Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

VÀNG VÀ CÁC THUỘC TÍNH CỦA VÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.19 KB, 45 trang )

1

Ch¬ng I. VÀNG VÀ CÁC THUỘC TÍNH CỦA VÀNG
I.

ĐẠI CUƠNG VỀ LỊCH SỬ CỦA VÀNG

Nhiều nguồn tài liệu cổ còn lưu lại cho biết, vào khoảng 12000 năm
trước Công nguyên người Ai Cập đã biết đến vàng và từ “vàng” đã được ghi
trong cuốn từ điển cổ của người Ấn Độ cách đây 6000năm. Cũng vào thời đó
người Ai Cập,người Xume đã biết gia công vàng làm đồ trang sức. Năm 3100
trước Công nguyên, vua Ai Cập Menes đã cho đúc vàng thành từng thỏi mang
tên mình, mỗi thỏi vàng nặng 14gr. Các đoàn lạc đà của vua Xa-lô- mông
hàng năm đem về từ Ophir một số vàng theo trị giá ngày nay đến hàng tỷ
phrăng. Vua có ngai bọc vàng và uống rượu trong những ly rượu bằng vàng.
Khi vua Ai Cập trẻ Tontankhamon chết (khoảng năm 1350 trước Công
nguyên), các thần dân của Vua đã đặt xác ướp của ông vào một cái quách
bằng vàng khối trên 100kg, còn được trang trí bằng một tượng vàng người đồ
sộ bằng vàng tạc theo hình vua.Năm 1492, Christophe Colomb đã phát hiện
có vàng trên đảo Hispanila nằm giữa Đô-mi-ních và Ha-i-ti ngày nay.Suốt cả
thế kỷ sau đó,những người đi chinh phục Châu Mỹ đã gửi về nước mình
những số lượng lớn thứ kim loại quý đó.
Ở thời Trung Cổ, người Fhini, sau đó là người Hy Lạp đã biết dùng
vàng để đúc thành tiền và cho lưu hành song song với đồng tiền bằng kim
loại bạc.
Cách đây khoảng 3000 năm đã thấy xuất hiện tiền bằng vàng ở Ấn Độ,
ở Trung Quốc. Ở Việt nam từ đầu Công nguyên ông cha ta đã biết đến vàng.
Trên thế giới, dưới các triều đại nô lệ và phong kiến, vàng được dùng
đúc thành vương miện,tượng trưng cho quyền uy của bọn vua chúa phong
kiến, từ thời tư bản chủ nghĩa cho đến ngày nay,vàng được dùng làm phương
tiện cất giữ của cải,phương tiện dự trữ,thanh toán và ngày càng được dùng


vào công kỹ nghệ phục vụ đời sống và làm đồ trang sức.


2

Lúc đầu vàng được xếp sau bạc trong hàng ngũ kim loại màu khan
hiếm.Nhưng sau đó người ta tìm cách cải tiến công tác thăm dò, khai thác bạc,
vi dự trữ bạc lớn, dễ khai thác hơn, nên bạc đã được khai thác nhiều hơn
vàng, làm cho vàng vốn đã khan hiếm ngày càng trở nên khan hiếm và cao giá
hơn bạc.Từ thời cổ đại đến thời trung cổ, tương quan giá trị giữa vàng và bạc
thường dao động trong phạm vi 1/10 đến 1/12, chưa bao giờ vượt quá tỷ lệ
1/16. Đến đầu thế kỷ 20, tương quan ấy đã có lúc dao động trong phạm
vi:1/36 đến 1/39(1)
Trong lịch sử nhân loại, cho đến nay con người đã khai thác được
khoảng 130 ngàn tấn vàng,nhưng do vàng là kim loại quý hiếm và bền vững,
cho nên hiện còn khoảng 85% số vàng này nếu thu gom lài thì có thể xếp
thành một khối hình hộp mỗi bề 16m (2)
2.CÔNG DỤNG CỦA VÀNG.

Nếu khi mới ra đời vàng chỉ được dùng để đúc tiền, làm vương miện
tượng trưng cho quyền uy, làm đồ trang sức biểu thị sự giàu sang, phú quý
và làm báu vật để cất giữ, thì từ khi khoa học kỹ thuật phát triển con người
ngày càng khám phá ra nhiều thuộc tính hữu ích và công dụng quý giá của
vàng, mà ít kim loại nào có được.Chẳng hạn:
_Trong y học,từ lâu vàng đã được dùng làm nguyên liệu cho ngành nha
khoa.Theo báo “Tiền phong chủ nhật” số 40/96, trong thế chiến thứ 2 Phát
xít Đức đã lấy được khoảng 6 tấn vàng từ răng (vàng) của người Do Thái.
Tính đến thập niên 80 lượng vàng sử dụng trong nha khoa đã giảm xuống
25% so với trước, tuy vậy số lượng vàng dùng để làm răng của toàn thế
giới năm 1987 vẫn còn đến 48 triệu tấn.

Trong công nghiệp thuỷ tinh, vàng được sử dụng làm thuỷ tinh màu đặc
biệt.Nước vàng kim (hoàng kim) có 12% vàng dùng để vẽ lên bề mặt
gốm,sứ,thuỷ tinh làm tăng vẻ đẹp và sang trọng của sản phẩm.Vàng còn
được dùng để làm tranh sơn mài.


3

Vàng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp phim ảnh, đặc
biệt phim ảnh màu.Các băng ghi âm, ghi hình thông dụng và màu cũng
phải sử dụng đến vàng.
Công nghiệp hoá chất cũng sử dụng vàng ngày càng tăng để chế tạo các
dụng cụ thí nghiệm bền hoá chất như chén,que khuyâý, hệ thống làm lạnh
đặc biệt, bình phản ứng, điện cực…
Trong công nghiệp điện tử, vàng rất được ưa chuộng để chế tạo các
mạch dẫn điện, tiếp xúc, công tắc, vỏ bền với tác dụng của hoá chất…
Người ta tính rằng, chỉ riêng trong thập niên 70 (1971-1980) nghĩa là
vào lúc này ngành công nghiệp điện tử bán dẫn và công nghiệp hàng
không vũ trụ mới bắt đầu thịnh hành, mà ngành công nghiệp tiêu dùng
phục vụ dân sinh đã ngốn mất 9442 tấn vàng, trong đó công nghiệp kim
hoàn dùng 7136 tấn, điện tử rađiô dùng hết 903 tấn, ngành nha khoa dùng
hết 712 tấn, cho các nhu cầu công nghệ khác hết 691 tấn. Cũng trong thời
gian này lượng vàng dùng làm đồ trang sức, đúc tiền cất giữ của tư nhân
vào khoảng 4693 tấn (3).
Cho đến nay lượng vàng lớn nhất vẫn được sử dụng làm vật bảo đảm
trong lưu thông tiền tệ. Lượng vàng đưa vào lưu thông tiền tệ của nhiều
quốc gia chiếm gần nửa số vàng sản xuất hàng năm. Tuy nhiên, ngày nay
tiền vàng ít được sử dụng để lưu thông thường chỉ có 900 phần vàng.
3. NHỮNG THUỘC TÍNH LÝ HOÁ HỌC CỦA VÀNG.


Từ xa xưa vàng đã trở thành kim loại cao giá, nguyên nhân chủ yếu,
suy cho cùng, có lẽ do vàng là kim loại khan hiếm, lại có nhiều thuộc tính
lý hoá và ngày càng phát hiện được nhiều công dụng hữu ích phục vụ đời
sống kinh tế xã hội mà các kim loại khác thường không thể có được.
Song, thực chất vàng chỉ là kim loại màu vàng, ánh kim đẹp có tên
Latinh la Aurum, ký hiệu hóa học là Au, được xếp hàng thứ 79 trong bảng
tuần hoàn Mendeleep, có phân tử lượng là 196,967 nằm trong nhom thứ 1
thuộc nhóm kim loại màu khan hiếm


4

3.1 Các tính chất lý học
Tại nhiệt độ thường vàng ở thể rắn, tỷ trọng 19,336g/cm3.Vàng nóng
chảy ở 1063,40C sôi ở 29660C. Khi nguội tới nhiệt độ nóng đỏ, nếu trong
vàng có lẫn các kim loại khác, thì đột nhiên xuất hiện lục thẫm. Khi hoá
rắn thể tích của vàng giảm nhiều.
Ở dạng bột có màu đỏ tía, xanh xám hoặc màu đen, ở dạng chia rất nhỏ,
lại có màu vàng.Dưới ánh sáng xuyên qua, những lá vàng rất mỏng có màu
xanh lơ hoặc lục, còn dưới ánh sáng phản chiếu vẫn là màu vàng.
Vàng dẫn nhiệt và dẫn điện tốt. Ở 180C, hằng số dẫn điện của vàng bằng
67,3% của bạc, còn hệ số dẫn nhiệt bằng 70% của bạc
Vàng tương đối mềm, dẻo và dai do vậy dễ kéo thành sợi (1gr vàng có
thể kéo thành một sợi chỉ dài 3 km) và dễ dát mỏng (có thể mỏng 1/8000
mm). Do vậy các tượng đài rộng hàng trăm tấn có thể được mạ kín bằng
vài chục gr vàng.
Vàng dễ bay hơi trong chân không và dễ đánh bóng
Độ cứng theo Mo-xơ là 2,5
Độ cứng theo Brinel (HB) là 18-20 KG/mm2
3.2 Các tính chất hoá học

Vàng không đổi màu và hầu như không bị ăn mòn trong không khí, ở
bất kỳ nhiệt độ nào, trong nước, trong các dung dịch muối, dung dịch kiềm
nóng chảy và trong các axit mạnh
Vàng hoà tan trong dung dịch Kalixyanua (KCN) hoặc Natrixyanua
(NaCN) khi có ôxy theo phản ứng sau:
4Au+O2+8NaCN+2H2O=4Na[Au(CN)2+4NaOH
Vàng hoà tan trong nước cường thuỷ
Khi có muối ăn (NaCL) hoặc amoniclorua (NH4CL) theo phản ứng sau:
Au+3HCl+HNO3=AuCl3+NO+2H2O
Vàng dễ tạo thành hợp kim với nhiều nguyên tố:
VD:bạc, đồng, asen, cađmi, Bismut, bạch kim, Telua, chì


5

Dung dịch vàng (III) clorua có tính oxy hoá rất mạnh, nó bị khử đến
vàng kim loại bằng các chất khử vô cơ, hữu cơ sau:
AuCl3+3FeSO4=Au+Fe2(SO4)3+FeCl3
2AuCl3+3SnCl2=2Au+3SnCl4
4AuCl3+3(NH2NH2HCl)=4Au+15HCl+3N2
Có thể khử bằng khí sunfurơ, than hoạt tính, axit Ôxalic, amoniôxa lat,
Natrinitrit, Hyđrôquinon, Hyđrôperoxyt trong môi trường kiềm,v.v…
Độ bền hoá học của vàng trong axit là nhờ điện cực dương của vàng
Vàng dễ tạo phức với dung dịch xianua, nhất là khi có mặt không khí
Các hợp chất hoà tan của vàng dễ bị các chất hữu cơ khử vàng thành kim
loại dưới dạng keo.Dung dịch thường có các màu đỏ, xanh, tím hoặc nâu.
4.”TUæI” VÀNG VÀ ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG VÀNG

4.1. ”Tuổi” hàm lượng vàng
Cho đến nay chưa ai có thể biết được chính xác tuổi vàng theo nghĩa

thời gian năm tháng.Còn tuổi vàng mà dân gian quen gọi là một quy ước
về chất lượng vàng theo tập quán của vung Á đông
Vàng cũng như các kim loại khác, tồn tại dưới dạng nguyên chất (tinh
khiết) hoặc dưới dạng hợp kim hay hợp chất.Vàng kim loại bền trong
không khí, nên không bị biến đổi theo thời gian vì vậy “tuổi” vàng là khái
niệm chỉ độ nguyên chất hoặc độ tinh khiết (hàm lượng) cuả vàng .Vàng
càng tinh khiết,”tuổi” vàng càng cao, vàng càng có nhiều tạp chất, thì tuổi
vàng càng thấp.Vàng cao tuổi nhất là vàng mười hoặc vàng 99,99. Ở nước
ta, hợp kim giữa vàng và bạc với hàm lượng trên 90% vàng được gọi là
vàng ta, hợp kim giữa vàng và đồng được gọi là vàng tây.Việc xác định
hàm lượng vàng trong vàng ta có phần dễ dàng hơn xác định hàm lượng
vàng trong vàng tây.
Trên thế giới còn có những quy định khác về chất lượng vàng là carats
(tiếng Pháp) hoặc karat (tiếng Anh, Đức viết tắt là K hoặc Kt).Vàng
nguyên chất là vàng 24 karat (24K).Vàng có giá trị karat càng thấp, thì
hàm lượng vàng càng ít, chất lượng vàng càng thấp.


6

Khái niệm khoa học về chất lượng phổ thông của vàng là phần trăm
(%). Vàng tinh khiết cao là vàng nguyên chất, có hàm lượng 100% vàng.
Chất lượng vàng càng thấp hàm lượng vàng càng ít.
Mối quan hệ chất lượng giữa karat và hàm lượng vàng xin xem bảng 1.
Karat,K (phần/24)

Độ

tinh


khiết Phần trăm (phần/100)

24 K

(phần/1000)
1000 hay 999

100 hay 99,99%

23 K

958

95,83%

22 K

916 hay 917

91,66%

21 K

875

87,50%

20 K

833


83,33%

19 K

791

79,16%

18 K

750

75,00%

17 K

708

70,83%

16 K

666 hay 667

66,66%

15 K

625


62,50%

14 K

583 hay 585

58,33%

13 K

541

54,16%

12 K

500

50,00%

11 K

458

45,83%

10 K

416 hay 417


41,66%

9K

375

37,50%

8K

333

33,33%

4.2 Đơn vị đo lường vàng
Ở nước ta, cũng như ở Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc thường tính trọng
lượng vàng và các kim loại, đá quý bằng đơn vị lạng (lượng) hoặc đồng
cân, chỉ, phân, ly (lai).
1 lạng =10 chỉ =100 phân =1000 ly (lai)


7

So với đơn vị đo trọng lượng thông dụng hệ quốc tế SI ta có hệ thức
chuyển đổi sau:
1 kg =26,666 lạng =266,66 chỉ =2666,6 phân =26666 ly
1 g =0,266 chỉ =2,66 phân =26,666 ly
Ngược lại, 1 lạng (còn gọi là cây vàng ) =37,5g
1 chỉ = 3,75g

Công thức để tính mối quan hệ qua lại:lạng-gam như sau:
1 lạng =

3
g
0,08

1g =

0,08
l¹ng
3

Ở Châu Âu thường tính trọng lượng vàng cũng như kim loại quý đặc
biệt là đá quý theo đơn vị karat. Quan hệ giữa karat và đơn vị trọng lượng
thông dụng quốc tế SI như sau:
1 kg =0,2g =200mg =5,32 ly
Vậy vàng 24K phải có trọng lượng là 4,8g vàng nguyên chất. Ở Mỹ
và Anh hay dùng đơn vị đo lường là ounce (đọc là aoxơ-viết tắt là oz),còn
tiếng Pháp là once (đọc là ônxơ viết tắt là oc).
Ngày nay, các ngân hàng quốc tế vẫn thường dùng đơn vị ounce trong
trao đổi mua bán vàng.
Có 3 loại ounce là:
_ Avoirdupois ounce, viết tắt là oz hoặc ozardp có giá trị là 28,349g,
thường dùng trong thương mại.
_ Troy ounce, viết tắt la oztr có giá trị là 31,103g, thường dùng trong
kim hoàn.
_ Zothecary ounce, viết tắt là ozap, có giá trị như oztr, thường dùng
trong dược phẩm và tạp phẩm.
5.VÀNG TRONG THIÊN NHIÊN.


Gìơ đây hầu như ai cũng biết, vàng là kim loại quý hiếm, là báu vật
được nhiều người quan tâm, mơ ước, là niềm vui và hạnh phúc của những
ai có nó trong tay.Song, vàng, như nhiều người trong số chúng ta đã biết,


8

cũng là một trong nhiều nguyên nhân của biết bao nỗi bất hạnh, là nguồn
gốc của biết bao cuộc chiến tranh đẫm máu, bao vụ án ly kỳ và bao nhiêu
huynh đệ tương tàn và do vậy, vàng cũng là nguồn gốc của biết bao đề tài
văn học bất hủ ở Đông Tây kim cổ. Song, vàng có ở đâu, có lẽ, ít người
quan tâm trừ một số nhà địa chất và những người săn lùng, khai thác vàng.
Trong thiên nhiên, vàng tồn tại như một thành phần của vỏ trái đất,
được phân bố khắp mọi nơi trên trái đất, trong lòng đất và trong nước
biển.Do vậy, việc tìm ra một mỏ vàng là không khó đối với một nhà địa
chất có kinh nghiệm, nhưng để tìm ra một mỏ vàng cực lớn trên 100 tấn
vàng, thì đó là một điều xưa nay hiếm. Các nhà kinh tế Mỹ được giải
Nobel đã tính rằng, cứ 1000 mỏ vàng, thì mới có 1 mỏ vàng lớn. Tìm vàng
vừa rất dễ lại vừa rất khó là như vậy. Mỏ vàng có quy mô khai thác, trữ
lượng hàm vàng lớn nhất hiện nay là mỏ Eezsteling của Nam Phi- trữ
lượng ước tính khoảng 3,3 triệu tấn, hàm lượng 5,7gr/ tấn quặng. Còn
vàng hiện đang khai thác ở độ sâu lớn nhất thế giới là mỏ vàng Gold
strike, nằm trong bang Nevada, miền Tây Hoa kỳ. Đó là mạch vàng của
thế kỷ, chứa 900 tấn vàng, nằm sâu 400m dưới lòng đất.(4)
Trước đây Nam Phi khai thác vàng ở vùng Witwatersrand, bắc
Johannesburg với độ sâu 3200m dưới lòng đất. Ở độ sâu này, nhiệt độ của
đá xấp xỉ 50C. Một số hành lang rất hẹp, đến nỗi thợ mỏ phải trườn mới di
chuyển được và phải khai thác 6 tấn quặng mới có được 30gr vàng. Do
điều kiện khắc nghiệt như vậy nên giá thành rất cao và mỏ vàng này đã

ngừng khai thác (5)
Tại Nevada-Mỹ, thợ mỏ của công ty Newmont làm việc khoẻ hơn
nhiều. Họ khai thác ở độ sâu 300m, gần như là lộ thiên và vỉa dài 2km.
Trên mặt đất người ta thường bắt gặp vàng sa khoáng nhiều hơn vàng
quặng. Vàng sa khoáng hình thành do quá trình xâm thực của tự nhiên
như mưa, gió, giông tố, lũ lụt gây sói mòn đất đá, lôi cuốn các mảnh vàng
vụn, vàng tấm, vàng cám bị “tịch đọng” lâu đời trong các lớp đất ngầm


9

hay trong các bãi cát, cồn cát bên bờ sông, khe suối, trong lòng đất, lòng
sông, đáy hồ ở các thung lũng, dưới các chân đồi núi.
Trong nước biển, các nhà địa chất cho biết, cũng chứa vàng, nhưng
hàm lượng vàng rất ít, 1m3 nước biển chứa khoảng 0,05mgr/vàng.Trữ
lưọng vàng trong đại dương ước tính vào khoảng 3 tỷ tấn, nhưng công
nghệ khai thác vàng hiện nay chưa cho phép khai thác được lượng vàng
này vì giá thành quá cao.
Trong lòng đất, các mũi khoan thăm dò hiện đại cho biết nhiều nơi có
vàng, nhưng phần lớn là vàng sao khoáng. Ở độ sâu 17km cũng có vàng,
nhưng hàm lượng vàng rất thấp, trung bình khoảng 0,005gr/tấn quặng.
Trong lòng quả đất từ độ sâu 5120 km đến trung tâm trái đất (6370 km)
với bán kính 1250 km chứa một lượng vàng đến 50 triệu tấn. Số vàng này
theo dự kiến có lẽ phải đến năm 3000 nhân loại mới có khả năng khai thác
được(6). Công kỹ nghệ hiện nay mới cho phép khai thác những mỏ vàng
hàm lượng 6gr/tấn quặng mới có lãi, thuận lợi nhất là gặp những mỏ vàng
hàm lượng trên 2,5gr/tấn quặng.
Ngày nay ở nước ta cũng như trên thế giới, vàng khai thác được dưới
dạng vàng gốc và vàng sa khoáng. Vàng sa khoáng nằm trong các lớp trầm
tích cát ngầm và cát bồi, được khai thác bằng phương pháp thủ công, đãi

cát lấy vàng, đôi khi thu được 25gr/tấn cát bồi. Vàng gốc nằm rải rác trong
các mạch thạch anh gốc vàng thuỷ nhiệt, được khai thác theo 3 phương
pháp: Hỗn hống hoá, xianua hoá và tuyển nổi.
Phương pháp đãi vàng hiện đại là dùng thiết bị phân hạt thuỷ điện
động, dòng nước lẫn đất đá, cát được phun chảy mạnh qua hệ thống có
nhiều phễu.Vàng sẽ đọng lại ở đáy các phễu.
Trong mạch quặng, vàng tự nhiên nằm ở dạng tự sinh hay cộng sinh với
các kim loại khác.Ngay ở dạng tự sinh hầu như quặng vàng cũng không tinh
khiết về mặt hoá học, mà thường có lẫn chút ít kim loại khác như thiếc, bạc,
platin, đồng, chì, antimon, thậm chí đôi khi còn lẫn cả sắt…
Hiện nay các nhà địa chất chỉ biết được hai nơi có vàng tự sinh hàm


10

lượng khá cao, đó là mỏ ở California(Mỹ)- chứa 99,9% vàng và ở
Ôxtrâylia- chứa 95% vàng.
Theo các nhà địa chất, trữ lượng vàng có thể khai thác trên trái đất
hiện nay vào khoảng 40 ngàn tấn.Với công nghệ khai thác vàng tiên tiến,
nhu cầu vàng trong đời sống kinh tế xã hội ngày càng tăng đã đẩy giá vàng
lên đã kích thích mọi nơi trên trái đất đua nhau tìm vàng, làm cho sản
lượng vàng khai thác được ngày càng tăng, năm sau thường cao hơn năm
trước. Bình quân hàng năm trên thế giới hiện nay, mỗi năm khai thác được
khoảng 20 ngàn tấn vàng. Như vậy trong vòng 12 năm nữa (2003-2015)
loài người sẽ khai thác hết số vàng nói trên. Song, không phải vì thế mà sợ
đến ngày nào đó vàng sẽ bị khai thác cạn kiệt, vì rằng theo các nhà địa
chất, hàng năm các núi lửa đã phun từ lòng đất ra cho loài người khá nhiều
nham thạch lẫn cả vàng(7).
6. KHAI THÁC VÀNG TRÊN THẾ GIỚI.


Khai thác vàng về nguyên tắc cũng như khai thác bất kỳ kim loại nào,
chỉ có khác là tuy mỏ vàng ở khắp mọi nơi trên quả đất nhưng trong số
những mỏ vàng đã phát hiện và đã khai thác, thì phần lớn là mỏ vàng sa
khoáng và mỏ vàng quặng, vàng gốc trữ lượng lớn,hàm lượng vàng cao,
cho phép khai thác hiệu quả về mặt kinh tế rất hiếm, có thể đếm trên đầu
ngón tay, như mỏ Tranwan (Nam Phi),California và Alaska (Mỹ), Uran và
Xiberi (Nga). Mỏ vàng vùng sa mạc Ôxtrâylia ở Brazil, Pêru, Canada…
Do vậy,mặc dù vàng đã được loài người biết đến và khai thác từ lâu,
nhưng so với các kim loại khác thì tổng lượng vàng trên thế giới đã khai
thác từ lâu, nhưng so với các kim loại khác thì tổng lượng vàng trên thế
giới khai thác được cho đến năm 1999 là khoảng 2576 ngàn tấn (8) nghĩa
là thấp hơn nhiều so với hàng tỷ tấn sắt thép loài người đã khai thác và tinh
luyện từ xa xưa đến nay.
Theo sử sách để lại và ước tính của các nhà kinh tế thì vào khoảng


11

3900 năm trước Công nguyên cho đến khi tìm ra Châu Mỹ (1942) nghĩa là
trong vòng 5932 năm loài người mới khai thác được 12,7 ngàn tấn, bình
quân mỗi năm khai thác trên 2 tấn. Trong vòng 384 năm sau (1493-1875)
đã khai thác được 9,6 ngàn tấn, bình quân mỗi năm khai thác được 25 tấn
(9). Điều đáng nói đến ở đây là chỉ riêng Tây Ban Nha, sau khi tìm ra
Châu Mỹ từ năm 1503 đến năm 1590 đã chuyển về nước 3017 tấn vàng
(10) góp phần làm thay đổi bộ mặt xã hội của nước này.
Tuy nhiên sản lượng vàng khai thác của thế giới trong giai đoạn nay tăng
còn do vào những năm 20 của thế kỷ 19, Nga bắt tay vào khai thác các mỏ
vàng ở dãy núi Uran và ở vùng Xiberi làm cho phần vàng của Nga trong tổng
lượng vàng khai thác của thế giới cứ tăng dần. Ví dụ, trong giai đoạn 18211830 chiếm 23%, năm 1840 chiếm 35%, ở thời gian 1841-1850 chiếm 40%.
Trong 10 năm này (1841-1850) Nga sản xuất được 225 tấn vàng do đó đã

đưa Nga lên địa vị hàng đầu thế giới về sản lượng khai thác vàng trong suốt
30 năm ở nửa đầu thế kỷ 19 (1820-1850) (11) sau đó là Mỹ.
Trong suốt thời gian 1848-1850, Mỹ đưa vào khai thác mỏ vàng lớn ở
California và Alaska, sau đó là Ôxtrâylia bắt đầu khai thác các mỏ vàng
lớn của mình do vậy đã góp phần nâng sản lượng vàng của thế giới tăng
lên và bình quân hàng năm trong thời gian 1851-1870 khai thác được 200
tấn/năm. Vào những năm 70 của thế kỷ 19, những mỏ vàng lớn của các
nước nói trên đã bị khai thác cạn dần, làm cho sản lượng vàng thế giới
trong thời gian 1886-1890 giảm xuống còn 169 tấn/năm.
Nếu năm 1884, Nam Phi không đưa mỏ vàng Tranwan vào khai thác thì
chắc chắn sản lượng vàng của thế giới ở giai đoạn này còn tụt xuống nữa.
Vì rằng chỉ sau 15 năm đưa mỏ vàng ấy vào khai thác, sản lượng vàng của
Nam Phi đã lên tới 115 tấn vào năm 1890 so với 75kg ở trước năm 1884.
Từ đó, Nam Phi cung cấp cho thế giới ngày càng nhiều vàng hơn, cho tới
năm 1905 thì dành địa vị hàng đầu về sản xuất vàng của thế giới, đẩy Mỹ
xuống hàng thứ 2.
Nhờ vậy, trong 15 năm đầu của thế kỷ 20, sản lượng vàng của thế giới


12

lại bắt đầu tăng, từ 395 tấn ở năm 1901 lên 711 tấn ở năm 1915-trên 80%
số vàng là của Nam Phi.
Về sau, do ảnh hưởng của thế chiến thứ I (1914-1918) nên sản lượng
vàng của thế giới lại tụt dần và tụt xuống mức thấp nhất vào năm 1922- chỉ
đạt 476tấn.
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933), do giá các loại
hàng hóa giảm, giá vàng tăng cho nên lại dấy lên làn sóng tìm kiếm và khai
thác vàng rầm rộ khắp mọi nơi. Nếu như các ngành công nghiệp khác bị đình
đốn, sản xuất bị suy giảm thì trái lại , các công ty khai thác vàng khắp năm

châu đều tiếp tục mở rộng diện khai thác vàng. Do vậy, tới năm 1940, sản
lượng vàng của thế giới tư bản chủ nghĩa lại đạt mức kỷ lục mới 1165 tấn, để
rồi trong thế chiến thứ II lại tụt dần- chỉ còn 656 tấn vào năm 1945, thấp hơn
cả ở đầu thế chiến thứ I (711 tấn), nghĩa là giữa đầu và cuối thế chiến thứ IIsản lượng vàng khai thác của thế giới chênh nhau 407 tấn.
Đầu những năm 50 của thế kỷ 20, nhờ khám phá và khai thác nhiều mỏ
vàng ở các nước, đặc biệt là ở Nam Phi, nên đã góp phần phục hưng ngành
công nghiệp vàng, nhưng trong đó lớn nhất là Nam Phi (63%), sau đó là
Canada (13,6%) rồi đến Mỹ (4,1%) và Ôxtrâylia (3,2%)… (xem bảng 2)
Năm 1939
Năm 1950
Sản lượng % so với Sản

Năm 1960
% so với Sản lượng % so với

Nam Phi

(tấn)
398,8

tổng số
37,2

lượng (tấn)
364,1

tổng số
48,5

(tấn)

665,1

tổng số
63,1

Canada

159,0

14,8

138,1

18,4

143,1

13,6

Mỹ

143,7

13,4

71,2

9,5

46,7


4,4

51,2

4,8

27,0

3,6

34,2

3,2

315,3
1072,0

29,8
100

150,6
751,0

20
100

164,9
1054,0


15,7
100

Tên nước

Ôxtrâylia
Các nước khác
Tổng số

Nguồn bảng 2:Xem “từ điển tài chính tín dụng”-Liên xô-M-Tài chính
1961, trang 439-Tiếng Nga.
Sau năm 1966, sản lượng vàng khai thác được hàng năm của thế giới
đã tụt dần. Còn Nam Phi, nước hàng năm cung cấp cho thế giới rất nhiều


13

vng thỡ sau khi t mc k lc 1000,4 tn vo nm 1970, cng tt dn. S
d gim nh vy ch yu l do nhng m vng ln cỏc nc M,
Canada, Nam Phi, ễxtrõylia ngy cng cn kit, khú khai thỏc. Vớ d, nu
trc nm 1970 bỡnh quõn mi tn qung Nam Phi cho 13,3gr vng, thỡ
sau ú ch cho 7,3gr ri n thp niờn 90 ch cho 5gr vng. Do vy, mc
dự sn lng vng mi khai thỏc cỏc nc khỏc bt u tng lờn, nhng
vn cha bự li c mc gim sỳt ca cỏc cng quc truyn thng v
vng (xem bng 3).
Tên nớc
Th gii TBCN
Trong ú:
Nam Phi
Canada

M
ễxtrõylia
Brazil
Philippin
Papua Niughinờ
Cỏc nc khỏc

Năm
1970
1273,1

1975
952,9

1980
946,3

% so với tổng số
1970
1975
100,0
100,0

1980
100,0

1000,4
74,9
34,2
19,5

9,0
18,7
0,7
96,0

713,4
51,4
32,4
16,3
12,5
16,1
17,9
92,9

675,1
50,6
27,6
17,0
35,0
22,0
14,3
104,7

78,6
5,9
4,3
1,5
0,7
1,5
0,1

7,5

71,3
5,3
2,9
1,8
3,7
2,4
1,5
11,1

74,9
5,4
3,4
1,7
1,3
1,7
1,9
9,7

Nguồn bảng 3: Xem - "Từ điển tài chính thực dụng (LX cũ) - M: TCTK- 1984, trang
439, TNga.

Tính đến năm 1980, loài ngời đã lấy ra từ lòng đất đợc 93.000 tấn vàng121
ở Nam Phi, nớc gần trong 100 năm đứng đầu thế giới về sản xuất vàng hàng
năm đã cung cấp cho loài ngời trên 27.000 tấn vàng13. Và năm 1980 là năm
sản lợng vàng đạt mức thấp nhất sau thế chiến thứ II - chỉ đạt 946,3 tấn nghĩa
là thấp hơn 18% so với mức độ ở năm 1990 không hơn 26% so với năm 1966.
Sau đó, một mặt các cờng quốc vàng truyền thống áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào khai thác tách lọc vàng từ các mỏ vàng sâu trong lòng đất,

mặt khác, các nớc đang phát triển cũng đầu t mạnh vào thăm dò khai thác
vàng, nên đã nâng sản lợng vàng của thế giới lên, đặc biệt là từ năm 1985 trở
đi (xem bảng 4).
Sản lợng vàng của thế giới trong thời gian 1985-1989Bảng 4:
12

Xem- Vàng trong nền kinh tế t bản chủ nghĩa Mác: TCTK - 1984, trang 218, TNga

1
13

Xem nh 12, trang 226


14

Toàn TG TBCN
Nam Phi
Mỹ
Oxtraylia
Canada
Các nớc khác

Tấn
1985
1233
672
80
59
90

332

1987
1381
607
155
111
120
338

1988
1535
621
205
157
129
423

1989
1640
606
252
203
154
425

% so với tổng số
1985
1987
100

100
55
44
8,5
11
6,0
8
9,5
9
27,0
28

1988
100
40
13
10
9
28

1989
100
37
15
12
10
26

Nguồn bảng4: Xem TC nghiên cứu kinh tế - số 189 (năm 1993), trang 47.


Bớc vào thập niên 90 này, trên 70 nớc đang phát triển từ Đông á đến Tây
Phi đã sửa đổi luật khai thác mỏ theo hớng mở rộng quyền hạn và giảm thuế
để thu hút các nhà đầu t nớc ngoài. Năm 1990, Zimbabuê đã ban hành luật
khai thác vàng và cung cấp nhiều thông tin hấp dẫn đối với các nhà khai mỏ.
ở Châu á, ấn Độ, Srilanka, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Philipine...

cũng đã bỏ hạn ngạch xuất nhập khẩu không cho tự do buôn bán vàng.
Những biện pháp ấy, cùng với khả năng sinh lời của vàng đã trở thành
ma lực hấp dẫn khiến các công ty lớn, nhỏ ở các quốc gia đua nhau đầu t vào
khai thác vàng, làm cho sản lợng vàng của thế giới ở năm 1990 đã vợt mốc
2000 tấn, đạt 2023 tấn, tăng 946,3 lần so với năm 1980, sang 1991- lên tới
2661 tấn, năm 1992 đạt 2600 tấn, năm 1993 đạt 2552 tấn, năm 1994 đạt 2273
tấn và năm 1995 cũng xấp xỉ bằng ở năm 1994 14. Còn ở năm 1996- ớc tính đạt
2500 tấn và ở năm 1997 - có thể đạt 3000 tấn 15. Dự đoán này, có khả năng trở
thành hiện thực vì rằng năm 1997, nhiều dự án khai thác vàng ở Mỹ La Tinh
và Châu á đa vào hoạt động. Chẳng hạn, ở năm 1995, Mêhicô có 19 dự án dự
kiến khai thác khoảng 870 tấn vàng. Hiện nay, nớc này đứng đầu về lợng dự
trữ vàng trong khu vực, Achentina có 5 dự án, dự kiến khai thác khoảng 530
tấn vàng, Vênêruêla có 9 dự án, dự kiến khai thác khoảng 466 tấn vàng, Chilê
có 8 dự án, dự kiến khai thác khoảng trên 280 tấn vàng...
Trung Quốc dự kiến từ 1996 đến 2000 sẽ khai thác 617 tấn vàng, mỗi
năm tăng 7%.
Oxtraylia dự kiến từ 1996-2001 mỗi năm khai thác khoảng 360 tấn vàng
so với 253 tấn ở năm 1995.
14

Xem nhu cầu vàng TG ở năm 1995 - Thời báo Ngân hàng- 5/3/1996 và Vàng trên TG tạp chí Thơng mại số
5/96, tr. 26.
15
Xem: Thị trờng TG - TC thị trờng giá cả số 7 năm 1996, tr. 86.



15

Nga, Trung Quốc, Brazin, Uzơbêkistan, Papua Niughinê, Indonesia bấy
lâu nay cũng thuộc diện các quốc gia có nhiều đóng góp cho sản lợng vàng thế
giới tăng trởng. (xem bảng 5).
Bảng 5: Sản lợng vàng mới khai thác của thế giới trong thời gian
1990-1999.
Tên nớc

1990

1995

1996

1997

1998

1999

Nam Phi
Mỹ
Oxtraylia
Canada
Trung Quốc
Indonesia
Nga (LX cũ)

Pêru
Udơbếch
Gana
Các nớc khác
Toàn thế giới

605
294
244
167
94
18
270
15
17
408
2132

522
319
254
150
133
74
142
57
67
53
503
2274


495
329
290
165
145
92
133
65
78
50
516
2358

492
362
313
172
140
102
138
75
82
56
540
2481

464
366
310

164
160
139
127
91
80
73
567
2541

450
342
303
158
156
155
138
127
80
78
583
2576

% so với
tổng số
17,5
13,3
11,7
6,1
6,05

6,01
5,34
4,9
3,4
3,1
22,6
100

Nghiên cứu kinh tế số 273 - Tháng 2/2003
Nguồn bảng 5: Xem thị trờng vàng thế giới hiệnnay- "Tài chính" - Nga,
số 2 năm 1996, tr. 55, ở năm 1995 - xem Nhu cầu vàng TG ở năm 1995- Thời
báo Ngân hàng số 3/1996.
Chơng II: Vàng trong đời sống kinh tế xã hội
1. Bản vị vàng.

Bản vị vàng là chế độ lấy vàng làm thớc đo giá trị của mọi hàng hoá
nghĩa là dùng vàng làm tiền, làm vật ngang giá chung. Trong lịch sử lu thông
tiền vàng hay các dấu hiệu giá trị đổi đợc lấy vàng, thì bản vị vàng gồm 2 loại:
song kim bản vị và đơn kim bản vị.
Song kim bản vị (bản vị kép) là chế độ tiền tệ dùng 2 kim loại quý giá là
vàng và bạc làm vật ngang giá chung. Trong lu thông, tiền bằng bạc và tiền
bằng vàng đều đợc coi là tiền pháp định, có quyền lực nh nhau không đợc thanh
toán không hạn chế. Cùng với sự phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng
hoá, sản lợng hàng hoá càng ngày càng tăng nhanh, tạo điều kiện cho nền nội
thơng và ngoại thơng phát triển, làm cho tiền bằng kim loại bạc dần dần không


16

đáp ứng đợc nhu cầu lu thông trên thị trờng, do vậy vàng huy động vào đúc tiền

bỏ vào lu thông. Đó là nguồn gốc của chế độ song kim bản vị.
Nhng song kim bản vị là hệ thống tiền tệ thiếu ổn định. Sở dĩ nh vậy là
do trong một quốc gia có 2 thứ tiền kim loại (vàng và bạc) đều đợc pháp luật
thừa nhận là vật ngang giá chung, nhng lại có 2 hệ thống tính giá cả, một bằng
vàng và một bằng bạc. Trong khi giá vàng tơng đối ổn định thì bạc ngày càng
bị xuống giá. Do vậy đã mâu thuẫn với bản chất của đồng tiền là hàng hoá đặc
biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung.
Tiền vàng và tiền bạc đợc Nhà nớc ấn định tỷ giá nhằm ổn định sức mua
của 2 loại tiền này. ấn định nh vậy đã đi ngợc với tác động tự phát của qui luật
giá trị, gây khó khăn, phức tạp cho việc tính giá cả hàng hoá bằng tiền vàng
hoặc tiền bạc. Hơn nữa, tỷ giá chính thức giữa tiền vàng và tiền bạc lại chậm
thay đổi, trong khi tỷ giá trên thị trờng của chúng lại thay đổi nhanh và ngày
càng thoát ly khỏi tỷ giá Nhà nớc ổn định, biểu hiện ở chỗ từ thời cổ đạ đến
thời trung cổ, nghĩa là trong thời gian 2 đồng tiền vàng và bạc đợc song song
lu hành, tơng quan giá trị của vàng và bạc trên thị trờng thờng dao động trong
phạm vi 1/10 - 1/12, đôi khi lên tới 1:16, nghĩa là bạc ngày càng bị xuống giá
so với vàng, dần dần nhờng địa vị kim loại quý hiếm cho vàng đến cuối thế
kỷ 19 thì bị loại ra khỏi bản vị tiền tệ, chỉ còn vàng độc tôn địa vị này. Từ đó
kết thúc chế độ song kim bản vị, chuyển sang chế độ đơn kim bản vị hay chế
độ bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng đợc chia ra thành 3 loại: bản vị tiền vàng, bản vị
vàng thoi và bản vị vàng giấy.
Nớc đầu tiên áp dụng bản vị tiền vàng là Anh - vào năm 1816, sau đó là
Đức - vào năm 1871, các nớc Thuỵ Điển, Nauy, Đan Mạch - vào năm 1873 1874, Mỹ 1873, Hà Lan 1875, Nhật và Nga - 1879, các nớc Mỹ Latinh vào
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 (16).
Hàm lợng vàng là cơ sở để thực hiện các khoản thanh toán quốc tế, để
định tỷ giá giữa các đồng tiền, cho nên các nớc dốc sức ổn định giá vàng và ổn
(16)

Xem: Từ điển "Tài chính tín dụng - M - TC Thống kê 1984, tr 442, TNga)



17

định giá trị đồng tiền. Đôi khi các nớc còn hợp tác cùng cứu nguy một đồng
tiền suy yếu để tránh rối loạn hệ thống tiền tệ quốc tế, nhng cũng có khi bất
lực, buộc các nớc phải điều chỉnh hàm lợng vàng đồng tiền của mình cho phù
hợp với thực trạng kinh tế - xã hội và sức mua của đồng tiền.
Theo chế độ kim bản vị (kể cả song kim và đơn kim), đồng tiền phát
hành dới dạng tiền đúc bằng kim loại phải có đủ hàm lợng vàng hoặc bạc nh
luật định. Nếu phát hành dới dạng tiền giấy thì phải có hàm lợng vàng hoặc
bạc tơng ứng với mệnh giá có đủ trữ kim bảo đảm việc chuyển đổi Vàng, Bạc
bất cứ khi nào có yêu cầu. Về nguyên tắc, tiền giấy có một chứng chỉ tiền
Vàng hạc Bạc. Tiền giấy thay thế đồng tiền kim loại ngày càng đợc phát hành
nhiều đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và trao đổi hàng
hoá theo hớng kinh tế thị trờng. Thế nhng các cơ sở phát hành, kểcả những tổ
chức đặt dới sự bảo trợ của Nhà nớc phong kiến lúc bấy giờ, đã sử dụng nhiều
mánh lối gian lận. Tiền đúc bị cắt xén bớt kim lợng vàng. Tiền giấy phát hành
thiếu trữ kim đã gây nên vụ bê bối điển hình ở Pháp vào năm 1720 đa đến sự
phá sản của Ngân hàng phát hành - Bangue Générale - và làm cho nền kinh tế
Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Tuy vậy cũng phải chờ đến mấy
thập kỷ sau, Công ty phát hành tiền tệ mới đợc tập trung vào một định chế duy
nhất của Nhà nớc là Ngân hàng Trung ơng (Anh: 1844, Pháp: 1848, Đức:
1875, Mỹ: 1913) (17).
Chế độ bản vị đồng tiền vàng tiếp tục tồn tại cho đến đầu thế kỷ XX.
Sau đại chiến thế giới thứ nhất, nền kinh tế các nớc tham chiến suy sụp, trữ
kim cạn kiệt, việc chuyển đổi tiền giấy thành vàng không còn khả năng thực
hiện trọn vẹn. Nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng trao đổi hàng hoá với nớc
ngoài, trong lúc dự trữ Vàng còn hạn hẹp sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế,
năm 1936 Pháp đi đầu ban hành chế độ "lu hành bắt buộc" đồng France ở

trong nớc. Lần lợt các nớc khác cũng đi theo con đờng đó. Cho nên đến khi
kết thúc đại chiến thế giới thứ hai, có thể nói hàm lợng Vàng của các đồng
tiền quốc gia chỉ còn ý nghĩa đối ngoại, làm cơ sở cho việc xác định tỷ giá hối
(17)

Xem: Quan hệ tiền - vàng - đô la - TTKH Ngân hàng số 1/94 tr22.


18

đoái chính thức giữa các đồng tiền trong quan hệ TTQT. Đối nội, ở trong nớc
đều chấm dứt việc chuyển đổi mọi loại tiền (tiền giấy, tiền đúc) lấy vàng.
ở Mỹ, sau cuộc đại khủng hoảng 1930 - 1933, ngày 31/1/1934, Tổng
thống Roosevelt cũng quyết định chấm dứt việc đúc tiền vàng lu hành trong nớc, đem số tiền vàng hiện có đúc lại thành vàng thoi và áp dụng chế độ chung
về bản vị vàng thoi.
Đặc điểm của chế độ bản vị vàng là:
- Tiền vàng đợc đúc tự do theo chuẩn mực vàng do Nhà nớc quy định.
- Tiền giấy đợc tự do đổi lấy vàng theo giá trị ấn định ****** đúng loại
tiền.
- Vàng là thớc đo giá trị, nhng bản thân vàng bạc không có giá, phải đo
bằng các loại hàng hoá khác.
- Vàng đợc tự do lu thông trong nội địa giữa các quốc gia.
Do vậy, bản vị vàng không chỉ là chế độ tiền tệ quốc gia mà còn là chế
độ tiền tệ quốc tế, thống nhất giữa nhiều nớc với nhau. Tiền nớc này dễ dàng
trả cho nớc kia và đợc tính theo đồng giá vàng hay kỳ phiếu ngân hàng đợc
đổi lấy vàng.
* Bản vị vàng thoi là sự biến tớng của bản vị tiền vàng, không thông
dụng trên thế giới, chỉ đợc áp dụng ởAnh vàon ăm 1925 và ở Pháp vào năm
1926 và lấy tiền bản xứ làm chuẩn mực.
ở Anh, ngân hàng đã đúc các thoi vàng nặng 400 ounce (1 ounce =

31,103gr) làm chuẩn (làm bản vị). Ngời dân muốn đổi đợc thoi vàng ấy thì
phải có đủ 1700 đồng sterling, còn ở Pháp, ai muốn đổi lấy thoi vàng chuẩn
(vàng bản vị) thì phải có 215 ngàn france. Do vậy bản vị vàng thoi là 1 chế độ
bất lợi cho đời sống kinh tế - xã hội, đã gây khó khăn cho việc luân chuyển
tiền thành vàng và ngợc lại, chỉ những ngời nhiều tiền mới đổi đợc một thỏi
vàng để cất giữ, làm báu vật dùng cho khi cần thiết. Bởi thế, bảnvị vàng thoi là
1 bớc thụt lùi so với chế độ bản vị tiền vàng.
Tuy nhiên, ở Anh chỉ sau vài năm chế độ bản vị vàng thoi ra đời, những
ngời giàu có ở bản xứ và ở nớc ngoài đã tung tiền ra mua vàng của Anh, làm


19

cho kho vàng của Anh nhanh chóng bị cạn kiện khiến ngày 21/9/1931, chính
phủ Anh đã phải phá giá 33% giá trị đồng sterling và đình chỉ việc đổi đồng
sterling lấy vàng, chấp nhận sự phá sản của chế độ bản vị vàng thoi.
Còn chế độ bản vị tiền vàng trên thế giới đã bị sụp đổ hoàn toàn trong
thời gian khủng hoảng KTTG (1929 - 1933): Nhật và Anh vào năm 1931; Mỹ
- 1933; Bỉ và ý - 1935; Pháp - Hà Lan và Thuỵ Sỹ năm 1936.(18)
Bản vị vàng giấy là chế độ bản vị vàng chỉ có trên sổ sách của IMF trên
thực tế không có tiền, không có vàng chuyển giao giữa các bên liên quan. Nó
chính là khái niệm để chỉ quyền rót vốn đặc biệt (SDR) ra đời vào năm 1970,
nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán của các nớc thành viên IMF.
SPR không phải là tiền thật, nên không có hình dáng, màu sắc. Nó chỉ là
đơn vị thanh toán quy ớc để ghi sổ. Trên danh nghĩa, hàm lợng vàng của SDR
là 0,888671gr. IMF mở sổ riêng để theo dõi lợng SDR phân cho từng nớc. Do
vậy, SDR chỉ là phơng tiện thanh toán quốc tế theo dõi ghi sổ, chuyển khoản
giữa các nớc có quan hệ thanh toán trong cán cân TTQT, còn "tiền" ở đây chỉ
là tiền tởng tợng, tiền ghi trong sổ sách của IMF.
2. Dự trữ vàng trên thế giới.

Trên thế giới, vàng dự trữ của nhà nớc thờng nằm dới dạng thoi, vàng
nén hay tiền vàng và thuộc quyền quản lý, chi phối của các tổ chức và cơ quan
của Nhà nớc. Trớc khi vàng mất chức năng bản vị tiền tệ thì dự trữ vàng của
Nhà nớc đợc coi nh dự trữ tiền tệ thế giới và là bảo đảm cho lu thông tiền tệ
trong nớc. Từ khi vàng không còn chức năng này nữa thì dự trữ vàng của Nhà
nớc chỉ còn đóng vai trò chính trong thanh toán quốc tế và có thể dùng để bổ
sung cho dự trữ ngoại tệ.
Trong thời gian dài, khi vàng đợc dùng làm bản vị tiền tệ thì dự trữ vàng
chính thức của Nhà nớc tăng lên cả về số tuyệt đối (về tổng lợng vàng tập
trung vào kho Nhà nớc) lẫn về số tơng đối (về phần của Nhà nớc trong tổng lợng vàng dự trữ trong nèn KTQD). Nhng sau khi vàng mấtchức năng bản vị
tiền tệ thì xảy ra khuynh hớng ngợc lại, vàng của Nhà nớc giảm cả về mặt t(18)

Xem - Từ điển "TC Tín dụng" "(LX cũ) - M - Tài chính quốc gia" - 1961, tr 442.


20

ơng đối và tuyệt đối, còn vàng tiêu dùng và tích luỹ trong khu vực t nhân lại
tăng lên. ở đây, chẳng những lợng vàng mới khai thác mà còn một phần vàng
dự trữ của Nhà nớc đợc chuyển sang tay t nhân. Trong tài liệu thống kê của
thế giới, ngời ta phân dự trữ vàng của thế giới ra thành 2 nhóm: dự trữ của Nhà
nớc và dự trữ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế - nh Quỹ tiền tệ quốc tế
(ISB - ở Bazel, Thuỵ Sĩ). [Vàng góp vào làm quỹ dự trữ của các tổ chức này là
thuộc sở hữu riêng hay tập thể các nớc góp quỹ].
Trớc năm 1978, khi mà vàng còn đợc dùng làm thớc đo chung của tiền
tệ quốc tế, thì quỹ dự trữ vàng của IMF gồm số vàng đóng góp bắt buộc của
các nớc hội viên, sau năm đó các nớc hội viên mới không phải góp hội phí
bằng vàng cho IMF. Còn dự trữ vàng của IMF lúc đầu cũng gồm vàng đóng
góp của các nớc hội viên, sau đó đợc bổ sung bằng chính nghiệp vụ vàng của
ISB. Giống nh dự trữ vàng của IMF, dự trữ vàng của ISB là thuộc sở hữu của các

cổ đông, không đợc tính vào dự trữ vàng quốc gia của nớc góp quỹ.
Ngợc lại, vàng do các nớc thành viên góp vào EMI với mức bằng 20% lợng dự trữ ngoại tệ, chính thức chỉ tách khối lợng vàng dự trữ của quốc gia
một cách hình thức, còn thực tế vẫn thuộc sở hữu riêng của nớc này. ở đây chỉ
làm thủ tục giấy tờ chuyển hoán vàng dới dạng "snap" (hoán vị sổ sách của
vàng). Nhng do dự trữ ngoại tệ của các nớc luôn thay đổi, cho nên cứ ba tháng
phải tính lại lợng vàng các nớc hội viên phải chuyển cho quỹ dự trữ vàng của
EMI với mức bằng 20%. Lợng dự trữ ngoại tệ chính thức (của các nớc hội
viên) để đảm bảo cho lợng tiền (ECU) do Viện này phát hành (xem bảng 6).
Bảng 6: Dự trữ vàng của các nớc và các tổ chức kinh tế
(1000 tấn ở cuối kỳ)
Năm
Dự trữ vàng
- Của các nớc
- Của các tổ chức quốc tế
Trong đó:
+ Của IMF
+ Của EMI
+ Của BIS

1980

1990

1995

1999

29,7
6,1


29,2
6,4

28
6,4

27,2
6,3

3,2
2,7
0,2

3,2
2,9
0,3

3,2
2,9
0,3

3,2
2,9
0,2


21

- Của thế giới


35,8
35,6
34,4
(Nguồn bảng 6: Gold Survey 2000)

39,5

Tổng dự trữ vàng chính thức của tất cả các tổ chức tiền tệ đến tháng
8/1999 là 1.081 triệu 0Z (khoảng 34 ngàn tấn) tơng đơng với 300 tỷ USD (tính
theo giá 280 USD/OZ), một con số đáng kể bằng sản lợng vàng của thế giới
trong khoảng 30 năm. Trong đó dự trữ của các nớc công nghiệp phát triển là
790 triệu OZ tơng đơng với 221 tỷ USD. So sánh với dự trữ chính thức không
phải vàng, các con số này chiếm 3% - 5%. Đây là nguồn dự trữ khá quan
trọng của các Ngân hàng trung ơng. Tuy nhiên, đối với từng nớc, tỷ lệ vàng
trong dự trữ chính thức khác nhau và bản thân mỗi nớc cũng đánh giá giá trị
của số vàng dự trữ một khác.
Bảng 8: Dự trữ vàng của các cơ quan tiền tệ tính đến cuối năm 1999

Quốc gia
Mỹ
Đức
Pháp
Thuỵ Sĩ
ý
Hà Lan
Nhật Bản
Anh
Bồ Đào Nha
Tây Ban Nha
Nga

Trung Quốc
ấn Độ
IMF

Vàng (tấn)

Tỷ USD(1)

Tỷ USD (2)

8,139
11,02
75,95
3,469
32,14
32,37
3,024
28,28
28,22
2,590
7,46
24,17
2,452
22,88
22,88
982
9,18
9,16
754
1,16

7,03
715
5,08
6,67
607
5,67
5,66
523
4,90
4,88
414
4,00
3,87
395
0,61
3,69
358
2,40
3,34
3,217
5,02
31,00
(Nguồn : Gold Suney 2000)

Dự trữ khác
(tỷ USD)
60,50
51,04
39,70
36,32

22,43
10,21
286,92
29,30
8,32
32,57
8,46
157,73
32,67

Nói chung, tính đến cuối năm 1999, giá trị vàng dự trữ chính thức của
thế giới thấp hơn 3 lần so với dự trữ ngoại tệ (là 260 tỷ USD so vơí 786 tỷ
USD). Chỉ có Mỹ, Pháp, Đức giá trị vàng dự trữ tính theo giá thị trờng là cao
hơn dự trữ ngoại tệ. ở Thuỵ Sỹ, dự trữ vàng ngang với dự trữ ngoại tệ.
(1)
(2)

Định giá quốc gia
Định giá thị trờng


22

Hiện nay, thực chất mỗi nớc đều chọn cho mình một cách xác định giá
trị vàng dự trữ quốc gia riêng hoặc dựa vào cách đánh giá chính thức cũ hoặc
dựa vào giá cả vàng hình thành trên thị trờng.
Trong số các nớc công nghiệp phát triển hàng đầu thì vàng dự trữ quốc
gia ở Mỹ, Đức, Thuỵ Sĩ, Nhật, Canada vẫn đợc tính theo giá ổn định. IMF
cũng tính vàng dự trữ theo giá ổn định trong bảng tổng kết tài sản của mình.
Những nớc tính lại vàng dự trữ theo giá thị trờng gồm: Pháp, ý, Tây Ban

Nha Vàng các nớc ký góp vào EMI cũng đợc tính lại theo giá thị trờng
Anh, ấn Độ, Phần Lan cũng xác định vàng của mình theo giá thị trờng có điều
chỉnh.
Vàng dự trữ đợc xác định theo giá ổn định hay theo giá thấp hơn giá thị
trờng đều có ý nghĩa nhất định: làm cho giá vàng trong bảng cân đối của cơ
quan gửi vàng không ít bị thay đổi so với giá thị trờng; khi bán vàng có thể
tính đợc lợi nhuận bổ sung nộp ngân sách nhà nớc. ở đây chênh lệch tiềm
năng giữa giá thấp (giá quốc gia) và giá thị trờng thực tế là rất lớn.
Ngày nay, đa số các nớc đánh giá vàng dự trữ của mình theo giá thị trờng, làm cho trị giá vàng dự trữ của mình thấp hơn nhiều so với dự trữ ngoại tệ
hiện có.
Số vàng nắm giữ bởi các nớc khác nhau rất đa dạng cả về khối lợng và
tỷ lệ so với dự trữ ngoại hối. Cách đây 20 năm vàng dự trữ là một con số dự
đoán cho số vàng nắm giữa của các ngân hàng trung ơng ngày nay. Sự ổn định
đó đợc đánh dấu cụ thể bởi các nớc nắm giữ vàng lớn - bao gồm Mỹ, Đức,
Quỹ tiền tệ quốc tế và Pháp. Đã có nhiều nớc bán vàng với số lợng lớn, đáng
chú ý nhất là Argentina, Australia, Bỉ, Canada, Hà Lan, Thuỵ Sĩ và Anh. Cũng
có nhiều nớc xác định mua vàng, nớc mua nhiều nhất là Đài Loan, Ba Lan.
Những chênh lệch đó có thể giải thích đợc một phần theo cách trong đó dự trữ
đợc nhìn nhận nh là vấn đề của quốc gia, cách trong đó các quyết định về
chính sách dự trữ để thực hiện, và bằng khối lợng dự trữ rất lớn so với lợng sản
xuất vàng tiêu thụ cơ bản.


23

Với khối lợng vàng dự trữ tơng đối lớn so với mức tiêu thụ, khả năng
thay đổi về chính sách đã có ảnh hởng khá lớn đến giá vàng. Sự lo ngại về việc
bán vàng của khu vực chính thức đợc xem là một nhân tố chủ yếu sau sự suy
giảm giá vàng từ cuối năm 1996 - những lo ngại gây ra bởi lòng tin rằng đã có
một số ít nớc bán vàng. Năm 1999, hành động bán vàng của Anh cộng với khả

năng bán vàng tiếp theo của các thành phần khác của khu vực chính thức đã đợc coi là nhân tố chủ yếu đứng sau sự suy giảm đặc biệt nghiêm trọng của giá
vàng, mức giá rới xuống 252/OZ vào tháng 8/1999.
Về mặt lịch sử, dự trù vàng quốc gia ở các nớc đều đợc tập trung trong
kho bảo quản kim loại quý hiếm của ngân hàng trung ơng dùng để phục vụ
cho lu thông tiền tệ trong nớc và thanh toán quốc tế. Mặc dù ngày nay các
chức năng này không còn nữa nhng dự trữ vàng ở đa số nớc vẫn nằm trong
bảng tổng kết tài sản, dới sự quản lý của ngân hàng trung ơng theo truyền
thống, trừ một số nớc ví dụ Mỹ, toàn bộ dự trữ vàng quốc gia đều thuộc quyền
chi phối của kho bạc thuộc cơ quan tài chính. ở Anh cũng vậy, kho bạc nhà nớc nắm toàn bộ dự trữ vàng, còn ngân hàng chỉ làm nghiệp vụ kỹ thuật theo sự
uỷ quyền của kho bạc. ở một số nớc bên cạnh dự trữ vàng chính thức ở ngân
hàng trung ơng còn có vàng dự trữ ở các cơ quan khác.
Do thực hiện các biện pháp phi chuẩn mực hoá tiền tệ bằng vàng cho
nên phạm vi sử dụng vàng chính thức bị co lại rõ rệt. Cùng với nghị quyết của
IMF dùng đồng tiền SOR làm chuẩn mực thay vàng, nhng thoả thuận của các
cờng quốc cầm Nhà nớc mua vàng mới khai thác, không thực hiện các hợp
đồng có vàng để điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế đã làm cho các cờng
quốc vàng nh Đức, ý, Pháp và Thuỵ Sĩ ngừng các nghiệp vụ giao tiếp có vàng
quốc gia. Do vậy, vàng dự trữ quốc gia trong nhiều năm bị nằm "chết" trong
kho.
Trong thời gian 1975 - 1979, Mỹ đã bán đấu giá 1 phần vàng dự trữ của
mình, phần còn lại dùng để đúc tiền, sau đó lại đem bán. Anh, Nhật và
Oxtraylia cũng dùng cách đúc tiền để bán số vàng dự trữ nằm chết trong kho.


24

Các cờng quốc vàng trong số các nớc đang phát triển đặc biệt là các nớc
nhỏ, từ đầu đã cha có các thoả thuận loại dự trữ vàng ra khỏi lu thông quốc tế,
bởi vậy, phạm vi sử dụng các hợp đồng dùng vàng nhà nớc vẫn rộng. Ngoài
việc đúc tiền vàng, ngời ta còn mua bán vàng tại thị trờng trong nớc và quốc

tế, kể cả để bổ sung cho dự trữ vàng quốc gia, nếu khả năng ngoại tệ cho phép
làm nh vậy, thực hiện các nghiệp vụ "snap" (đổi ngoại tệ lấy vàng). Trên thực
tế, các ngân hàng trung ơng thờng dùng vàng dự trù quốc gia đem bán trên các
thị trờng dới dạng "ký gửi vàng" lãi suất thấp và thanh toán bằng vàng.
Để vàng nằm chết lâu ngày trong kho, liên quan đến tài chính, là hoàn
toàn bất lợi. Do đó, nhà nớc phơng Tây quyết định bán vàng dự trữ quốc gia
theo giá thị trờng tự do. Ví dụ, tính đến đầu năm 2000, kho vàng dự trữ quốc
gia của Canada bị giảm nhiều nhất so với mức dự trữ tối đa, giảm 12 lần còn
637 tấn vàng. Hà Lan giảm 1,7 lần còn 982 tấn vàng, Bỉ giảm 5 lần còn 1057
tấn; tiếp theo Austria giảm 1,6 lần còn 249 tấn.
ở Tây Âu, do thơng mại hoá vàng dự trữ quốc gia cho nên đã làm xuất
hiện 2 sự kiện mới trong cơ chế hoạt động cuả vàng. Thứ nhất, một lợng vàng
lớn thuộc sở hữu của nhiều quốc gia Châu Âu nhng lại đợc giữ bảo quản ở kho
vàng Mỹ. Theo thống kê hiện có đến cuối năm 1999, Ngân hàng dự trữ liên
bang Mỹ cất giữ khoảng 10.000 tấn trong đó Mỹ có khoảng 8139 tấn vàng.
Thứ hai, do xuất vàng khỏi kho của Mỹ, nên xuất hiện các nghiệp vụ phụ ở
kho giữ vàng vì phải cắt vàng thỏi mẫu thành nhiều thỏi nhỏ để đem bán theo
yêu cầu của ngời gửivàng. Nếu những ngời mới gửi vàng vào Mỹ có nhu cầu
chuyển vàng về Châu Âu thì tiếp tục đúc thành từng thỏi. Các nghiệp vụ cắt ra
và đúc lại nh vậy thì phải trả dịch vụ phí, còn gửi vàng Mỹ giữ hộ thì không
phải trả chi phí bảo quản.
3. Thị trờng vàng thế giới trong thời gian qua.
3.1. Cung và cầu vàng trên thế giới
Từ lâu, vàng đã trở thành thứ kim loại quý hiếm vì lợng vàng khai thác
đợc từ xa xa đến nay không nhiều, nhng vàng ngày càng đợc sử dụng nhiều


25

trong đời sống kinh tế - xã hội, nh trong công nghiệp chính xác kim hoàn,

trong ngành kinh tế. Nhà nớc dùng vàng làm tài sản đảm bảo giá trị đồng tiền
và ổn định nền kinh tế; t nhân dùng vàng làm đồ trang sức, vật lu niệm, vừa
làm của tiết kiệm để dành.
Đặc biệt ngày nay khi công nghiệp chính xác, điện tử, vi tính càng phát
triển thì lợng vàng dùng cho lĩnh vực công nghiệp ngày càng cao. Ví dụ trên
các vệ tinh và con tàu vũ trụ chỉ cần bọc một lớp vàng 1/600.000cm là đủ để
chống lại bức xạ hồng ngoại trong vũ trụ. Để bảo vệ khỏi các tác động bên
ngoài, và để quan sát đợc dễ dàng. Trên các con tàu của Mỹ ngời ta bọc một
lớp vàng. Ngoài ra một số thiết bị bên trong cũng đợc bọc một lớp vàng để
chống quá nóng và chống rỉ.
3.1.1. Cung vàng trên thế giới.
Lợng vàng dùng cho sản xuất, đời sống do các nguồn sau đây cung cấp:
vàng mới khai thác ở các quốc gia phơng Tây (Mỹ, Nam Phi, Canada, úc,
Brazin) và ở các nớc phơng Đông đem bán (Nga, Trung Quốc, Mông Cổ,
Bắc Triều Tiên, Inđônêxia, Philipin). Vàng tái sinh, vàng dự trữ quốc gia và
dự trữ t nhân đem bán, vàng từ những nguồn khác. Vàng mới khai thác của thế
giới đa vào lu thông làm tăng lợng vàng hiện có trên thị trờng, còn các lợng
vàng khác là vàng vốn có chỉ làm thay đổi quyền sở hữu, không làm tăng lợng
vàng hiện có, nhng nói chung nhờ có nó nên cung và cầu vàng trên thế giới
trong thời gian qua gần nh là cân bằng.
Cung và cầu vàng vật chất từ 1990 - 1999
ĐVT: (tấn / 1 năm, tính trung bình)
Cầu
Cung
Chế tác
3.287
Khai thác mỏ
Vàng vụn
630
Bán từ khu vực chính thức

2.657
Dự phòng sản xuất ròng
Dự trữ vàng
235
Huỷ bỏ đầu t ròng
Tổng số
2.892
(Nguồn: Gold Fields Mineral Sercices L.td)

2.332
309
238
13
2.892

Các con số cho thấy nhu cầu chế tác, ớc tính khoảng 3.278 tấn 1 năm
trong thập kỷ qua, đã vợt xa nguồn cung khai thác mỏ mới là 2.332 tấn/ 1năm.


×