Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Lý luận chung về sự phát triển của yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.46 KB, 23 trang )

1

Chương I: Lý luận chung về sự phát triền của yếu tố hàng hoá trong thực
tiễn nền kinh tế thị trường của nước ta
Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí vai trò đặc biệt quan trọng
của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong quá trình phát triển kinh tế,và
phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thế
giới đang ngày càng trở thành một thị trường thống nhất lôi cuốn tất cả các
nước chuyển sang kinh tế thị trường và gia nhập vào thị trường quốc tế. Do
đó, hoà với sự phát triển của kinh tế thị trường trên thế giới thì kinh tế thị
trường ở Việt Nam cũng phát triển với một tốc độ không kém cùng với sự
phát triển của nền sản xuất thể hiện qua việc thế giới hàng hoá ngày càng
phong phú, đa dạng , tính chất của hàng hoá ngày càng phức tạp.Vậy, để hiểu
hơn về “ sự phát triển của yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế thị trường qua
thực tiễn kinh tế nước ta” diễn ra như thế nào chúng ta hãy cùng nhau xem
những phân tích dưới đây:
 Lý luận chung về sự phát triển của yếu tố hàng hoá trong nền
kinh tế thị trường:
I. Khái niệm hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
1. Khái niệm hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người, và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá ccó
hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
2. Hai thuộc tính của hàng hoá
2.1 Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoã mãn nhu cầu
nào đó của con người. Chính công dụng của vật phẩm làm cho nó trở thành
một giá trị sử dụng. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, càng phát hiện ra


2



nhiều thuộc tính tự nhiên của vật chất do đó ccàng tạo ra nhiều loại giá trị sử
dụng hơn để đáp ứng nhu cầu xã hội.
2.2 Giá trị
Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao
đổi, cho nên, đẻ hiểu giá trị phải bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là
quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa giá trị sử dụng của loại hàng hoá này với giá trị
sử dụng của loại hàng hoá khác.
Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc
Tóm lại: hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị và giá
trị sử dụng. Nhưng đó là sự thống nhấ của hai mặt đối lập thể hiện ở chỗ: đối
với người sản xuất hàng hoá, mucc dích của họ là giá trị, họ chú ý đến giá trị
sử dụng cũng chính là dể đạt mục đích giá trị. Ngược lại, đối với người mua,
mục đích lại là giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá
trị cho người sản xuất ra nó. (1 trang 40)
II. Lưọng giá trị hàng hoá
1. Thời gian lao dộng xã hội cần thiết:
Thời gian lao đông xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ kỹ
thuật công nghệ trung bình, trình độ quản lý trung bình, trình độ chuyên môn
tay nghề trung bình và cường độ lao động trung bình
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá:
thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, do đó
lượng giá trị xã hội của hàng hoá cũng luôn thay đổi. Lượng giá trị xã hội của
một đơn vị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội và tỷ
lệ thuận với lượng lao động xã hội hao phí. (1 trang 45)


3


III. Các quy luật ảnh hưởng đến yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế
thị trường( KTTT)
1. Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa cácc chủ thể tham gia
sản xuất, kinh doanh với nhau, nhằm giành những điều thuận lợi trong sản
xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá, dich vụ để thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình.cạnh tranh sẽ giúp thúc đẩy sxuất phát triển mạnh mẽ.Tuy nhiên,
cạnh tranh cũng có mặt trái của nó, đó là tình trạng làm hàng giả, đầu cơ, trốn
thuế….
2. Quy luật cung - cầu và giá cả thị trường
Cung - cầu thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường độc lập với ý chí
con người. Cầu xác định lưọng cung và ngược lại cung xác định lượng
cầu.Quan hệ cung -cầu tác động lên giá cả và ngược lại, giá cả tác động lên
cung -cầu.
Trong nền KTTT, giá cả thị trượng là hình thức biểu hiện sự hoạt động của
quy luật giá trị.giá cả thị trường được hiểu theo nhiều quan niệm sau:giá cả là
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả là tương quan tỷ lệ giữa hàng
hoá và tiền tệ. Giá cả là số tiền mà người mua phải trả cho người bán. (1 trang
60, 61)
IV. Tác dụng to lớn của sự phát triển yếu tố HH trong nền kinh tế
thị trường
Sự phát triển của yếu tố hàng hoá(YTHH) trong nền kinh tế thị trường có tác
dụng tích cực đến các mặt :
- Một là, sự phát triển của HH sẽ tạo ra nhiều loại HH trên thị trường
với đủ chủng loại, mẫu mã được cải tiến,chất lượng được nâng cao, cũng như
tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Điều này giúp cho sản phẩm HH của
nước ta có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài.


4


- Hai là, phát triển HH tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Do cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng hóa ,buộc mỗi chủ thể sản
xuất phải cải tiến kỹ thuật,áp dụng công nghệ mới, không ngừng sang tạo đẻ
tạo ra nhiều loại sản phẩm với chi phí sản xuất tố thiểu nhòe đó mới có thể
đứng vững được trên thị trường. quá trình đó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
- Ba là, sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất cũng
phát triển sâu rộng hơn cùng với sự phát triển của hàng hóa. HH trong khu
vực nào càng đa dạng, chất lượng tốt, thì một điều chắc chắn rằng ở khu vực
đó có sự phâen công lao động và chuyên môn hóa sản xuất cao.
- Bốn là, về mặt khách quan HH được phát triển mạnh cả về chất và
lượng sẽ giúp cho người tiêu dùng có được nhiều sự lựa chọn hơn. Trong khi
xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu của con người cần được thỏa mãn nhu
cầu mua sắm, vật chất ngày càng cao. Do đó, việc phát triển HH là tính tất
yếu trong một xã hội phát triển.
V. Tính tất yếu của sự phát triển yếu tố HH trong nền KTTT
trong thực tiễn kinh tế nước ta hiện nay
- Thứ nhất, nền KTTT nước ta hiện nay là nền KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa, một mặt vừa có những tính chất chung của nền KTTT. Mặt
khác, nó cũng có những đặc trưng bản chất như: nền KTTT gồm nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thực hiện phân phối theo
thu nhập lấy phân phối theo lao động là chủ yếu,vận hành nền kinh tế là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước….. Do đó, khi KTTT phát triển
theo đó là sự phát triển của kinh tế HH thì yếu tố HH trong nền kinh tế cũng
phải phát triển.
- Thứ hai, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO) cho nên tính cạnh tranh trên thị trường sẽ gắt gao hơn, HH



5

trên thị trường đa dạng, phong phú về chất lượng, giá cả, nguồn gốc. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì trong những năm sắp tới thị trường
HH Việt Nam sẽ có những biến động lớn đặc biệt là sự tăng vọt khối lượng
HH trên thị trường hàng công nghiệp và dịch vụ.
- Thứ ba, do đòi hỏi khách quan của chi tiêu tiêu dùng xã hội khi mà
thu nhập khả dụng không ngừng tăng, đã kéo theo sự cần thiết phải tăng chi
mua HH. Vì vậy, HH phát triển phát triển là điều tất yếu để thỏa mãn mọi nhu
cầu trong xã hội.
Chương II: Thực trạng của sự phát triển hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường nước ta hiện nay.
I. Thực trạng của sự phát triển hàng hoá
Một câu hỏi được đặt ra là: “ Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế
giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy?” Có
nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa
thật sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nông, thủy sản
làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn
lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, đòi hỏi rất cao về chất
lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn,
hiện đại thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc
hậu. Chúng ta sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây
dựng những tổ hợp sản xuất, chế biến quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất
khẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy mô mọi thứ phải
lớn. Con đường đi lên sản xuất lớn của chúng ta hiện nay là con đường thị
trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế
gia đình, nhưng nếu biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu
của nền kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản



6

xuất, khoa học và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ
thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức
cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường
hiện đại.
Thực tế nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền
kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh
hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do hệ thống công cụ còn lạc
hậu, lao động thủ công còn nhiều cho nên chất lượng sản phẩm của hầu hết
các doanh nghiệp còn thấp kém, khả năng của nó trên thị trường quốc tế và
ngay cả thị trường trong nước còn kém.
Trước đây khi còn quan điểm không đúng: Đối lập chủ nghĩa xã hội với
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ( vì cho rằng kinh tế hàng hóa, kinh tế thị
trường gắn với chủ nghĩa tư bản) thì nhiều người nhận thức và hiểu rằng dưới
chủ nghĩa xã hội không còn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường mà nếu còn
tồn tại chỉ là một kiểu kinh tế hàng hóa đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là
hàng hóa còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa).
Muốn tiến lên CNXH phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất do đó CNXH tất yếu cũng không còn kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường.Như vậy mâu thuẫn với thực tế khách quan: CNXH vẫn sẽ còn
kinh tế hàng hóa ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu và tư liệu
sản xuất.
Ta có thể chia sự phát triển của yếu tố hàng hóa ra thành 2 giai đọan: Trước
đổi mới (1986) và Sau đổi mới để thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ ,rõ rệt của
yếu tố HH qua từng giai đoạn:
 Giai đọan trước 1986: Nền kinh tế VN theo mô hình kế hoạch hóa tập
trung, các đơn vị sản xuất, kinh doanh họat động theo những chỉ tiêu được
giao và những mệnh lệnh từ cấp trên. Trong giai đọan này này không có sự



7

phân biệt giữa quản lý nhà nước và quản lý các đơn vị kinh tế. Các đơn vị sản
xuất, kinh doanh rất ít quyền chủ động. Các nhà máy được cung cấp nguyên
vật liệu, vật tư kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm. Việc phân phối, tiêu thụ hàng
hóa do các đơn vị thương nghiệp thực hiện. Người tiêu dùng tiếp nhận hàng
hóa một cách thụ động không có quyền lựa chọn.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng ta luôn ở trong tình trạng khan
hiếm hàng hóa. Hàng hóa sản xuất ra bất kể xấu tốt thế nào đều tiêu thụ
hết.Hàng hóa xuất khẩu thường bị khiếu nại về chất lượng. Chủng loại, cơ cấu
hàng hóa ngày càng nghèo nàn. HH không được đổi mới cải tiến, lạc hậu thấp
kém so với HH ngoại. Tình trạng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã
hội.
 Giai đọan từ 1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối
đổi mới nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp được trao quyền
chủ động trong mọi họat động, xóa bỏ bao cấp. Các doanh nghiệp phải chấp
nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất lượng HH, dịch vụ trở thành vấn đề
quyết định. Do đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh không ngừng đưa ra thị
trường nhiều lọai HH với mẫu mã, chủng loại khác nhau và chất lượng ngày
càng nâng cao. Vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa sẽ tốt
hơn và người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn khi mua HH.
 Một số ví dụ so sánh tình hình phát triển HH thời kì trước và sau đổi
mới
Trước thời kì đổi mới (thời bao cấp) giáo dục không phải là hàng hóa người
ta thường bị dị ứng khi nghe các loại hình dịch vụ về giáo dục, nhìn chung khi
đó chỉ có khối hệ thống trường học của các trường công lập( trường do nhà
nước mở). Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, giáo dục cũng

bị tác dụng của quy luật cung cầu và nó cũng là một loại HH. Bên cạnh các


8

trường công lập, hiện nay hệ thống các trường dân lập (trường do tư nhân mở)
cũng phát triển không kém về chất lượng giảng dạy, số lượng học sinh. Đã có
rất nhiều dịch vụ về giáo dục được mở ra ở các trường dân lập nhằm thu hút
học sinh theo học và cạnh tranh thật sự với các trường công lập.
Hay như trong ví dụ về việc sử dụng tư liệu sản xuất của người nông dân:
Trước đây ,tư liệu sản xuất đều là của công thuộc quyền sở hữu của họ (ruộng
đất, hồ ao, các công trình thủy lợi, thủy điện, kể cả sức lao động) nhưng trong
nền KTHH nhiều thành phần nước ta hiện nay, thì các TLSX đó cũng được
trao đổi, mua bán như một loại HH. Rõ hơn nữa là ví dụ thực tế về việc sử
dụng đối với TLSX quan trọng như đất đai. Vào giai đoạn trước khi đổi mới,
đất đai được nhà nước khoán cho người dân canh tác với từng loại cây trồng
cụ thể dẫn đến năng suất cũng như phẩm chất đều kém. Trong giai đoạn hiện
nay, trước những tác động của cơ chế thị trường trong việc điều chỉng phân
bố lại tài nguyên đất trong nông nghiệp. Tác động của cơ chế cạnh tranh, các
thửa ruộng mới được những nông dân thích hợp canh tác dưới phương thức sử
dụng đất đai có lợi nhất cho đến nay thị trường đất đai ngoài phát triển trong
nông nghiệp thì nó còn phát triển một cách mạnh mẽ và hình thành một thị
trường HH rất sôi động đó là “ thị trường bất động sản”.
Đặc biệt, KTTT phát triển hiện nay đã tạo ra nhiều loại HH mà trước
thời kì đổi mới không có hoặc hầu như không phát triển nổi bật như chứng
khoán.Tuy còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với HH còn nghèo
nàn mặc dù chưa phát triển thành phong vũ nhưng nó dự báo một tương lai
rộng mở cho thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nước ta nói
chung.
 Dựa vào đặc điểm của từng loại HH và mục đích sử dụng chúng ta

có thể chia HH hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông,


9

lâm,thủy sản và hàng dịch vụ.Dưới đây là bảng số liệu về sản lượng 1 số sản
phẩm chủ yếu và chỉ tiêu cơ bản về sản xuất lúa thời kỳ 1990-2000.
Năm 1990
2,7

Năm 2000
16,5

tấn)

8,7

26,6

Điện (tỉ kwh)

4,6

10

Than sạch ( triệu tấn)

0,1

1,7


Thép cán ( triệu tấn)

2,5

13,4

Xi măng ( triệu tấn)

7,8

30

Sản lượng dầu thô (triệu

Giấy ( vạn tấn)
Nguồn: tổng cục thống kê: tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 1991- 2000
Diện tích ( triệu

Năng suất

Sản lượng

Lương thực

Gạo xuất

ha)

( tạ/ha)


lúa ( triệu

bình quân/

khẩu

người ( kg)
325

( triệu tấn)
1,6

1990

6,0

31,9

tấn)
19,2

1995

6,7

36,9

24,4


360

3,1

1998

7,36

39,6

29,1

385

3,8

1999

7,64

41,0

31,4

410

4,6

2000
7,78

42,5
32,0
Nguồn: niên giám thống kê ( 1999, 2000)

444

4,5

Diện tích
Tổng Chia ra
Lúa
số
Lúa
đông
hè thu
xuân
Nghìn ha

Lúa
mùa

Sản lượng
Chia ra
Tổng số Lúa
đông
xuân
Nghìn tấn

Lúa


Lúa

hè thu

mùa


10

6042,
1990

8
6302,

2073,6 1215,7 2753,5

19225,1 7865,6

4090,5

7269,

1991
1992
1993

8
2160,6 1382,1 2760,1
6475,3 2279,0 1448,6 2747,7

6559,4 2323,6 1549,1 2686,7

19621,9 6788,3
21590,4 9156,3
22836,5 9035,6
10508,

4715,8
4907,2
5633,1

8117,
7526,
8167,

1994
1995

6598,6 2381,4 1586,1 2631,1
6765,6 2421,3 1742,4 2601,9
7003,

23528,2 5
5679,4
24963,7 10736,6 6500,8

7340,
7726,

1996


8

2541,1 1984,2 2478,5
1885,

26396,7 12209,5 6878,5

7308,

1997
1998

7099,7 2682,7 2
2531,8
7362,7 2783,3 2140,6 2438,8
2888,

27523,9 13310,3 6637,8
29145,5 13559,5 7522,6
14103,

7575,
8063,

1999
2000

7653,6 9
2341,2 2423,5

7666,3 3013,2 2292,8 2360,3
2210,

31393,8 0
8758,3
32529,5 15571,2 8625,0
32108,

8532,
8333,

2001

7492,7 3056,9 8
3033,

4

15474,4 8328,4

8305,

2002

7504,3 0

34447,2 16719,6 9188,7
34568,

8538,


2003

7452,2 3022,9 0

8

8345,

2004
2005

7445,3 2978,5 2366,2 2100,6
7329,2 2942,1 2349,3 2037,8

2225,0

2293,7 2177,6
2320,
2109,3

Sơ bộ 2006 7324,4 2988,6 2323,3 2012,5

16822,7 9400,8
17078,

36148,9 0
10430,9 8640,
35832,9 17331,6 10436,2 8065,
35826,

8

17530,7 9714,5

Bảng trên cho thấy từ năm 1990- 2000, sản lượng công nghiệp Việt Nam tăng
mạnh, so với năm 1990 sản xuất dầu thô năm 2000 tăng gấp 6 lần, sản lượng
điện gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần .Trong khi
đó sản xuất nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến căn bản: diện tích

8581,


11

canh tác, năng suất lúa, sản lượng lương thực và sản lượng gạo xuất khẩu tăng
liên tục qua các năm.
Tuy nhiên, khi nói đến hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản
lượng thì HH của nước ta không thể đứng vững trên thị trường được, muốn
tồn tại và phát triển ta cần phải nâng cao chất lượng HH. Chất lượng chính là
sự đáp ứng yêu cầu của người sử dụng tức là HH sản xuất ra phải phù hợp với
mục đích và điều kiện sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Hiện nay chất
lượng được đánh giá thông qua ISO ( từ vựng chất lượng). Các chỉ tiêu đánh
giá chất lượng sẽ thay đổi qua các năm tùy vào sự phát triển của nền kinh tế.
Việc quản lý Nhà nước về quản lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ bao gồm :
- Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ, xây dựng kế hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các
chính sách khuyến khích chất lượng.
- Nhà nước quy định chế độ, thể lệ về quản lý chất lượng, ban hành tiêu
chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hóa,
dịch vụ.

- Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ về mặt chất
lượng, của các hệ thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất
lượng hàng hóa…bằng việc cấp đăng kí, chứng nhận và công nhận.
- Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra
Nhà nước về chất lượng hàng hóa và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng
hàng hóa, thiết lập trật tự kỉ cương trong lĩnh vực chất lượng hàng hóa, bảo vệ
lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng
Các vấn đề cụ thể về chất lượng HH, do các doanh nghiệp tự quản lý,
tự quyết định. HH lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam phải hợp pháp về mặt chất
lượng, việc sản xuất và buôn bán HH (kể cả xuất, nhập khẩu) phải thực hiện
những quy định về chất lượng HH của cơ quan quản lý Nhà nước về chất


12

lượng HH. Dưới đây là hình ảnh về một số hàng hóa có mặt trên thị trường
Việt Nam:

Hình ảnh các loại hàng hóa bán trong hệ thống siêu thị MAXIMAX

Hình ảnh sản phẩm rau quả nông nghiệp bán trong khu METRO
Biểu đồ một số HH như thuốc, thức ăn gia súc cao su, dầu thực vật….. năm
2006-2007


13

Quá trình hình thành nền KTT T định hướng XHCN ở Việt Nam gắn
liền với sự tác động của quá trình mở cửa ra thị trường thế giới và sự hòa
nhập với các nền KTTT. Vì vậy sự giao lưu về HH dịch vụ là một đòi hỏi của

nền kinh tế. Thông qua hoạt động ngoại thương HH được vận chuyển và lưu
thông ra nước ngoài được gia tăng. Do đó, HH xuất khẩu (XK) cũng có sự
biến đổi lớn về tất cả các mặt. Giữa HHXK và hàng nội địa đều có có những
yêu cầu chất lượng giống nhau nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, kinh tế chưa
phát triển, hàng tiêu thụ nội địa và hàng XK còn có sự phân biệt. Hàng XK
bao giờ cũng có những đói hỏi cao hơn hàng nội địa về chất lượng và mẫu
mã. Tuy vậy, nhờ việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nước ta đã tăng
được sản lượng HHXK trong những năm qua, đây là một dấu hiệu khả quan
phản ánh sự phát triển ngày càng cao của yếu tố HH trong nền KTTT nước ta
hiện nay.Theo đánh giá về thành tựu của việc thực hiện kế hoạch 5 năm về
xuất nhập khẩu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thì tổng kim ngạch
xuất khẩu HH 5 năm đạt gần 111 tỉ USD, tăng 17,5%/năm ( kế hoạch
16%/năm); năm 2005 xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD gấp đôi
năm 2000. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 5 năm là 130,2 tỉ USD, tăng
18,8%/năm. Nhập siêu hàng hóa 5 năm là 19,3 tỉ USD, bằng 17,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu HH. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 35,8% năm
2005, hàng nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 29% xuống còn 24,4%, hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,9% lên 39,8%. Dưới đây
là một số số liệu về xuất khẩu gạo và một số hàng hóa công nghiệp, hàng
nông-lâm thủy sản thời kì 1991-2000


14

Xuất khẩu gạo của Việt Nam
Đơn vị:
triệu tấn
Việt nam


1991
1,0

1993
1,8

1995
1996
19967
19978
1999
3,1
3,6
3,3
3,8
4,6
Nguồn: tạp chí Cộng sản, tháng 10 năm 2001

Xuất khẩu hàng hóa công nghiệp và hàng nông lâm thủy sản
1991 1993 1995 1997 1998 1999 2000
Năm
Mặt hàng
-

Công

nghiệp 33,4

34


25,3

28

23,8

25

35,7

nghiệp 14,4

17,6

28,4

36,7

35,5

36,8

34,3

48,4

46,3

35,3


40,4

38,2

30

nặng và khoán sản
-

Công

nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.
-

Hàng

nông, 52,2

lâm, thủy sản
Nguồn: báo cáo của bộ trưởng thương mại tháng 5-2000
Hình ảnh một số HH Việt Nam xuất khẩu được ưa chuộng trên thế giới như:
hàng thủ công mỹ nghệ, hàng quần áo, giày dép…..

II.

20
4,5


15


II.

Đánh giá chung về thực trạng sự phát triển của yếu tố HH
trong thực tiễn nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay:

1. Ưu điểm:
- Thứ nhất, nhìn chung sự phát triển của yếu tố HH sẽ tạo ra sự đa dạng
và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hóa trên thị trường một
mặt phản ánh những trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác
cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công
lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Việc nâng cao phát triển yếu
tố HH trong kinh tế thị trường sẽ giúp đẩy mạnh sức cạnh tranh của HH, của
doanh nghiệp của nền kinh tế để theo kịp yêu cầu hội nhập.
- Thứ hai, sự phát triển của yếu tố HH cũng góp phần nâng cao đời
sống vật chất, tăng khả năng lựa chọn cho người tiêu dùng. Thông qua khâu
trung gian là sự phát triển của HH, đời sống thật sự được cải thiện nên khi
phỏng vấn 2,5 vạn hộ tự đánh giá về mức sống năm 1999 so với năm 1990 thì
có 84,46% số hộ cho rằng đời sống có tốt hơn, 11,11% số hộ cho rằng đời
sống như cũ và chỉ có 4,43% cho rằng đời sống bị giảm sút.Bên cạnh đời sống
vật chất được cải thiện thì cả đời sống văn hóa, chăm sóc y tế cho người dân
cũng được nâng cao : đến giữa năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương trình
mục tiêu chống nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Theo đánh giá của
tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc ( UNDP) thì chỉ số giáo dục của nước ta
năm 1999 đứng thứ 92 trên 174 nước, chỉ số phát triển con người ( HDI) đã
nâng được từ vị trí thứ 122 năm 1995 lên thứ 110 trong 174 nước năm 1999.
Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng có nhiều tiến bộ. (2 trang
37)
- Thứ ba, nó kích thích đổi mới kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Sức ép
của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải áp dụng phương pháp sản



16

xuất tốt nhất, không ngừng đổi mới kĩ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới
sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, sự phát triển của HH cũng giúp cho các doanh nghiệp, các nhà sản
xuất thích nghi cao hơn với các điều kiện kinh tế biến đổi làm thích ứng kịp
thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực do yếu tố HH phát triển mang lại, thì trong đó
cũng chứa những khuyết tật vốn có của nó
2. Tiêu cực:
Một là, trên thị trường chứa đựng tính tự phát và nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu
quả xấu: môi trường bị hủy hoại, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội cao,
trốn lậu thuế, làm hàng giả…
Mặc khác, nền kinh tế thị trường nước ta chưa phát triển hoàn thiện. Do đó,
qui mô thị trường bị hạn chế : chỉ có hàng tiêu dùng mới được thừa nhận là
hàng hóa. Các tư liệu sản xuất không phải là hàng hóa hoặc chỉ mang cái vỏ
HH mà thôi. Nhiều sản phẩm được cung cấp theo định lượng, chỉ tiêu của kế
hoạch.
Hai là, hầu hết giá cả HH đều do Nhà nước qui định nên đồng tiền thực tế chỉ
còn làm chức năng thanh toán. Vai trò của quan hệ cung cầu trở nên không
còn có ý nghĩa với việc hình thành giá cả. Tình hình đó dẫn đến tình trạng là
tất cả các quan hệ cân bằng của thị trường như giá cả cung cầu, sự khan hiếm
tương đối của các nguồn lực…đều bị méo mó, biến dạng, thậm chí bị loại
khỏi đời sống kinh tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực thương mại và tuân theo
nguyên tắc “ Nhà nước độc quyền ngoại thương”. Cùng với sự hạn chế các
chủ thể tham gia thương mại quốc tế, các quy định chặt chẽ về hạn ngạch, các

quy định có tính chất hành chính về thị trường bán và mua hàng, về giá cả, về


17

tỷ giá hối đoái, đã khiến cho các hoạt động kinh tế trong nước bị tách rời khỏi
hệ thống kinh tế thế giới.
Trong kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tuy có sử dụng một số khái niệm, phạm
trù trong sản xuất HH, nhưng ở đây, cơ chế thị trường không có tác dụng. Mọi
họat động kinh tế đã được nhà nước hóa. Sản xuất mặt hàng nào, sản xuất bao
nhiêu, tiêu thụ ở đâu, giá cả bao nhiêu đều do Nhà nước quyết định.
Ba là, vì mục đích hoạt động đạt lợi nhuận tối đa và sản xuất ra nhiều sản
phẩm càng tốt, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm
môi trường sống của con người.
Bốn là, phân phối thu nhập sẽ không cân bằng, vì sự tác động của cơ chế thị
trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Do đó người nghèo ít được sự lựa
chọn trong việc mua hàng hóa.
Chương III: Phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường
Do sự phát triển của yếu tố HH vẫn còn nhiều khuyết tật cho nên, để
hạn chế những khuyết tật vốn có của nó đồng thời thúc đẩy sự phát triển cao
hơn nữa của HH thì sự can thiệp của Nhà nước để sửa chữa những thất bại
của sự phát triển HH trong nền kinh tế thị trường là một điều tất yếu. Quá
trình phát triển kinh tế hàng hóa nói riêng và nền KTTT nói chung ở nước ta
trong suốt 15 năm qua với nhưng thành tựu dã đạt được và những tồn đọng
chưa được giải quyết đã giúp chúng ta rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích
trong cả nhận thức và công tác thực tiễn.
Hiểu rõ nhu cầu cần thiết đó. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Đảng ta đã khẳng định nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần xây dựng là
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền

kinh tế đó là:"Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát


18

triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hưu gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của
xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể. Điều này phù hợp với nhận định
của C.Mác: "sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng
thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và
tầm quan trọng của chúng không giống nhau... chúng ta hoàn toàn chưa biết
một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và
chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết
có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung
cho tất cả các phương thức ấy".
Theo nhận định của riêng cá nhân tôi về vấn đề này thì hiện nay, khi
nền kinh tế đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn, nhất là khi
hội nhập cạnh tranh, trong khi các nhân tố vốn, lao động và công nghệ ở Việt
Nam còn chưa đủ để tạo ra được những tiền đề cơ bản cho bước phát triển
tiếp theo. Về mặt này, cần phải kết hợp một cách khéo léo giữa vốn trong
nước và vốn ngoài nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn nước
ngoài. Hạn chế những thủ tục rườm rà không cần thiết, phát triển công nghệ
hiện đại với chuyển giao công nghệ có hiệu quả, đẩy mạnh công nghiệp hóahiện đại hóa giữ vững sự ổn định chính trị hoàn thiện hệ thống luật pháp,
chính sách và các cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nâng cao năng
lực của cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp. Mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại. Cần xác định rõ mặt hàng trọng yếu có sức cạnh tranh
trên thị trường để có chiến lược đầu tư và phát triển phù hợp. Hiện nay, nông
nghiệp vẫn đang là mặt trận hàng đầu tiếp đó là công nghiệp và dịch vụ. Tuy

nhiên, về dài hạn ta cần phải phát triển mạnh trong lĩnh vực hàng công
nghiệp, đưa tỷ trọng hàng công nghiệp giữ vai trò then chốt. Bên cạnh việc


19

phát triển HH thì việc tạo dựng thương hiệu cho HH cũng rất quan trọng, nó
giúp cho sản phẩm của chúng ta tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Nhưng muốn tạo dựng được một thương hiệu tố khong phải là chuyện dễ, vì
vậy chương trình thương hiệu quốc gia đã đề ra tám mục đích sau:
* Xây dựng hình ảnh về Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hoá và
dịch vụ đa dạng phong phú với chất lượng cao.
* Nâng cao sức cạnh tranh cho các thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên thị
trường trong nước và quốc tế trong quá trình hội nhập.
* Tăng cường sự nhận biết của các nhà phân phối và người tiêu dùng trong
và ngoài nước đối với các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, để họ có
một cách nhìn nhận tích cực hơn, có lòng tin hơn vào các sản phẩm và nhà
sản xuất Việt Nam, từ đó có thiện cảm và ưa chuộng hàng Việt Nam hơn.
* Xây dựng một tiềm thức trong cộng đồng doanh nghiệp luôn hướng về chất
lượng sản phẩm và độ tin cậy cao trong kinh doanh.
* Quảng bá cho các tiêu chuẩn quốc tế và sự cần thiết của việc áp dụng tiêu
chuẩn quốc tế trong cộng đồng kinh doanh Việt Nam.
* Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng xuất
khẩu nguyên liệu thô.
* Xây dựng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia
với doanh nghiệp, hướng tới hoạt động xúc tiến thương mại mang tính cộng
đồng.
* Tăng thêm uy tín, niềm tự hào và sức hấp dẫn cho đất nước và con người
Việt Nam, góp phần khuyến khích du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài.
(www.tapchicongsan.org.vn, 8:45 p.m., 21/6/2007)

Một số chính sách thúc đẩy tăng trưởng hàng hóa đã được ban hành
như:Trước mắt các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế ngay đầu năm 2007 gồm
1.812 dòng thuế, chiếm 17% biểu thuế, mức cắt giảm bình quân 44% so với


20

hiện hành, đây là các mặt hàng đang có thuế suất cao từ 30% trở lên và chủ
yếu là hàng tiêu dùng nên đa số người dân sẽ được hưởng lợi; riêng ngành dệt
may có mức cắt giảm thuế tương đối lớn, sẽ có tác động quan trọng tới sản
xuất và giá cả của nhóm hàng dệt may. Các ngành chịu ảnh hưởng nhiều từ
cạnh tranh của hàng nhập khẩu do việc giảm thuế (ảnh hưởng trực tiếp đến
kim ngạch nhập khẩu) gồm: các sản phẩm gỗ, giấy, ô tô, xe máy, san phẩm
hóa chất, đồ nhựa, dệt may, máy móc thiết bị các loại… Đặc biệt các mặt
hàng như mỹ phẩm các loại, xà phòng giảm 20 - 40%, đồ trang sức bằng kim
loại quý, đá quý, ngọc trai giảm 25%, quạt điện giảm 25%, một số linh kiện
chính của xe ô tô giảm 10 - 17%, bánh kẹo các loại giảm 20 - 30%, một số
dầu thực vật giảm 20 - 40%. Một số mặt hàng giảm thuế nhập khẩu từ tháng
1/2007: Bia giảm 20%; Sản phẩm nhựa dùng trong gia đình giảm 20%; Hàng
dệt may giảm 63%; Giày dép mũ các loại giảm 20%; Đồng hồ các loại giảm
25%; Chè giảm 20%; Thịt chế biến (hộp) giảm 20%; Gạch ốp giảm 17%; Đồ
sứ giảm 17 - 20%; Thủy tinh, kính giảm 10%; Một số loại ắc quy giảm 20%;
Một so hàng tạp hóa khác giảm 20 - 25%.Riêng đối với nông nghiệp, áp lực
cạnh tranh là lớn do sản xuất nông nghiệp của ta vẫn là nền sản xuất nhỏ,
phân tán, năng suất và chất lượng thấp trong khi bình quân đất nông nghiệp
theo đầu người quá ít, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha canh tác trung
bình ở mức 30 triệu đồng/ha. Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến chủ trương
và các giải pháp này. Tới đây sẽ phải xây dựng thành cơ chế và chính sách cụ
thể, nhưng cần chú ý là Không bảo hộ trực tiếp khâu xuất khẩu nông sản,
không được hỗ trợ cho việc thay thế, hạn chế nhập khẩu. (3 trang 150, 168,

201)


21

KẾT LUẬN:
Tóm lại, Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền
kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hóa là từ kinh tế hàng
hóa giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế
hàng hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. Ở đây, chúng ta gặp lại vấn đề
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh
tế thị trường. Chúng ta sẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng
hóa lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng
tối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa.trong thời
gian tới để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh nhằm tạo môi trường pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu
quả, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm về mặt xã hội. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quản lý nhà nước để hệ thống này thực sự là công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế của đất nước, vừa phòng ngừa, vừa chống tham nhũng, lãng
phí một cách hiệu quả nhất. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật còn
phải bảo đảm phù hợp với các thông lệ quốc tế bởi Việt Nam đã chính thức là
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Đồng thời hệ thống pháp luật
phải góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường của Việt Nam.Các chính sách về
phân phối, trợ cấp phải bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng cho những người
có công, những đối tượng được hưởng chế độ chính sách xã hội và giảm bớt
khoảng cách về thu nhập cho mọi đối tượng lao động giữa các thành phần
kinh tế. Chính sách dân tộc phải được hoàn thiện hơn để bảo đảm khối đoàn
kết đại dân tộc...Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cần kiện toàn lại bộ máy nhà nước; xây dựng cơ chế hoạt động có hiệu quả;

nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời có biện pháp xử lý
những cán bộ tha hóa về phẩm chất, yếu kém về năng lực; phát huy dân chủ


22

để xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân
và vì dân.Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cần luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam bởi chỉ có như vậy việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới
thực sự đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này một mặt
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác Đảng cũng cần phải luôn đổi mới,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đổi mới phương thức lãnh đạo
cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.


23



×