Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

THỰC TRẠNG KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.48 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang ý
nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nước ta đã từng
bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tiếp tục ổn định và phát
triển; tạo lập được những tiền đề cần thiết đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; năng lực
nội sinh của khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực an ninh, quốc
phòng được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Chỉ số phát triển con người liên tục được nâng cao và thành tựu phát triển
con người của Việt Nam được UNDP đánh giá tích cực trong khu vực Đông
Nam Á. Những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đã làm tăng thêm thế và lực
mới của Việt Nam, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để đạt được những thành tựu đó, khoa học xã hội đã góp phần quan trọng
trong việc cung cấp những luận cứ khoa học cho đường lối đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên
tất cả các lĩnh vực cơ bản của sự phát triển, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, đồng
thời trực tiếp đề xuất, kiến nghị và tham gia xây dựng nhiều chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước; xây dựng nên nền tảng tri thức, hệ giá trị tinh thần
của xã hội và cho sự phát triển xã hội; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
Khoa học xã hội cho sự phát triển xã hội của đất nước; thực hiện vai trò tư vấn
chính sách cho sự phát triển của đất nước và truyền bá và phổ biến tri thức về
khoa học xã hội Việt Nam với các nước trên thế giới.
Vậy Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay có những thành tựu gì? Những
yêu cầu gì về Khoa học xã hội cần được đặt ra trong thời gian tới? Đây là những
vấn đề cần làm rõ trong tiểu luận này.

1



NỘI DUNG

I. THỰC TRẠNG KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Thực trạng về nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam hiện nay
Những thành tựu nghiên cứu của khoa học xã hội Việt Nam hiện nay, đã và
đang đáp ứng được những yêu cầu của thời đại, nó đóng góp một cách thiết thực
vào sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo. Các thành tựu của khoa học
xã hội được gắn trực tiếp với những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội được nêu
trong các văn kiện của Đại hội VI đến Đại hội IX và Nghị quyết của các Hội
nghị Trung ương các khóa. Đó là những vấn đề như: Thời kỳ quá độ, con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam, vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế, vấn đề kinh tế
thị trường định hướng XHCN, vấn đề dân chủ cơ sở, xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân...
Cụ thể hóa những thành tựu đó được thể hiện ở một số lĩnh vực như
“Nghiên cứu về con người”, đây luận điểm hết sức quan trọng, nguồn động lực,
mục tiêu và là chủ thể của sự phát triển. Bởi con người là nguồn vốn của sự phát
triển, trong sự vận động và phát triển con người có một luận điểm quan trọng là
“quyền con người”. Đối với con người, về mặt tổ chức nghiên cứu cơ cấu cần
được nghiên cứu trên hai phương diện đó là Triết học và Sinh học, nên từ đó
Viện khoa học xã hội Việt Nam đã thành lập Viện nghiên cứu con người.
Tiếp đó là thành tựu về Chính trị: Khoa học xã hội đang từng bước làm rõ
vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo và vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó
phát triển luận điểm trong Di chúc của Bác, đó là luận điểm “Đảng ta phải là
Đảng cầm quyền”. Trong đó phân định rõ quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước. Những thành tựu của Đảng đã khẳng định rõ, đó là xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN do nhân dân, vì nhân dân. Từng bước nhận thức được vai
trò, chức năng của hệ thống chính trị, vai trò phản biện của các tổ chức chính trị
được nâng cao....
2



Thành tựu nghiên cứu về đối ngoại cũng là một trong những nét nổi bật của
Khoa học xã hội: Thế giới trước đây biết được về một Việt Nam qua chiến
tranh, nay được biết đến nhiều hơn về thành tựu đổi mới thành công, đặc biệt là
sự ổn định về chính trị, an ninh, môi trường đầu tư thuận lợi.
Những kết quả nghiên cứu khoa học được thể hiện bằng những cuốn sách
chuyên luận, kỉ yếu, những bài báo, thông tin tổng hợp được xuất bản phục vụ
nhu cầu học tập, nghiên cứu của xã hội. Cũng từ đó các chương trình, đề tài
nghiên cứu này còn xây dựng nhiều kiến nghị, cung cấp nhiều luận cứ khoa học
cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, góp phần giải đáp những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước trong quá trình phát triển.
Bên cạnh những thành tựu đáng nên trên, nghiên cứu Khoa học xã hội cũng
có nhiều mặt hạn chế đó: Trong nghiên cứu KHXH những vấn đề bức xúc do xã
hội đặt ra chưa được nâng lên thành tính tổng thể, nghiên cứu về xã hội còn quá
ít. Hiện nay, đang hình thành nên các nhóm nghiên cứu cùng chung lợi ích, chưa
tập trung nghiên cứu thỏa đáng các vấn đề nhạy cảm như vấn đề tôn giáo, vấn đề
nhân quyền ...
Khoa học xã hội chỉ mới tập trung thuyết minh cho đường lối chủ trương
của Đảng, mà chưa có đề xuất, kiến nghị một cách xác đáng.
Các nghiên cứu khoa học xã hội còn thiếu tính phê phán, còn thiếu tính
khách quan, tính khoa học. Khoa học xã hội có khả năng luận giải tốt về hiện
thực, nhưng tính dự báo lại rất hạn chế.
1.2. Thực trạng quản lí khoa học xã hội ở nước ta hiện nay:
Khoa học xã hội cũng đang dần từng bước được quản lí trên cơ sở của pháp
luật, đó là một bước đổi mới khác với trước đây chỉ quản lí về đường lối, chính
sách mà thôi. Hiện nay đang dần từng bước hình thành và tạo ra một hệ thống
chủ thể quản lí về khoa học xã hội như quản lí đề tài các cấp, quản lí sản phẩm
khoa học xã hội, chuyển giao sản phẩm khoa học vào cuộc sống.

3


- Có cơ chế quản lí những vấn đề nghiên cứu và cơ chế tài chính trong
KHXH:
Có quỹ nghiên cứu khoa học cơ bản, khoảng 200 tỉ/ năm
Phân bổ nguồn kinh phí cho KHXH chưa cân xứng: 20/80 so với Khoa học
công nghệ.
- Cơ chế tài chính trong KHXH chưa thực sự rõ ràng, minh bạch gây khó
khăn cho những nhà nghiên cứu KHXH.
1.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ khoa học xã hội Việt Nam hiện nay:
Đội ngũ cán bộ Khoa học xã hội Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển của nước ta. Cùng với sự phát triển về tổ chức, đội ngũ cán bộ
này ngày càng trưởng thành và phát triển mọi mặt có khả năng đáp ứng yêu cầu
và nhiệm vụ ngày càng cao của Đảng và Nhà nước giao, trong đó có nhiều nhà
khoa học là những chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn của Việt Nam như
Đội ngũ nghiên cứu Khoa học xã hội của nước ta hiện nay rất đa dạng và
phong phú, tăng dần về số lượng, đơn cử như Viện khoa học xã hội Việt Nam
trước đây chỉ có 21 Viện với số cán bộ khoảng 1.000 người, hiện nay đã lên tới
31 Viện và tổng số cán bộ là 1.800 người. Như vậy, đối với một cơ quan nghiên
cứu lớn như viện Khoa học xã hội Việt Nam, thì đội ngũ cán bộ cũng đã tăng
lên gấp đôi.
Không những thế xu hướng nghiên cứu Khoa học xã hội mang tính liên
ngành, đa ngành rất cao. Đội ngũ cán bộ mang tính xu hướng rõ rệt, như cán bộ
nữ nhiều hơn cán bộ nam, đội ngũ cán bộ trẻ chiếm tỷ trọng cao hơn.
Nhưng về đội ngũ cán bộ cũng có những hạn chế nhất định: Cán bộ KHXH
ít có điều kiện cập nhật và mở rộng những kiến thức mới, phương pháp nghiên
cứu và giảng dạy mới trên thế giới. Hoạt động nghiên cứu chưa gắn với đào tạo
để có thể đổi mới và cập nhật thường xuyên những kiến thức mới, chuyên

nghiệp và hiện đại. Đội ngũ cán bộ KHXH hiện đang có sự hụt hẫng về kiến
4


thức cơ bản và năng lực thực hành, trong đó trình độ ngoại ngữ còn yếu là một
cản trở lớn.
1.4. Thực trạng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học xã hội Việt Nam hiện nay:
Trong lĩnh vực đào tạo con người, đào tạo tri thức đỏi hỏi cần có một quá
trình tích lũy lâu dài, không thể đột biến hoặc nóng vội. Hiện nay đội ngũ thầy
cô, chuyên gia về Khoa học xã hội không đáp ứng đủ nhu cầu, có nhiều người
có điều kiện đã tự bỏ tiền ra nước ngoài đào tạo, nhưng con số đó cũng rất
khiêm tốn. Số người được đào tạo cấp bậc như Thạc sỹ và Tiến sỹ chưa đồng
đều ở từng chuyên môn hẹp, những người có độ tuổi trung bình trẻ chiếm tỷ lệ
lớn, như vậy cũng đồng nghĩa với việc đội ngũ này ít có kinh nghiệm hơn.
Một thực trạng nữa, đó là số lượng cán bộ nghiên cứu KHXH còn ít, hệ
thống chương trình đào tạo cán bộ KHXH ở các trường đại học, các Viện nội
dung đào tạo còn yếu kém, lạc hậu chưa đáp ứng cho sự phát triển của khoa học
xã hội trên thế giới.
1.5. Thực trạng tư vấn chính sách của khoa học xã hội Việt Nam hiện nay:
Vai trò về tư vấn chính sách của Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng được
nâng cao, từng bước khẳng định tầm quan trọng của mình. Với quan điểm gắn lý
luận với thực tiễn, tiến hành công tác nghiên cứu lý luận trên cơ sở tổng kết thực
tiễn sinh động của đất nước trong quá trình đổi mới.
Những nghiên cứu cơ bản được kết hợp với nghiên cứu ứng dụng, ngành
khoa học xã hội ngày càng có nhiều đóng góp thiết thực hơn trong việc xây
dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định các đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Bằng chứng là từ Đại hội VI đến Đại hội
IX của Đảng, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam được giao nhiệm vụ là một trong
những cơ quan tham gia vào việc xây dựng những văn kiện của Đại hội và các
Hội nghị Trung ương. Một số chuyên gia đầu ngành của Viện được mời tham

gia các Tổ biên tập cương lĩnh, văn kiện của các Đại hội. Những dự thảo chuyên
đề và những ý kiến đóng góp của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam được Ban
chuẩn bị văn kiện Đại hội đánh giá tốt. Viện khoa học xã hội còn thực hiện
5


nhiều đề tài khoa học phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng điểm
được nêu trong Nghị quyết của các Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại
hội IX và Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương. Bằng các hoạt động nghiên
cứu của mình phục vụ trực tiếp góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tầm vĩ mô.

1.6. Thực trạng các tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta hiện nay.
Hiện nay các tổ chức nghiên cứu về khoa học xã hội cũng rất phong phú và
đa dạng. Đơn vị đầu ngành, lớn nhất đó là Viện khoa học xã hội Việt Nam. Hiện
nay Viện khoa học xã hội hiện có 34 đơn vị thành viên, phần lớn được phân bố
tại địa bàn Thành phố Hà Nội.
Ngoài ra còn có nhiều các tổ chức nghiên cứu khác như: Viện khoa học xã
hội thuộc khu vực miền Nam, trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ - Đại học quốc
gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu xã hội và phát triển là một tổ chức phi lợi
nhuận, phi Chính phủ, được thành lập năm 1997.... hoặc Viện Nghiên cứu Kinh
tế - Xã hội và nhân văn miền núi là một cơ quan nghiên cứu, phối hợp giữa các
nhà khoa học trong và ngoài đại học nhằm tổ chức các hoạt động nghiên cứu về
kinh tế, xã hội và nhân văn của đất nước nói chung, khu vực trung du, miền núi
nói riêng.
Cùng với sự phát triển về chất lượng nghiên cứu, thì số lượng các tổ chức
nghiên cứu khoa học xã hội đang được tăng dần, đó là sự ra đời của các trung
tâm nghiên cứu tư nhân như Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ Nông
Lâm nghiệp Thành Tây...
Hạn chế: tính kết nối, hợp tác giữa các tổ chức nghiên cứu KHXH chưa

cao, tính chuyên nghiệp: phong cách, chuyên sâu chưa cao
1.7. Thực trạng hợp tác quốc tế về khoa học xã hội ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thực hiện phương
châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, trong những năm qua,
6


Viện khoa học xã hội đã triển khai đàm phán và ký kết mới cũng như đã gia hạn
các thỏa thuận hợp tác khoa học với các đối tác như: Viện Hàn lâm khoa học
Nga; Viện Hàn lâm khoa học Hungary; Viện Hàn lâm khoa học Ba Lan; Trung
tâm nghiên cứu Khoa học quốc gia Pháp; Cơ quan trao đổi học thuật Đức; Đại
học Nagoya Nhật Bản; Đại học Yonsie Hàn Quốc; Viện Hàn lâm Sinica Đài
Loan; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Úc; Đại học RMIT Úc; Hội đồng KHXH
Ấn Độ; với các Viện Khoa học xã hội Trung Quốc; Hội đồng Khoa học xã hội
Mỹ; Viện Hàn lâm Hoàng Gia Campuchia; Viện KHXH quốc gia Lào…
Việc khai thác tài trợ cũng như tổ chức xây dựng và thực hiện các dự án hợp
tác với các tổ chức và quỹ quốc tế trong những năm qua đã mang lại những hiệu
quả thiết thực. Tính đến nay, Viện khoa học xã hội Việt Nam đã có điều kiện
đưa hàng trăm cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu, học tập; hàng trăm công trình
nghiên cứu đã được triển khai, tổ chức thành công nhiều hội thảo quốc tế lớn,
hội tụ được những nhà khoa học và hoạt động chính trị nổi tiếng khắp năm châu,
được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao.

* Hạn chế:
Trình độ của cán bộ nghiên cứu quốc tế còn thấp, ngoại ngữ còn hạn chế
Phương pháp nghiên cứu mới của thế giới chúng ta tiếp cận chưa đầy đủ và
toàn diện. Tư duy giai cấp vẫn nặng nề, còn trội nổi, tư duy máy móc, chưa bám
vào thực tiễn, còn hàn lâm.

1.8. Thực trạng Thông tin - Thư viện - Tư liệu về khoa học xã hội ở Việt

Nam hiện nay.
Các Viện Khoa học Xã hội Việt Nam hiện có 30 thư viện thuộc 30 Viện
nghiên cứu chuyên ngành và 2 thư viện thuộc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
và Tạp chí KHXH Việt Nam và một hệ thống gồm 30 tạp chí khoa học và 6 phụ
trương chuyên sâu về các lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn
7


(KHXH&NV), với trên 50 năm hoạt động đã tạo nên một nguồn lực về tài
nguyên thông tin tư liệu lớn nhất của Việt Nam hiện nay về KHXH&NV. Nguồn
lực này không chỉ lớn nhất về mặt số lượng mà trong đó bao gồm nhiều bộ sưu
tập tư liệu, hiện vật có giá trị thực sự quý giá, là những di sản quốc gia về văn
hoá, lịch sử và khoa học.
Các thư viện hiện đang lưu giữ nhiều nguồn tin khoa học xã hội phong
phú, đa dạng, được tập hợp, bổ sung một cách hệ thống thực sự hữu ích cho việc
nghiên cứu chuyên sâu các ngành KHXH&NV như kinh tế học, triết học, luật
học, tâm lý học, xã hội học …và các vấn đề tâm điểm mang tính toàn cầu như
phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, phát triển con người, …
Một nguồn tài nguyên thông tin rất quý giá khác của Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam là hàng vạn hiện vật về văn hoá vật thể và phi vật thể của 54 dân
tộc ở Việt Nam cùng hàng vạn tư liệu nghe nhìn quý giá đang được lưu giữ,
trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Một điểm nổi bật khác của nguồn lực thông tin Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam là các nguồn tài liệu “chất xám” của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Nguồn tài liệu “chất xám” này bao gồm các kết quả nghiên cứu khoa học của
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam trong hơn 50 năm hoạt động và một số lượng
rất lớn các ấn phẩm khoa học có được từ 30 tạp chí do các Viện trực thuộc Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản.
Hạn chế: Cơ sở dữ liệu về lý luận thì có, nhưng về thực tiễn thì còn thiếu,
rất yếu kém đặc biệt là các điều tra cơ bản của XHH.


8


II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI KHOA HỌC XÃ HỘI NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. Dự báo những vấn đề nghiên cứu của KHXH
- Số lượng những Vấn đề cần nghiên cứu là tăng, phức tạp về vấn đề nghiên
cứu (vừa rộng và vừa sâu)
+ Trước đây chỉ nói kinh tế, một ít xã hội, chính trị nhưng trong thời gian
tới đề cập đến nhiều vấn đề , nhiều lĩnh vực để nghiên cứu.
+ Nhiều vấn đề phải đòi hỏi giải quyết tận cùng, sâu sắc hơn, cần so sánh,
tìm nguyên nhân… (dân tộc, con người…)
- Phức tạp, đa dạng, lồng ghép những vấn đề đa ngành, liên ngành
+ Trong kinh tế có chính trị, văn hóa…
+ Những vấn đề nhân quyền
+ Những vấn đề dân tộc tôn giáo (Thế kỷ 21 là thế kỷ của các tôn giáo lớn,
chiến tranh giữa các sắc tộc trong thế kỷ 21 bùng nổ mạnh hơn, chính sách an
ninh quốc phòng của các nước, vấn đề Biển Đông, tranh giành về nguồn lực
(con người, tài nguyên).
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam.
- Phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xây dựng quan hệ sản xuất theo con đường xã hội chủ nghĩa; sự biến đổi
các giai cấp, tầng lớp xã hội; các chính sách bảo đảm tiến bộ xã hội và công
bằng xã hội.
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát huy mạnh mẽ


9


nhân tố con người; đấu tranh chống những ảnh hưởng độc hại từ mặt trái của cơ
chế thị trường và mở cửa với bên ngoài.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tăng cường đoàn kết dân tộc trong
điều kiện kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
- Những vấn đề về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Làm rõ bản chất và con đường phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện cơ chế quản lý mới.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế quốc dân.
- Vấn đề kinh tế tư bản nhà nước, mối quan hệ giữa chế độ đa sở hữu và các
hình thức phân phối, giữa quản lý vĩ mô và điều hành vi mô đối với sản xuất và
kinh doanh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Những vấn đề về lịch sử, dân tộc, tôn giáo, triết học, văn học nghệ thuật...,
đặc điểm con người Việt Nam.
- Tổng kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước trong
lịch sử dân tộc, xây dựng, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong điều kiện mới.
- Tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực Đông Nam Á và châu Á Thái Bình Dương.
2.2. Dự báo nhu cầu đào tạo về KHXH
- Trong thời gian tới là rất lớn. Nguồn nhân lực có trình độ cao về KHXH
sẽ phát triển
+

Nhu cầu đào tạo nói chung là lớn và KHXH cũng nhiều


10


+

Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao VD: Chỉ tiêu 2010 của

Học viện là 266 tiến sỹ, 200 thạc sỹ, năm 2011 là 250 tiến sĩ và 250 thạc sĩ.
- KHXH có nhiều ngành nghề cần đào tạo những lĩnh vực mới: Đa dạng về
ngành nghề, có những lĩnh vực mới: Phát triển bền vững, thát triển con người, phát
triển vùng: vùng nghiên cứu, khoa học vùng ra đời (Nhân văn học, đông phương
học…)
- Tính liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng nâng cao: chia sẻ
kinh nghiệm, nâng cao nguồn lực, tạo mặt bằng công nhận về kiến thức mang
tính đặc thù của Việt Nam. Liên kết các cơ sở đào tạo trong nước với nước
ngoài.
2.3. Dự báo về sự phát triển các tổ chức nghiên cứu KHXH trong thời
gian tới
Phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về loại hình: tổ chức nghiên cứu nhà
nước, các tổ chức nghiên cứu KHXH phi chính phủ, tư nhân… VD: Hơn 300
viện nghiên cứu của nhà nước, trong đó một nửa là nghiên cứu khoa học xã hội.
Năng lực nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu được từng bước nâng cao.
2.3.1. Dự báo khả năng tư vấn chính sách
- KHXH được đề cao và phát triển do nhiều cơ sở
- Nhiều đặt hàng, năng lực nâng cao cán bộ nghiên
- Cơ quan nghiên cứu chủ động nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
KHXH.
- Quá trình phát triển buộc nhà quản lí phải dựa vào khoa học nhiều hơn do
đó cần cơ sở thực tiễn của nghiên cứu.

2.3.2. Dự báo hợp tác quốc tế
- Tổ chức lại công tác nghiên cứu cơ bản về đất nước học và chiến lược của
các nước lớn, của Trung Quốc và Mỹ; xây dựng kế hoạch đào tạo và sử dụng lâu
dài đội ngũ chuyên gia nghiên cứu về các nước láng giềng, các nước lớn, các
11


nước có quan hệ kinh tế - thương mại lớn với Việt Nam, nhất là Trung Quốc,
Mỹ, EU, Nhật và Ấn Độ.
- Có cơ chế và chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và các nhà
khoa học quốc tế vào Việt Nam hoạt động khoa học dưới mọi hình thức, tạo
điều kiện thuận lợi để khoa học xã hội Việt Nam giao lưu và sớm bắt kịp trình
độ khoa học xã hội khu vực và quốc tế.
+ Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học xã hội theo chuẩn quốc
tế, tăng cường hội nhập quốc tế. Tạo điều kiện để ngày càng có nhiều nhà khoa
học Việt Nam đạt trình độ quốc tế, làm việc ở các tổ chức quốc tế đa phương
toàn cầu, khu vực và song phương.

12


KẾT LUẬN
Trên đây là bức tranh chung về thực trạng KHXH ở Việt Nam hiện nay

chúng tôi đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế về KHXH hiện nay từ đó
đề cập đến những yêu cầu đặt ra đối với KHXH nước nhà trong thời gian
tới. Điều đó giúp những nghiên cứu sinh chúng tôi có được nhận thức tổng
quan về khoa học xã hội ở Việt Nam, thực trạng, dự báo phát triển, chúng
tôi hình thành kỹ năng thu thập, xử lí thông tin, nhìn nhận, đánh giá những
vấn đề cấp bách của KHXH nước ta để có thể hiểu hơn về việc lựa chọn

mảng đề tài nghiên cứu và đặc biệt thấy rõ được vai trò và trách nhiệm của
một nghiên cứu sinh về lĩnh vực KHXH một khoa học có đóng góp rất lớn
trong quá trình phát triển của đất nước. Chúng tôi hiểu được rằng sự cố
gắng, nỗ lực của cá nhân trong việc triển khai đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh
vực chuyên môn của mình không chỉ phục vụ cho niềm đam mê khoa học
mà còn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển
Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, công bằng dân chủ và văn minh sánh vai
với các cường quốc năm châu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong
mỏi đối với thế hệ trẻ.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19-01-2011).
5. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về khoa học và công nghệ, tháng 7/2008.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá,hiện đại hoá nhiệm vụ đến năm
2000.
7. Quyết định Số : 928/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 tháng 7
năm 2007, Về việc phê duyệt Đề án Nghiên cứu khoa học xã hội, tổng kết thực
tiễn, xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

14


MỤC LỤC

15



×