất yếu của sản xuất xã hội. Cơ sở của sự phân công lao động xã hội là
căn cứ vào sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội cũng như
năng lực của mỗi cá nhân, mỗi tập thể trong mỗi vùng của nền kinh tế.
Đồng thời cũng căn cứ vào nhu cầu của xã hội về các loại sản phẩm khác
nhau ngày càng lớn.
-Phân cơng lao động theo giới tính: một hình thái phân công lao
động tự nhiên, tồn tại ở giai đoạn đầu của xã hội nguyên thủy, nghĩa là,
trong một tập thể hoặc một nhóm người sống chung với nhau, các loại
hình lao động được phân theo nam nữ. Đàn ông lo việc săn bắt, săn
bắn; đàn bà hái lượm. Cách phân cơng lao động này tiếp tục duy trì
trong những thời kỳ lịch sử muộn hơn vào cuối xã hội nguyên thủy và
ngay cả trong xã hội có giai cấp tiền tư bản chủ nghĩa, tuy có phạm vi
thu hẹp lại rất nhiều.
Ví dụ: Ở các tộc người lấy nương rẫy làm loại hình kinh tế chủ yếu thì
đàn ơng lo việc chặt cây to, làm hàng rào bảo vệ rẫy khỏi sự phá hoại
của thú rừng, nghĩa là những công việc nặng nhọc, cịn làm cỏ là cơng
việc của đàn bà. Gieo hạt là việc chung, vv. Khi nông nghiệp dùng cày
xuất hiện, các cơng việc sản xuất chính nằm trong tay đàn ông, đàn bà
chủ yếu chăm lo công việc gia đình. Ở các cư dân du mục, cơng việc
chăn nuôi và bảo vệ gia súc do đàn ông đảm nhiệm.
-Phân cơng lao động theo lứa tuổi: một hình thái phân công lao

động tự nhiên, tồn tại ở giai đoạn đầu của xã hội nguyên thuỷ. Nghĩa là,
trong một tập thể hoặc nhóm người có quan hệ huyết thống gẫn gũi,


6

mọi loại hình lao động được chia theo lứa tuổi: trẻ con, thanh niên,
người lớn, người già; tuỳ theo sức lực, kĩ năng và kinh nghiệm của từng
lứa tuổi.
-Phân công lao động theo lãnh thổ: một hình thức đặc biệt của phân
công lao động xã hội, mà kết quả mỗi địa phương căn cứ vào điều kiện
đặc thù của mình sẽ chun mơn hố sản xuất về một (hay một số) sản
phẩm, đơi khi chỉ một bộ phận nào đó của sản phẩm, để cung cấp cho
nhu cầu của các vùng khác trong nước và cả nước ngồi. Phân cơng lao
động theo lãnh thổ phát triển theo đà phát triển của nền kinh tế hàng
hố. Phân cơng lao động theo lãnh thổ nâng cao năng suất lao động xã
hội do đã sử dụng hợp lí thế mạnh của từng vùng sản xuất, tổ chức hợp
lí mối liên hệ lãnh thổ sản xuất và tiêu thụ, dựa trên một màng lưới giao
thông vận tải tốt. Phân công lao động theo lãnh thổ là nhân tố tạo ra
vùng kinh tế quan trọng nhất.
Phân công lao động xã hội dẫn đến sự chuyên mơn hố người sản xuất,
hình thành nên những ngành nghề ngày càng phong phú và đa dạng trong
nền kinh tế. Các loại phân công lao động xã hội :
-Phân công lao động chung là phân chia nền kinh tế thành các loại
sản xuất khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, vận tải...
-Phân công lao động riêng (phân công lao động đặc thù) là phân
chia sản xuất thành những ngành và phân ngành như công nghiệp khai
thác, công nghiệp chế biến, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi...
-Phân công lao động cá biệt là phân cơng trong nội bộ xí nghiệp.
Sự ra đời và tồn tại của phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự

trao đổi sản phẩm trong xã hội. Nó là cơ sở, là tiền đề của trao đổi sản
phẩm giữa những người sản xuất. Do phân công lao động xã hội, mỗi
người chỉ sản xuất ra một hay một loại sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu


7

cuộc sống địi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy, để tồn
tại họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Như vậy, phân công lao động xã hội dẫn đến kết quả là mọi người sản
xuất trong xã hội phải trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau.
Phân cơng lao động càng phát triển thì càng làm cho trao đổi sản phẩm trở
nên phổ biến hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng
chưa đủ. Các Mác đã chứng minh rằng trong công xã thị tộc Ấn Độ thời
cổ, đã có sự phân cơng lao động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động
chưa trở thành hàng hố. Bởi vì tư liệu sản xuất là của chung nên sản phẩm
của từng nhóm sản xuất chuyên mộn hóa cũng là của chung; cơng xã phân
phối trực tiếp cho từng thành viên để thỏa mãn nhu cầu. Các Mác viết:
“Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá” [2, t23,
tr72].
Vậy muốn có sản xuất hàng hố ra đời cần phải có điều kiện thứ hai:
2.Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản
xuất:
“Sự tách biệt này là do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất,
mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất” [3,54]. Chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất thực chất là tư liệu sản xuất trong xã hội thuộc
về các cá nhân khác nhau, cịn gọi là sở hữu tư nhân. Nó ra đời cùng với

q trình tan rã của chế độ cơng xã nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất
phát triển, năng suất lao động tăng lên, xuất hiện sản phẩm thặng dư, một
số người có quyền lực trong cơng xã (các tù trưởng, các tộc trưởng) có ý
định và có điều kiện chiếm đoạt sản phẩm thặng dư làm của riêng. Quan


8

hệ sở hữu tư nhân dần dần được hình thành và phát triển trên cơ sở lực
lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ xã hội hóa sản xuất phát
triển.
Quan hệ sở hữu tư nhân đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Điều này làm cho những người sản xuất
hàng hoá độc lập với nhau và mỗi người có quyền chi phối về sản phẩm
của mình. Mặt khác họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội
nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự
mua bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới hình thái hàng hố.
Như vậy, phân cơng lao động xã hội làm nảy sinh các quan hệ kinh tế
giữa những người sản xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan đến nhau,
phải dựa vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Còn sự tồn tại của chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã làm tách biệt về lợi ích kinh tế giữa
những người sản xuất trong xã hội, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là
một mâu thuẫn, mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi,
mua – bán sản phẩm của nhau. Đó là hai điều kiện cần và đủ để sản xuất
hàng hoá ra đời và tồn tại. Thiếu một trong hai điều kiện ấy, sản xuất hàng
hoá sẽ khơng thể tồn tại.
Kinh tế hàng hóa, đối lập với kinh tế tự nhiên, sản phẩm trước khi đi
vào tiêu dùng phải qua khâu phân phối lưu thông. Thị trường vừa là kết
quả của sản xuất hàng hóa vừa là điều kiện của sản xuất hàng hóa. Sự tách

biệt giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng và tiền đã dẫn tới sự không khớp
nhau về khối lượng, tiến độ, thời gian sản xuất và tiêu dùng hàng hóa. Khi
sản xuất xã hội càng phát triển thì đa số nhu cầu của con người được thỏa
mãn thông qua thị trường. Bản thân sự tiêu dùng (tiêu dùng cho cá nhân và


9

tiêu dùng cho sản xuất) ln địi hỏi sự đồng bộ cao, nếu không tiêu dùng
không thực hiện được.
Trên thị trường có hai nhóm người hoạt động. Nhóm thứ nhất là những
người mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ, nhóm thứ hai là những người bán
hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng. Sự phân nhóm này chỉ là
tương đối và với mỗi người khi này thì thuộc nhóm người mua nhưng khi
khác lại thuộc nhóm người bán. Thị trường là giao điểm gặp gỡ, tác động
của hai nhóm người này. Cùng thơng qua thị trường để giải quyết mâu
thuẫn giữa người mua và người bán, bảo đảm thực hiện cân đối giữa cung
và cầu. Mâu thuẫn trên thị trường phản ánh mâu thuẫn kinh tế, chính trị, xã
hội. Khi mâu thuẫn được giải quyết thì người mua, người bán, người sản
xuất, người tiêu dùng đều thực hiện được mục tiêu của mình. Những ách
tắc trên thị trường có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn gây
mất ổn định xã hội.
Như vậy, phát triển thị trường là điều kiện để phát triển sản xuất hàng
hóa, suy rộng ra là điều kiện của sự phồn thịnh kinh tế xã hội.


10

Chương 2:


QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Quá trình phát triển tư duy về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam:

I.

Bước khởi đầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam:
Mùa xuân năm 1975, cả nước hân hoan đón mừng ngày thống nhất đất

nước, hướng về một tương lai sáng lạng phía trước. Nhưng qua hai kế hoạch 5
năm 1976 – 1980 và 1981 - 1985, niềm lạc quan ban đầu đã khơng trở thành
hiện thực vì đến cuối năm 1985 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng và vịng
xốy lạm phát.
Siêu lạm phát và khủng hoảng kinh tế xảy ra một phần bắt nguồn từ
nguyên nhân sâu xa và khách quan là nền kinh tế lúc xuất phát ở trình độ thấp
kém, sản xuất nhỏ cịn phổ biến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và hậu quả
chiến tranh để lại khá nghiêm trọng, nền kinh tế lại nằm trong vòng bao vây
cấm vận của các thế lực thù địch và phản động quốc tế. Tuy nhiên, sự non yếu
của nền kinh tế lúc xuất phát và hậu quả chiến tranh không phải là nguyên
nhân quyết định đưa nền kinh tế đến khủng hoảng mà chính là do duy trì q
lâu mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ và cấp phát hiện vật trên
diện rộng. Đặc trưng của mơ hình kinh tế ấy chứa đựng một cơ cấu kinh tế
kém hiệu quả, phát triển kinh tế nhà nước tràn lan, tập trung quá mức vào
công nghiệp nặng, ham quy mô lớn, kỳ thị sản xuất nhỏ và phủ định các quy
luật thị trường. Để duy trì cơ cấu kinh tế ấy đã phải vay nợ, bao cấp sử dụng


11


cơ chế cấp phát ở đầu vào và giao nộp ở đầu ra. Một nền kinh tế như thế
khủng hoảng là không thể tránh khỏi. Trong giai đoạn này tuy đã tiến hành
một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mơ nhưng nhìn chung chỉ
mới là các liều thuốc giảm sốt chứ chưa phải là phát đồ chữa trị căn bệnh siêu
lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Rất mừng là, thực tiễn và những bài học
kinh nghiệm rút ra được từ 10 năm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
1976 – 1985 đã được xem xét một cách nghiêm túc, hội tụ thành quyết tâm:
đổi mới.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư
duy lý luận về nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất là sự phê phán triệt để cơ chế cũ tập trung quan liêu bao cấp, mở
đường cho cơ chế mới xuất hiện.
Thứ hai, đã bước đầu hình thành tư duy lý luận “nền kinh tế hàng hoá”.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3
nguyên tắc:
- Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước
đi và hình thức thích hợp.
- Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ.
- Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ
sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội


12


chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
Điểm đột phá đầu tiên sau Đại hội Đảng VI là Nghị quyết Trung ương hai
khoá VI về phân phối lưu thơng theo hướng xố bỏ những rào cản, tình trạng
cát cứ làm chia cắt thị trường tạo nên những mất cân đối cung - cầu giả tạo
khơng có lợi cho người sản xuất và người tiêu dùng mà chỉ làm lợi cho những
người có chức năng lưu thơng, phân phối. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “không
sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lịng dân khơng n”
là cơ sở lý luận cho quyết sách đó. Thị trường được “cởi trói”, thốt khỏi sợi
dây “bao cấp” đã góp phần bình hồ về cung - cầu đúng với thực chất của nền
kinh tế quốc dân, tạo cơ sở để thực hiện bước cải cách tiếp theo là xoá bỏ chế
độ tem phiếu - một đặc trưng của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
Với ba chương trình kinh tế lớn được thơng qua tại Đại hội VI (lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu), vấn đề phát triển lực
lượng sản xuất được đặt ở vị trí cao hơn so với xây dựng quan hệ sản xuất
mới. Một mặt, đó là biện pháp sửa sai sau nhiều năm đặt trọng tâm vào quan
hệ sản xuất mới với hy vọng là “quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển”. Về cả lý luận cũng như thực tiễn, đây là sự thay
đổi đúng hướng.
Sau hơn bốn năm thực hiện nghị quyết của đại hội VI, chúng ta đã đạt
được những tiến bộ ban đầu về kinh tế: kiềm chế được bước đà lạm phát (chỉ
số tăng giá bình quân hằng tháng của thị trường xã hội năm 1986 là 20% đến
1990 là 4,4%), giảm bớt một phần khó khăn về đời sống của nhân dân đã kéo
dài nhiều năm, có tiến bộ về mặt xuất khẩu và cải thiện đáng kể cán cân xuất
nhập khẩu, viện trợ quốc tế giảm nhiều, nguồn vay nhập siêu khơng cịn và
khả năng nhập khẩu từ các thị trường truyền thống giảm mạnh. Điều quan
trọng là nền kinh tế đang có những chuyển biến có ý nghĩa cả về cơ cấu và cơ



13

chế quản lý. Đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thốt khỏi tình trạng khủng
hoảng và mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng lộ rõ: lối làm ăn chạy theo
lợi nhuận bằng mọi giá, dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ làm hàng
giả, buôn lậu, …. Công cuộc đổi mới sẽ không tránh khỏi những vấp váp nếu
khơng cân nhắc, tính tốn bước đi.

II.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên con
đường phát triển và hoàn thiện:
Đại hội VI của Đảng và hội nghị trung ương 6 (khóaVI) tiếp theo có bước

đột phá tư duy đối với nền kinh tế hàng hố, nhưng cịn nhiều yếu tố bất cập,
chưa hồn chỉnh.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng nhận định nền kinh tế đất
nước là đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và khẳng định: “Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu
dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [6, 21]Đến giữa năm 1991 (sau
hơn 4 năm vừa học vừa làm kinh tế hàng hóa), trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta lại tiếp tục bổ sung
tư duy khoa học về kinh tế hàng hóa:
Thay vì trước đây chỉ nêu nhiệm vụ “xây dựng nền kinh tế hàng hóa”, thì
nay nói rõ và đầy đủ hơn: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước”.

Kinh tế hàng hóa được đặt ở vị trí trung tâm, thỏa đáng trong phần
phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Trong
phần những định hướng lớn về chính sách trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa


14

xã hội, việc “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” được trình bày ở vị trí đầu tiên, đúng với tầm quan
trọng hàng đầu và bao trùm của nó.
Nội dung kinh tế hàng hóa được trình bày tồn diện, bao gồm cơ cấu
ngành kinh tế; sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế; cơ chế quản lý kinh tế; vị
trí của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế.
Trong đó, nêu lên các luận điểm quan trọng: “Các hình thức sở hữu hỗn hợp
và đan kết với nhau”, “Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, “thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Nội dung của cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hóa được trình bày đầy đủ
và mạch lạc hơn. Nó khơng chỉ giới hạn ở hai yếu tố chủ yếu như trước đây là
kế hoạch và cơ chế thị trường, trong đó nhấn mạnh vai trị của kế hoạch.
Cơ chế đó hiện nay có cơng thức như sau: “Hình thành cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ
khác”. Ở đây, kế hoạch chỉ là một yếu tố trong quản lý của Nhà nước.
“Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư,
dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...”. Vấn đề này đã bước đầu được đặt ra tại
Hội nghị Trung ương 6, khóa VI.
Qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, việc phát triển nền kinh tế hàng hóa cùng với các chính
sách khác, đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên đất nước ta. Kết thúc thời
kỳ kế hoạch 1991 – 1995, đại hội lần thứ VIII đã kết luận: “Nước ta đã ra

khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm,
tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


15

đất nước" [5,12]. Đại hội VIII đã phát triển thêm Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Về sở hữu, bổ sung thêm hình thức thực hiện sở hữu tồn dân và tập thể
vốn đã được đặt ra bước đầu tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 1-1994): Triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại
doanh nghiệp, cho các tổ chức và các cá nhân ngoài doanh nghiệp. Bên cạnh
những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước
nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Hợp tác xã được tổ chức dựa trên
cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân
phối theo kết quả lao động và theo cổ phần.
Về phân phối cũng được nói rõ hơn: Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
“đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Cơng bằng xã hội phải thể
hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả
sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy
khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế cịn có bóc lột
và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải ln quan tâm
bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo”.

Về cơ chế quản lý kinh tế, xác định thêm: Kế hoạch chủ yếu mang tính
định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mơ. Thị trường có vai trò
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương
án tổ chức sản xuất kinh doanh.


16

Việc thiết lập đồng bộ các thị trường được nhấn mạnh và bổ sung thêm:
Tổ chức, quản lý tốt thị trường bất động sản, đặc biệt đất đai; xây dựng thị
trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khốn.
Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là
tại Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta
đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm
đó về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “... thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” [7,86]. Hai khái niệm “kinh tế thị trường” và “kinh tế hàng hóa” có
cùng bản chất nhưng cấp độ khác nhau. Trong những năm đầu, khi chuyển từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhận thức lý luận
và thực tiễn của chúng ta về nền kinh tế mới còn nhiều khoảng trống. Chỉ sau
15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của chúng ta về nền kinh tế
thị trường mới rõ dần. Không thể bằng học tập qua sách vở hoặc thông qua
khảo sát kinh nghiệm của nước ngồi có thể đưa lại cho chúng ta nhận thức
đầy đủ và sâu sắc về kinh tế thị trường chừng nào chúng ta còn chưa bắt tay tổ
chức cơng tác thực tiễn về nó.
Đến Đại hội IX, chúng ta đã tích lũy được nhiều hơn nhận thức lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực này. Có thể nói về cơ bản chúng ta đã thiết

kế được khung thể chế kinh tế thị trường và vận hành nó trên đất nước ta, tuy
cịn nhiều hạn chế. Đảng đã tuyên bố: “Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất qn, là mơ hình kinh tế
tổng qt trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
[7,86]. Văn kiện Đại hội IX cũng tiếp tục phát triển thêm những luận điểm


17

mới, khi ghi rõ: Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, cũng có nghĩa khẳng định thêm vị trí pháp lý và vai trị tất
yếu của các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi trong nền kinh tế nước ta. Từ nay không phải là “cho
phép” các thành phần đó tồn tại hay khơng, mà tất yếu tồn tại như một quy
luật khách quan.
Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng nay
nhấn mạnh thêm: phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn
hoặc có cổ phần chi phối ở “một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng. Xây dựng một số tập đồn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng cơng ty
nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế... Giao, bán, khoán, cho
thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sát nhập,
giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động khơng có hiệu quả” [4].
Kinh tế tư bản tư nhân cũng có môi trường và địa bàn hoạt động rộng rãi hơn:
“Tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư
bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả
đầu tư ra nước ngoài...”[4].
Việc thiết lập đồng bộ các thị trường vẫn tiếp tục như trước đây, nay bổ
sung thêm thị trường khoa học và công nghệ, phát triển các dịch vụ thông tin,
chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển thị trường bảo hiểm.

Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước
ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính
sang cho vay theo cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp thơng qua tín dụng đầu
tư, phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển.


18

Đến nay, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta vẫn tiếp tục được Đảng khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X như sau: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế”[8,

tr69].

Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan

đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
làm sáng rõ hơn, cụ thể với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị

trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh
doanh.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trước đây được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản,
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X được sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh,
- Do nhân dân làm chủ;


19

- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất;
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Tóm lại, tư duy về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng ta, cũng như nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng
ta ngày càng được hoàn thiện hơn trước. Đến nay, chúng ta đã xác định được
rõ thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất, mục

tiêu của nó và những nội dung cơ bản cần làm để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng hiểu hơn các đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam. Chính vì vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận
để từ đó lại soi đường cho những bước đi tiếp theo nên Đảng đã lãnh đạo
nhân dân thực hiện được công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tích rất
quan trọng.

III. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay:
1. Những thành tựu đã đạt được:


20

Gần mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới của cả nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
a- Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 3 lần trong gần 20 năm qua, bình
quân tăng hơn 7%/năm, năm 2002 đạt 7,04%, đặc biệt trong năm 2007, nền
kinh tế đã đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%) tạo
khả năng hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006-2010
ngay trong năm 2008.Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD/năm tăng
lên gần 500 USD/năm, gấp 2,5 lần. Từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm
trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và
nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Điều quan trọng là nền kinh tế thực,
hoạt động theo tín hiệu của thị trường.
b- Kinh tế thị trường góp phần làm thay đổi sâu sắc cơ cấu ngành nghề
và lao động. Tỷ trọng nông nghiệp trong các ngành kinh tế giảm xuống, từ
24,53% (2000) xuống còn 20,36% (2006). Nhưng những phân ngành theo nhu
cầu của thị trường được phát triển nhanh như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải

sản, cây thực phẩm, cây công nghiệp... Công nghiệp và xây dựng, thương mại
và dịch vụ phát triển có tỷ trọng khơng ngừng tăng trong nền kinh tế. Năm 2007,
tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP.

Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá ca o, đạt 20,5% trong năm

2007, năm đầu

tiên gia nhập WTO. Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản được đảm bảo, tổng thu ngân sách vượt mức kế
hoạch đề ra.

Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều

công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Cụ thể, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 đã đạt con số kỷ lục 10,2 tỷ USD.
Nợ của Chính phủ và nợ nước ngồi của quốc gia tiếp tục được duy trì ở
mức an tồn...
Các loại thị trường mới như thị trường lao động, sản phẩm khoa học cơng nghệ, … ra đời và có đang phát triển rất nhanh, đặc biệt là thị trường
chứng khoán. Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động (từ 7/2000) thị trường chứng


21

khoán tập trung của Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong
năm 2006, 2007 kể cả về quy mô và chất lượng. Đến cuối năm 2006 đã có 68
cổ phiếu trị giá niêm yết gần 11,5 nghìn tỷ đồng trong đó có cổ phiếu của
nhiều doanh nghiệp lớn như FPT, VNM…
Đặc biệt, chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cơ lập, cấm vận
của các thế lực thù địch ; khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường
do Liên Xô và các nước Đông Âu bị tan rã. Việt Nam đã thực hiện quá trình

hội nhập có kết quả, chính thức là thành viên của ASEAN và APEC, ký Hiệp
định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, khai thông quan hệ
với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB, trở thành thành
viên thứ 150 của WTO, và đã được Mỹ chính thức trao quy chế thương mại
bình thường vĩnh viễn (PNTR).
c- Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế thay đổi nhanh
Gần hai mươi năm trước, sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế chủ
yếu là sở hữu cơng dưới hai hình thức tồn dân và tập thể. Trên cơ sở đó, có
hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Dưới tác
động của cơ chế thị trường, bản thân các đơn vị kinh tế của 2 thành phần này
được sắp xếp lại, có một số bị giải thể, phá sản hoặc sát nhập do làm ăn kém
hiệu quả. Các đơn vị kinh tế nhà nước từ 12 000 đơn vị, đến nay giảm xuống
còn dưới 5 000 (giảm hơn 50%). Các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể
còn lại phần lớn chuyển sang hình thức cổ phần, một số chuyển thành công ty
trách nhiệm hữu hạn, liên doanh... và làm ăn có hiệu quả hơn. Vì vậy, tuy
giảm đơn vị kinh doanh về số lượng tuyệt đối, nhưng giá trị sản xuất kinh
doanh vẫn tăng, kinh tế nhà nước và tập thể vẫn giữ vai trò nền tảng của nền
kinh tế quốc dân (chiếm khoảng 46% GDP) và nắm những ngành kinh tế then
chốt; kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự lớn mạnh
và vai trị trong nền kinh tế của các tổng cơng ty nhà nước là một minh chứng.


22

Sự giảm tương đối của các thành phần công hữu đi song song với sự ra
đời và lớn mạnh của các thành phần phi công hữu. Trong giai đoạn hiện nay,
khơng có các thành phần kinh tế này thì kinh tế thị trường cũng khó phát
triển. Đó là các thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Tỷ trọng của
chúng trong GDP hiện nay chiếm khoảng 54%.

d- Cơ chế quản lý chuyển biến mạnh
Từ chỗ quản lý kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh và mệnh lệnh hành chính
là chính, dần dần cơ chế thị trường ngày càng có vị trí quan trọng. Hiện nay,
vai trị của cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực của nền kinh tế được
thể hiện rõ nét. Tính kế hoạch trong quản lý vẫn không mất đi, nhưng chủ yếu
được thể hiện trên bình diện vĩ mơ của nền kinh tế. Nhà nước giảm mạnh sự
can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị cơ sở, tập
trung nhiều hơn vào chức năng quản lý nhà nước. Quyền tự chủ về các mặt
của cơ sở ngày càng mở rộng. Q trình phi tập trung hóa trong quản lý kinh
tế là một xu hướng vận động rõ nét hiện nay.
e- Về phân phối, có sự đổi mới sâu sắc về tư duy và chỉ đạo thực hiện.
Cùng với sự xuất hiện nền kinh tế thị trường, chúng ta không chỉ phân phối
theo tiêu chuẩn duy nhất là lao động và phúc lợi xã hội như thời kỳ bao cấp
trước đây. Sự bổ sung quan trọng mới về chất là phân phối theo mức đóng
góp về vốn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó là cốt lõi và là sự mở
đường cho hình thức kinh tế mới xuất hiện phổ biến trong xã hội ta: cổ phần
hóa. Vốn đóng góp càng nhiều thì lợi nhuận và cổ tức càng nhiều, tiền nhàn
rỗi (qua nhiều con đường) đầu tư cho nền kinh tế càng lớn. Không phải ngẫu
nhiên mà hiện nay mức đầu tư dựa vào nguồn huy động trong nước đã chiếm
đến trên dưới 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (bao gồm đầu tư nước ngoài,
vay mượn, viện trợ). Quan niệm về lao động cũng được nới rộng ra, theo đó


23

phân phối chính đáng bao gồm hoạt động quản lý, hoạt động môi giới- một
dịch vụ tối cần thiết trong kinh tế thị trường.
Thu nhập đa dạng và không hạn chế về số lượng tuyệt đối, mà tùy thuộc
vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đòi hỏi Nhà nước phải điều tiết để bảo
đảm công bằng xã hội. Hoạt động này ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên, việc

Nhà nước kiểm soát được các nguồn thu nhập cá nhân để điều tiết còn là một
vấn đề nan giải.
f- Tiến bộ và công bằng xã hội là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và được
thực hiện tích cực nhằm hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường và đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nét nổi bật và được coi là điểm sáng trong các nước đang phát triển và
được thế giới đánh giá cao là cơng tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Đến
nay, có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hồn cảnh khó khăn được
tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước,
góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007.
Nếu tính theo tiêu chuẩn thế giới, Ngân hàng thế giới đánh giá tỷ lệ nghèo của
nước ta giảm từ 37,4% (năm 1997 - 1998) xuống còn 28,9% (năm 2001 2002).
Về chỉ số phát triển con người (HDI - theo các tiêu chí kinh tế, văn hóa,
sức khỏe), Việt Nam được thế giới xếp thứ bậc cao hơn chỉ số phát triển kinh
tế trong so sánh với các nước khác, đứng trong nhóm nước trung bình của thế
giới. Điều đó chứng tỏ chúng ta ưu tiên chăm lo phát triển con người- mục
tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế. Đồng thời, HDI của Việt Nam ngày càng
tăng. “Báo cáo về tình hình phát triển con người năm 2007 – 2008 do chương
trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) công bố tại Hà Nội ngày 28-11 cho
thấy chỉ số HDI Việt Nam được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong
tổng số 177 nước được điều tra, tăng 4 bậc so với năm ngoái và được xếp vào


24

các nước có liên tục được cải thiện trong 20 năm qua” [1].Theo báo cáo này
hiện nay, Việt Nam đứng thứ 122 về thu nhập đầu người, về tuổi thọ đứng thứ
56, về tỷ lệ người lớn biết chữ đứng thứ 57 (trong số 177 nước được điều tra).
Nguyên nhân của những thành tựu là đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã

phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng
động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua
tình trạng nước nghèo và kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của
đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp so với mức trung
bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế - xã hội
vẫn còn nhiều mặt yếu kém, bất cập.
2. Những mặt yếu kém, bất cập còn đang tồn tại:
a- Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với
thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ
cịn nặng. Đầu tư của Nhà nước cịn thất thốt và lãng phí.
b- Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và
phát triển lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết
năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế
quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm,
tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển; chênh lệch giàu nghèo tăng
nhanh.
c- Kinh tế vĩ mơ cịn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính,
ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; mơi trường
đầu tư, kinh doanh cịn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho
các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.


25

d- Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp,
có nhiều tiêu cực trong dạy, học, và thi cử... Khoa học và công nghệ chưa thật
sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành
y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thơng tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn.

Việc đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực này
triển khai chậm.
e- Đời sống của một bộ phận nhân dân cịn nhiều khó khăn, nhất là ở
vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và
thiếu việc làm cịn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma túy,
mại dâm, lây nhiễm HIV-AIDS có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thông
ngày càng tăng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
Những mặt yếu kém, bất cập nói trên có phần do điều kiện khách quan,
nhưng chủ yếu là do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, nổi lên là:
Công tác tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách
của Nhà nước chưa nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thật chủ động tranh thủ thời cơ.
Vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước ở các
cấp chưa được phân định rành mạch và phát huy đầy đủ. Nguyên tắc tập trung
dân chủ chưa được thực hiện tốt, trách nhiệm tập thể chưa được xác định rõ
ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề cao; kỷ luật không nghiêm.
Một số vấn đề về quan điểm như sở hữu và thành phần kinh tế, vai trò của
Nhà nước và thị trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế
quốc tế... chưa được làm rõ, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và thơng
suốt trong thực hiện, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể
chế hóa thiếu dứt khốt, thiếu nhất qn, chậm trễ, gây trở ngại cho công cuộc
đổi mới và công tác tổ chức thực hiện.


×