Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CỦNG CỐ KHỐILIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ Ở HUYỆN CẨM GIÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.18 KB, 31 trang )

ñy ban nh©n d©n tØnh h¶i d¬ng
trêng chÝnh trÞ

TIỂU LUẬN CUỐI KHOÁ
Đề tài: LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC,
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CỦNG CỐ KHỐI
LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC QUA KHẢO SÁT
THỰC TẾ Ở HUYỆN CẨM GIÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG

Họ và tên: DƯƠNG VĂN THỊNH
Lớp: TCLLCT-HCA65H10-K15
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đức Chính-Cẩm Giàng-Hải Dương
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN CHÍ CÔNG

Hải Dương, Tháng 01 Năm 2012

1


MỤC LỤC
STT

Nội dung

Trang

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG TIỂU LUẬN
STT

Chữ viết tắt



Đọc là

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ những ngày đầu Đảng ta đã xác định dùng chiến tranh vũ trang để
giành chính quyền, xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức trong đó giai cấp
công nhân là lực lượng tiên phong tiến lên giành độc lập. Đây là sự sáng suốt của
Đảng ta, khẳng định vai trò to lớn của liên minh công - nông - trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của khối liên minh công - nông - trí thức là một
tất yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rõ ràng
rằng: “trong một số nước nông nghiệp đại đa số dân chúng là nông dân thì vấn đề
giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. Nguyên tắc cao nhất của cách
mạng là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản
có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Không chỉ công cuộc
bảo vệ Tổ quốc mà trong quá trình xây dựng đất nước, khối liên minh công - nông trí thức cũng là nhu cầu cần thiết để gắn kết ba lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp,
khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế- xã hội cho đất nước.
Ở nước ta, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào con đường
đấu tranh cách mạng. Từ ngày đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thành
lập khối liên minh trong mặt trận dân tộc. Đảng khẳng định: lực lượng cách mạng
chủ chốt là công nhân, nông dân, nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng trí thức,
công nhân, nông dân, trí thức cần phải đoàn kết thành một khối. Với những đặc
trưng cơ bản trong xã hội Việt Nam, liên minh công - nông - trí thức có nhiều thuận
lợi đem đến tiền để cho sự phát triển.
Trong giai đoạn mới xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội Việt Nam, liên
minh công - nông - trí thức tiếp tục được Đảng và Nhà nước khẳng định là một yếu
tố tất yếu, một nhu cầu khách quan để giai cấp công nhân giữ vững vai trò lãnh đạo,

giai cấp nông dân được giải phóng và sự phát triển của tầng lớp trí thức.
Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng
lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định.
Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc
biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN
3


đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo,
giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố
khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó
không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”. Khi
liên minh công - nông - trí thức được thiết lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện
khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản, cho Nhà nước. Để tập hợp lực lượng rộng rãi quần
chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy liên minh công nông - trí làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kiện bảo đảm ổn định chính trị
cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đòi hỏi các dân tộc đi
theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải có một nền kinh tế công nông nghiệp hiện
đại với khoa học và công nhiệp tiên tiến, do đó rất cần có liên minh công - nông trí thức và củng cố liên minh này nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng được
những thời cơ để phát triển.
Trong suốt thời gian từ khi giải phóng giành chính quyền đến nay, tỉnh Hải
Dương xây dựng và không ngừng củng cố khối liên minh công - nông - trí thức.
Nhờ đó mà tình hình an ninh chính trị luôn được ổn định, kinh tế, văn hóa xã hội
được phát triển theo kịp sự phát triển của đất nước. Cùng với sự chỉ đạo của Đảng
bộ của tỉnh, huyện Cẩm Giàng cũng không ngừng chăm lo củng cố khối liên minh
công - nông - trí thức. Giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong
huyện được nâng cao về mọi mặt, góp phần đưa huyện Cẩm Giàng là một huyện
phát triển năng động trong tỉnh. Khối liên minh công - nông - trí thức cùng với Mặt
trận tổ quốc thật sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Tăng cường

đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giáo dục đảng viên gương mẫu tham gia sinh hoạt
và làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân, phấn đấu xây dựng các tổ chức đảng
thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Mặt trận và các tổ chức thành viên hướng về cơ sở, cộng đồng dân cư, để
nhân dân thực sự tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Nâng
cao hiệu quả cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây
4


dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở các thôn, khu dân cư. Tuyên truyền, giáo dục
cho mọi người, cùng với việc chăm lo lợi ích cá nhân, gia đình, cần ra sức làm tròn
nghĩa vụ đối với Tổ quốc, Nhà nước và xã hội; đấu tranh ngăn ngừa những hành vi
vi phạm pháp luật, lãng phí, tham nhũng, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, lợi
ích của nhân dân, làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên
các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội của Đảng ta. Mặc dù vậy,
hiện nay ở cấp huyện, đặc biệt cấp xã, khối liên minh công - nông - trí thức cũng có
lúc bị lu mờ, sự liên kết còn lỏng lẻo, nhận thức của đảng viên và nhân dân về tầm
quan trọng của liên minh chưa thấu đáo. Việc đó đã dẫn đến khối đại đoàn kết toàn
bị xâm hại, việc xảy ra kiện tụng, tranh giành quyền lợi còn nhiều chủ yếu ở tập thể
và nhóm người, tập trung ở các vấn đề đất đai, môi sinh.
Là một đảng viên ở cơ sở và được tham gia lớp trung cấp chính trị, bản thân
tôi nhận thấy ý thức trách nhiệm của mình phải góp phần vào sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của nhân dân. Từ đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Liên minh công –
nông – trí thức, phương hướng và những biện pháp củng cố khối liên minh
công – nông – trí thức qua khảo sát thực tế ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải
Dương”. Qua đó, tôi muốn tìm hiểu, hệ thống lí luận về liên minh công - nông - trí
thức. Đồng thời tìm hiểu thực trạng của khối liên minh trong giai đoạn hiện nay ở
huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương; từ đó có những biện pháp củng cố khối liên
minh công - nông - trí thức, tạo động lực phát triển cho huyện nhà và thực hiện
mục tiêu chung của tỉnh đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Bản thân muốn tìm hiểu sâu sắc hơn hệ thống lí luận liên minh công – nông –
trí thức và thực trạng liên minh công – nông – trí thức hiện nay ở huyện Cẩm Giàng
tỉnh Hải Dương.
- Vận dụng kiến thức đã học, kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, tình hình
thực tiễn của khối liên minh công - nông - trí để đề ra phương hướng và một số
biện pháp củng cố khối liên minh công – nông – trí thức huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải
Dương đạt kết quả cao hơn.
5


2.2. Nhiệm vụ
- Khái quát hóa cơ sở lí luận về khối liên minh công – nông – trí thức.
- Phân tích thực trạng liên minh công – nông – trí thức hiện nay ở huyện Cẩm
Giàng tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất phương hướng và và một số biện pháp củng cố khối liên minh công
– nông – trí thức huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Khối liên minh công – nông – trí thức và bao gồm các ban ngành, tổ chức
tham gia xây dựng khối liên minh công – nông – trí thức hiện nay ở huyện Cẩm
Giàng tỉnh Hải Dương.
- Hệ thống những cơ sở lí luận về liên minh công – nông – trí thức.
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương,
trong giai đoạn 2010 – 2015.
4. Phương hướng nghiên cứu
- Phương pháp tự nghiên cứu văn bản, tài liệu;
- Phương pháp phân tích – tổng hợp;
- phương pháp so sánh, diễn dịch.
5. Ý nghĩa nghiên cứu

- Đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn về thực trạng khối liên minh công – nông –
trí thức hiện nay ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương.
- Qua cơ sở lí luận và thực trạng của vấn đề, vận dụng thực thi việc củng cố
khối liên minh công – nông – trí thức hiện nay ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải
Dương.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tham khảo, tiểu luận gồm có 3 chương:
- Chương 1: Những cơ sở lí luận về khối liên minh công – nông – trí thức.
- Chương 2: Thực trạng khối liên minh công – nông – trí thức hiện nay ở
huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương.
- Chương 3: Phương hướng và một số biện pháp củng cố khối liên minh công
– nông – trí thức hiện nay ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương.
6


CHƯƠNG 1.
NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên
minh công – nông – trí thức
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen: trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp cuối
thế kỉ XIX, hai ông đã khái quát thành một hệ thống lí luận khoa học về cách mạng
vô sản. Các ông đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc
đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức liên minh được với "người bạn
đồng minh của mình" là giai cấp nông dân. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh này, giai
cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng này đã trở thành "bài ai điếu".
- Quan điểm của V.I. Lênin: Ông đã vận dụng và phát triển tư tưởng của C.
Mác và Ph. Ăngghen trong điều kiện mới. Thành công của Cách mạng Tháng Mười
là minh chứng cho thắng lợi của tư tưởng đó. Trong thời kì quá độ, V.I. Lênin cho

rằng không chỉ liên minh với công - nông, mà còn liên minh với các giai tầng khác.
Người coi liên minh này là "Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối
liên minh giữa giai cấp vô sản với nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai
trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước" V.I. Lênin đặc biệt coi trọng khối liên minh
này trong những nước nông nghiệp mà đại đa số là nông dân. Qua liên minh này,
lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân được công nhân tập hợp vì mục
tiêu chung và lợi ích của toàn dân tộc.
- Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức trong thời kì xây dựng chủ
nghĩa xã hội được xem xét dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng của chuyên chính vô sản thì liên
minh này đã tập thu hút và tổ chức được lực lượng sản xuất cơ bản, đông đảo và
cách mạng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xét về nguyên tắc lãnh đạo của chuyên chính vô sản thì giai cấp vô
sản là giai cấp duy nhất thông qua đảng của mình để lãnh đạo hệ thống chính trị xã

7


hội chủ nghĩa. Nhưng vai trò đó chỉ được thực hiện với điều kiện tổ chức tốt liên
minh công - nông - trí thức và các giai tầng khác trong xã hội.
Thứ ba, xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
đảm bảo quyền lợi của toàn thể nhân dân, dân tộc mà đại đa số là công - nông và
những người lao động khác.
Thực tiễn quá trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh là phải có liên minh mới giành được thắng lợi.
Giai đoạn hiện nay liên minh đó không những là tất yếu khách quan mà còn là
vấn đề cấp bách. Đồng thời còn tạo ra bộ mặt mới, chất lượng mới, là cơ sở cho đại
đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công – nông – trí thức
Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã

hội - giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Xu hướng hợp tác giữa chúng dựa trên những
cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công
nhân mà của cả nông dân, trí thức. Trong khối liên minh này Hồ Chí Minh đã xác
định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo. Thông qua chính đảng của mình đề ra
đường lối cách mạng, những chủ trương lớn nhằm thực hiện cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng để thực hiện đường lối đó cần phải
có lực lượng. Bằng hành động và chính sách thực tiễn, giai cấp công nhân lôi kéo
mọi tầng lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình, cùng với họ
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân củng cố vai trò
chính trị tiên phong của mình.
Về phía nông dân, do địa vị kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp của mình,
nông dân tự nguyện tìm đến với giai cấp công nhân. Nếu không liên kết với công
nhân, trí thức thì họ sẽ bị các giai cấp bóc lột lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc sống nô
lệ, bị áp bức, bóc lột. Sự tiến bộ của nông dân đã ngày càng gắn bó hơn với công
nhân và trí thức. Để đẩy nhanh sản xuất nông sản hàng hoá, làm cho nông nghiệp
phát triển bền vững, nông dân rất cần tới sự hỗ trợ của công nghiệp và những tri
thức khoa học kỹ thuật. Đây là nhu cầu thiết thực để nông dân tìm đến và gắn bó
với các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở dịch vụ kỹ thuật. Công nghiệp và khoa học
8


góp phần đắc lực vào quá trình giải phóng người nông dân, giúp họ tiếp xúc với
nền văn minh nhân loại hiện đại, đồng thời có dịp để phát huy các giá trị văn hoá
được tích tụ trong quá trình lao động, xây dựng ở nông thôn.
Về phía tầng lớp trí thức, là một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc trưng nổi bật
là lao đông trí óc sáng tạo, không tồn tại độc lập trong cộng đông xã hội. Trong
công cuộc đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc công nhân, nông dân
rất cần trí thức. Công nhân và nông dân tạo nên những cơ sở vật chất, những điều
kiện sinh hoạt và làm việc cần thiết, đặt ra các nhu cầu làm động lực cho sự tìm tòi
sáng tạo của hoạt động nghiên cứu khoa học, còn các lĩnh vực hoạt động của công

nhân, nông dân sẽ là môi trường để trí thức đem khoa học kỹ thuật vào cuộc sống,
phục vụ con người. Khoa học chân chính trước hết là hướng vào việc thoả mãn các
nhu cầu của con người, giải phóng con người. Thực tiễn này đang diễn ra trong tất
cả các thành phần kinh tế - xã hội. Khối liên minh công – nông – trí thức làm thay
đổi các quan hệ xã hội theo xu hướng đoàn kết, hoà hợp và trở thành một động lực
của tiến bộ xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh công – nông – trí thức là sự cố kết của
công nhân, nông dân, trí thức trong một chỉnh thể. Mỗi yếu tố có một vị trí, vai trò
đặc thù không thể thay thế và đổi chỗ cho nhau. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc
nhở giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, phải làm thế nào xứng đáng là lãnh
đạo để người ta tin cậy. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào
chất lượng của từng thành tố. Và chất lượng của khối liên minh sẽ nhân lên sức
mạnh cho cả công nhân, nông dân, trí thức. Vì thế, củng cố và tăng cường khối liên
minh công – nông – trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Đối với quan hệ giữa giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng đông đảo nhất
trong dân cư, Hồ Chí Minh xác định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì nông
dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp
công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Cho nên công nhân phải chăm
chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố công nông liên minh”. Người cũng chỉ rõ:
“Nông dân, công nhân, lao động trí óc đều phải dựa vào nhau. Nông dân không có
9


sự giúp đỡ của công nhân thì không được. Công nhân không có nông dân cũng
không được…Lao động trí óc không có công nhân, nông dân cũng không được”.
Liên minh công – nông – trí thức là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết dân
tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ
vào một mặt trận chung thống nhất vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng liên minh

công – nông – trí thức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.
1.2. Quan điểm đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta
về liên minh công – nông – trí thức
1.2.1. Quan điểm, đường lối của Đảng về liên minh công – nông – trí thức
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức.
Hồ Chí Minh cho rằng "Công, nông là gốc của cách mệnh." Muốn xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc thì phải xác định rõ nền tảng của khối đại đoàn kết đó là
những lực lượng nào. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của
nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết với các tầng
lớp nhân dân khác”
Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể hoá quan điểm này vào điều kiện nước
ta được thực hiện qua từng giai đoạn cách mạng:
- Trong Đại hội lần thứ II tháng 2 năm 1951, Đảng đã chỉ rõ "Chính quyền của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân... lấy liên
minh công nhân, nông dân và lao động trí óc làm nền tảng do giai cấp công nhân
lãnh đạo"
- Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong công cuộc đổi mới, liên
minh này được đặc biệt coi trọng. Điều này được thể hiện trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ

10


"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo
Tóm lại, liên minh công - nông - trí thức là quan điểm, đường lối của Đảng là

vấn đề chiến lược của cách mạng được thực hiện nhất quán, được kiểm nghiệm và
phát triển phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta và xu thế của thời đại.
1.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về liên minh công – nông – trí
thức
Trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã quan tâm nhiều đến phát triển kinh tế
nhằm chăm lo đời sống của đại bộ phận nhân dân, đồng thời quan tâm đến các vấn
đề chính trị, văn hóa – xã hội nhằm đảm bảo an ninh và định hướng phát triển cho
đất nước. Qua hơn hai mươi năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt
được những thành tựu vượt bậc. Góp phần cho kết quả đó, Nhà nước đã quan tâm
đúng đắn đến khối liên minh công - nông - trí thức thông qua các hình thức khác
nhau để liên kết công nhân, nông dân và trí thức. Như liên kết “4 nhà” (cụm từ xuất
phát trong Quyết định Số 80/25002/QĐ-TTg, ngày 24 tháng 06 năm 2002 của Thủ
tướng chính phủ Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua
hợp đồng ); Nghị Quyết TW2 khoá VI với quan điểm coi giáo dục là “Quốc sách”,
tăng cường đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;…
Trong cương lĩnh chính trị Đại hội XI đã nêu “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Qua
đó, chúng ta thấy được Đảng và Nhà nước tiếp tục coi trọng của liên minh công –
nông – trí thức trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Tầm quan trọng của của liên minh công – nông – trí thức
Liên minh công - nông - trí thức có tầm quan trọng đặc biệt trong cách mạng
XHCN, là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong giành, giữ chính quyền; trong cải tạo xã
hội cũ xây dựng xã hội mới. Lênin khẳng định rằng, liên minh công - nông - trí
thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản. Bởi vì, liên minh là điều kiện
11



căn bản để giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với toàn
xã hội; là cơ sở chính trị xã hội vững chắc của Nhà nước XHCN; là lực lượng
dường cột bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
1.4. Nội dung cơ bản của liên minh công – nông – trí thức
1.4.1. Nội dung chính trị của liên minh
+ Xuất phát từ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lập trường
chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân.
+ Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi
mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước theo hướng xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Cụ thể là: đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị
của giai cấp công nhân trong lĩnh vực công nghiệp, các cơ sở của giai cấp nông dân
ở nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học - công nghệ. Nội dung cấp thiết là
triển khai việc thực hiện "Qui chế dân chủ cơ sở", nhất là ở nông thôn, nhằm khắc
phục các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, đảm bảo quyền dân chủ cho khối liên
minh, đặc biệt là giai cấp nông dân - một bộ phận chiếm đa số trong xã hội ta hiện
nay.
1.4.2. Nội dung kinh tế của liên minh
Đây là nội dung cơ bản có ý nghĩa quyết định nhất, là cơ sở vật chất - kĩ thuật
vững chắc của liên minh trong thời kì quá độ. Những vấn đề cơ bản cần quan tâm
trong nội dung kinh tế là:
+ Cần giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích kinh tế trong khối liên minh được
thể hiện qua thị trường và các hoạt động sản xuất, kinh doanh để lợi ích kinh tế trở
thành động lực nội tại thúc đẩy các chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất vật
chất.
+ Xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với nhu cầu kinh tế của công nhân,
nông dân, trí thức và toàn xã hội. Nội dung cơ cấu kinh tế được Đảng ta xác định
hiện nay là: công - nông - dịch vụ. Cơ cấu này là điều kiện để gắn bó hoạt động của
công, nông và trí thức. Trong đó, dịch vụ khoa học - công nghệ là quan trọng. Vì

12


nó tác động trực tiếp đến sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, tăng sự hội nhập và
"từng bước phát triển kinh tế tri thức". Từ Đại hội VIII, chủ trương chuyển dịch
kinh tế được Đảng ta đặc biệt coi trọng "công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư...".
+ Đa dạng hoá các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp, nông
nghiệp và khoa học - công nghệ, giữa thành thị và nông thôn...
+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân tự chủ, năng động,
hợp tác với giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức trong sản xuất nông nghiệp.
+ Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đa dạng hoá các
hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước là chủ yếu. Nhà nước cần có các chính
sách, pháp luật tác động trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong các
vấn đề đất đai, môi trường, vốn khoa học - công nghệ, giải quyết "cảnh kéo giá"
giữa hàng hoá nông sản với hàng hoá công nghiệp, dịch vụ, trợ giá khi cần thiết cho
giai cấp nông dân.
+ Phát huy vai trò của nhà nước (thông qua luật pháp, hệ thống chính sách như: đất dai, khuyến nông, thuế, sở hữu trí tuÖ, chính sách khoa học và công nghệ…)
mà giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với công nhân, nông dân, trí thức.
1.4.3. Nội dung văn hoá - xã hội của liên minh
Những nội dung chính trị, kinh tế của liên minh xét đến cùng là để thoả mãn
nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của xã hội. Trong nội dung này có mấy
điểm cơ bản sau đây:
+ "Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái".
+ Coi con người là vốn quí của xã hội, tích cực xoá đói, giảm nghèo, tạo công
ăn việc làm cho người lao động, nhất là giai cấp nông dân.
+ Thực hiện chính sách xã hội đối với những người có công với cách mạng,
chính sách đền ơn đáp nghĩa...
+ Nâng cao dân trí, đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông

thôn để tăng năng suất lao động, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, góp phần cải
thiện đời sống cho người lao động.
13


+ Phát huy và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Chống các tệ nạn xã hội.
+ Mọi qui hoạch tổng thể của Nhà nước cần gắn với nông nghiệp, nông thôn
(đô thị hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng, khu kinh tế kĩ thuật,...) phải tương xứng hợp
lí. Cần quan tâm đến vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng dân tộc thiểu
số, vùng căn cứ cách mạng cũ.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG KHỐI LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC HIỆN
NAY Ở HUYỆN CẨM GIÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Cẩm Giàng là huyện đồng bằng, có diện tích Diện tích 109 km2 trong
đó đất nông nghiệp chiếm 67,4%, đất chuyên dùng 20%, đất ở 6,9% và đất chưa sử
dụng 5,7%, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên, phía Nam
giáp huyện Bình Giang, phía Đông giáp huyện Nam Sách và thành phố Hải Dương
cùng tỉnh. Huyện có Gồm có 17 xã: Cẩm Hưng, Ngọc Liên, Cẩm Sơn, Kim Giang,
Thạch Lỗi, Cẩm Hoàng, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Đức Chính, Tân Trường, Cao An,
Lương Điền, Cẩm Điền, Cẩm Phúc, Cẩm Đông, Cẩm Đoài và Cẩm Định. Và 2 thị
trấn: bao gồm thị trấn Lai Cách (huyện lị), thị trấn Cẩm Giàng. Với đặc điểm tự
nhiên như vậy, huyện Cẩm Giàng có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn
hóa-xã hội, đồng thời cũng là yếu tố thuận lợi phát triển khối liên minh công - nông
- trí thức.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Huyện Cẩm Giàng có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi (quốc lộ 5A và đường
sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy qua) để phát triển kinh tế; có khả năng phát triển nông
nghiệp, có nhiều nông sản (lúa đặc sản, hành tây, dưa chuột, cà rốt, ớt, cà chua...).

Huyện đã và đang xúc tiến xây dựng khu công nghiệp Phúc Điền, Tân Trường, Đại
An và có một số nhà máy lớn như Công ty giày Cẩm Bình, Nhà máy lắp ráp ôtô
Ford, Công ty may Venture, Công ty chế biến rau quả thực phẩm Vạn Đắc Phúc, ...

14


Huyện Cẩm Giàng có nhiều nghề truyền thống nổi bật là: chạm khắc gỗ mỹ
nghệ Đông Giao, rượu Phú Lộc, giết mổ trâu bò Văn Thai, xay sát gạo.
Với đặc điểm kinh tế trên cho thấy lực lượng giai cấp công nhân, nông dân và
đội ngũ trí thức sẽ phát triển đồng đều, thúc đẩy cho liên minh công - nông - trí
thức xích lại gần nhau.
2.1.3. Đặc điểm chính trị
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, cùng với
nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Cẩm Giàng đã có nhiều đóng góp và hy
sinh to lớn cho cách mạng, giải phóng dân tộc. Ghi nhận những thành tích đó, Cẩm
Giàng đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng gần 8.000 Huân, Huy chương các loại
cho các tập thể và cá nhân trong huyện. Toàn huyện có 89 Bà mẹ Việt Nam anh
hùng, 01 Anh hùng lao động và 01 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, 01 tập
thể Anh hùng lao động và 6 đơn vị, tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân (Bao gồm: xã Cẩm Điền, Tân Trường, Đức Chính,
Cẩm Sơn, Cẩm Đông và Thị trấn Lai Cách). Đảng bộ và nhân dân huyện nhà vinh
dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
Trong suốt thời gian dài xây dựng và phát triển đến nay, tình hình an ninh
chính trị của huyện Cẩm Giàng về cơ bản luôn giữ được ổn định. Các cấp ủy Đảng
và chính quyền huyện nhà rất coi trọng việc lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ an
ninh, quốc phòng trên địa bàn. Phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc có bước phát
triển sâu rộng, công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, chống các tệ nạn xã hội
được tổ chức triển khai đồng bộ, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành

vi vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự an toàn trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay, 100% cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị, trong đó gần 90% cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã và trên 70% cán bộ,
công chức cấp huyện có trình độ Trung cấp lý luận chính trị trở lên. Tổ chức tốt
việc biên soạn bài giảng lịch sử địa phương để giảng dạy trong các nhà trường và
15


Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện nhằm giáo dục truyền thống cách mạng, lòng
yêu quê hương, đất nước trong thế hệ trẻ. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
Đảng được đẩy mạnh, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên được
nâng lên; công tác cán bộ có những chuyển biến tích cực; công tác kiểm tra Đảng
được tăng cường chỉ đạo và hoạt động có hiệu quả. Hàng năm có 81,7% tổ chức cơ
sở đảng đạt trong sạch vững mạnh. Vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng được củng cố, tăng cường.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của UBND huyện và cơ sở có nhiều
chuyển biến tích cực, đã tiến hành điều chỉnh quy chế làm việc theo quy chế mẫu
ban hành kèm theo Quyết định số 75/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; xây
dựng tiêu chuẩn, chức danh của từng công chức, viên chức, xác định trách nhiệm,
quyền hạn của người đứng đầu, khắc phục tình trạng chồng chéo trong chỉ đạo,
điều hành, nâng cao ý thức trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của chính quyền các
cấp. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo được quan tâm chỉ đạo
thực hiện, hạn chế đơn thư vượt cấp, kéo dài, hằng năm giải quyết đạt trên 80%
đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Trung bình hàng năm có 82,1% chính
quyền cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, chính quyền huyện 2 năm liền được công
nhận là chính quyền trong sạch vững mạnh.
Công tác cải cách hành chính được Huyện uỷ, UBND huyện xác định là một
nhiệm vụ trọng tâm. Huyện uỷ và UBND huyện đã xây dựng các đề án “Đẩy mạnh

cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2006-2010”, “Cải cách thủ tục hành chính
theo mô hình một cửa” đối với cấp huyện trên 6 lĩnh vực, cấp xã 3 lĩnh vực; chỉ đạo
các phòng, ban, các xã, thị trấn thống kê hoàn chỉnh và công khai hoá 244 thủ tục
hành chính. Qua đó đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao ý thức trách
nhiệm, tác phong, lề lối làm việc của các phòng, ban, các bộ phận chuyên môn và
cán bộ công chức từ huyện đến cơ sở, khắc phục một bước tình trạng đùn đẩy, né
tránh, gây khó khăn, nâng cao hiệu quả trong giải quyết công việc giữa cơ quan
Nhà nước với tổ chức và công dân.

16


Sự ổn định về chính trị, việc thực hiện đổi mới của chính quyền các cấp đã
góp phần quy tụ sức mạnh của quần chúng, tạo đà vững mạnh cho đại đoàn kết toàn
dân trong toàn huyện Cẩm Giàng.
2.1.4. Đặc điểm văn hóa – xã hội
Dân số huyện Cẩm Giàng có hơn 12 vạn người, trong đó người trong độ tuổi
lao động chiếm khoảng 50%.
Cẩm Giàng là vùng đất cổ được hình thành sớm trong lịch sử làng xã Việt
Nam, thuộc trung tâm nền văn minh Châu thổ sông Hồng, nơi đây hiện còn lưu giữ
và bảo tồn nhiều di tích lịch sử- văn hóa và danh thắng. Trong số 1.098 di tích được
kiểm kê đăng ký trong toàn tỉnh, Cẩm Giàng có 203 di tích bao gồm đình, chùa,
đền, nghè, văn miếu…trong đó có 16 di tích đã được xếp hạng Quốc gia.
Cẩm Giàng có truyền thống văn hóa- giáo dục lâu đời với Văn Miếu Mao
Điền- Trường học, trường thi xứ Đông, chứng tích về một vùng quê hiếu học. Đây
cũng là quê hương của Đại danh y Tuệ Tĩnh - người đặt nền móng xây dựng nền y
học dân tộc nước nhà với tư tưởng “Nam dược trị Nam nhân”.
Huyện luôn đầu tư và đảm bảo các tuyến y tế. Chất lượng khám chữa bệnh,
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được nâng lên, cơ sở vật chất, trang thiết
bị y tế được tăng cường, công tác phòng chống dịch đảm bảo kịp thời. Tỉ lệ phát

triển dân số tự nhiên là 1,12%, 100% số trạm xá xã có bác sĩ biên chế hoặc bác sĩ
tăng cường, 15/19 xã, thị trấn (78,9%) đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác quản lý
vệ sinh an toàn thực phẩm, hành nghề y dược tư nhân được quan tâm thực hiện và
thu được kết quả tích cực.
Người dân Cẩm Giàng cũng như bao người dân ở các miền quê khác thuộc
đồng bằng Bắc bộ đều có những phong tục, tập quán tốt đẹp. Họ thờ cúng tổ tiên,
thờ thành hoàng, thần tổ, những người khai phá đất đai, lập làng…để tỏ lòng thành
kính, biết ơn và cầu cho mình nhiều phúc, tránh tai họa, làm ăn gặp nhiều may
mắn, được giàu sang phú quý. Nơi đây còn là mảnh đất của nhiều lễ hội, hầu hết
các lễ hội ở Cẩm Giàng đều gắn liền với các di tích lịch sử- văn hóa. Các lễ hội lớn
thường được tổ chức vào mùa xuân như lễ hội Chùa Giám, lễ hội Đền Xưa, lễ hội
Đền Bia…Trong các lễ hội thường có tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí lành
17


mạnh, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao và nhiều trò chơi dân gian không chỉ thu
hút đông đảo nhân dân trong vùng tham gia mà còn là điểm tham quan du lịch của
du khách thập phương.
Với số lượng dân cư đông, giàu truyền thống văn hóa, nhân dân Cẩm Giàng đã
không ngừng phát huy và phát triển những truyền thống tốt đẹp như: yêu lao động,
yêu cuộc sống, yêu hòa bình, trọng người, hay say học tập… Đây cũng là nguồn
sức mạnh to lớn góp phần phát triển liên minh công - nông - trí thức.
2.2. Thực trạng liên minh công- nông- tri thức hiện nay ở huyện Cẩm
Giàng
2.2.1. Thành tựu của liên minh công- nông- tri thức ở huyện Cẩm Giàng
qua những năm qua
*Số liệu về:
+ Giai cấp công nhân huyện Cẩm Giàng
- Những mặt đạt được:
- Những mặt hạn chế:

+ Giai cấp nông dân huyện Cẩm Giàng
- Những mặt đạt được:
- Những mặt hạn chế:
+ Đội ngũ trí thức huyện Cẩm Giàng
- Những mặt đạt được:
- Những mặt hạn chế:
* Thành tựu của khối liên minh công- nông- tri thức ở huyện Cẩm Giàng
- Mối liên kết ngày càng được củng cố và phát triển lên theo sự phát triển của
đất nước. Theo đuổi sự nghiệp cách mạng của đất nước công nghiệp hóa hiện đại
hóa.
- Công, nông, trí đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hoá, thúc đẩy
lẫn nhau cùng phát triển... Ngoài quan hệ với nhau có tính chất máu thịt còn có
quan hệ về kinh tế, văn hoá, xã hội… khiến sức mạnh của liên minh công, nông, trí
được nhân lên gấp bội.

18


- Đáp ứng dược nhu cầu lợi ích chính trị của từng giai cấp trong liên minh và
các giai cấp khác và cả dân tộc.
- Xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Cơ cấu kinh tế chung là “nông công nghiệp dịch vụ” từng bước phát triển lên
nền kinh tế tri thức. Từng bước hình thành nên QHSX XHCN dựa trên chế độ công
hữu.
- Thực hiện những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế các ngành ví dụ:
Chính sách khuyến nông khuyến ngư, cải cách hành chính…
- Đạt được những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa xã hội: Xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, có những chính sách xã hội cho
người có công với cách mạng, nâng cao dân trí phổ cập giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục

- Gắn với phát triển công nghiệp và khoa học kĩ thuật với phát triển nông thôn
đô thị hóa: Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế văn hóa công trình phúc lợi công
cộng
- Bước đầu đã có những hình thức tổ chức mới để phát huy sức mạnh của Liên
minh công, nông, trí như :
+ Tổ chức Liên kết 4 nhà: Nhà nước, Nhà nông, Nhà khoa học, Nhà doanh
nghiệp trong phát triển nông nghiệp, nông thôn;
+ Liên kết giữa Mặt trận Tổ quốc và các ngành văn hoá thông tin trong xây
dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá ở nông thôn, đô thị;
+ Liên kết giữa ngành Công nghệ Thông tin với các địa phương, các trường
học, các cơ quan... nối mạng Internet về nông thôn.
2.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện liên minh công- nông- tri thức ở huyện
Cẩm Giàng qua những năm qua
Sự liên kết liên minh còn chưa được vững chắc bền vững ở một số nơi mang
tính hình thức không thực chất.
Đôi khi có những xung đột mâu thuẫn không tránh khỏi giữa lợi ích của các
giai cấp.

19


Ví dụ: Việc tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra không bán được hoặc quá rẻ, hay
quan hệ lợi ích giữa nông dân sản xuất ở các vùng nguyên liệu tập trung với các xí
nghiệp chế biến, một số chính sách với nông nghiệp nông thôn còn chưa hợp lý như
đền bù đất đai, thuế, tín dụng
Chênh lệch giữa giá cả hàng hóa công nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản
ngày càng tăng.
Chất lượng nông sản làm ra chưa đảm bảo yêu cầu của công nghiệp chế biến
và xuất khẩu.
Một bộ phận giai cấp công nhân chưa nhận thức rõ được trách nhiệm của mình

với sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, có nơi còn gây khó khăn trong việc giải
phóng mặt bằng để xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, điện hoặc các khu
công nghiệp.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện liên minh côngnông- tri thức ở huyện Cẩm Giàng qua những năm qua
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
- Các chính sách quản lí hành chính còn rườm rà.
- Giáo dục và đào tạo chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Giai cấp công nhân, nông dân còn một số bộ phận có nhận thức chưa theo
kịp thời đại.
- Việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa triệt
để.
- Hoạt động của các tổ chức đoàn kết toàn dân còn mờ nhạt.
CHƯƠNG 3.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỦNG CỐ KHỐI LIÊN
MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC HIỆN NAY Ở HUYỆN CẨM GIÀNG
TỈNH HẢI DƯỜNG
20


3.1. Phương hướng
- Quán triệt thực hiện tốt các Văn kiện của Đảng ta về xây dựng giai cấp công
nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
- Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế và Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Phát hiện, hoàn thiện và nhân rộng những mô hình liên minh công – nông –
trí thức trong thực tiễn.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức

nghề nghiệp của công nhân, nông dân và trí thức.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Quán triệt thực hiện tốt các Văn kiện của Đảng ta về xây dựng giai
cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức
Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc
đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn
vậy, cần có nhận thức toàn diện về giai cấp công nhân trong điều kiện mới, trước
hết đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận vào giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt
ra: về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới; về vấn đề trí thức
hóa giai cấp công nhân và xu hướng phát triển; về sự phân hóa và mối quan hệ
trong nội bộ giai cấp công nhân; về mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các
giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về những xu hướng diễn biến tư
tưởng trong giai cấp công nhân nhằm khắc phục những nhận thức không đầy đủ về
vị trí, vai trò và cả những quan điểm tư tưởng thù địch phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay. Trên cơ sở đó, cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn để xác định chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân
phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
Giải pháp mang tính chiến lược là xây dựng giai cấp công nhân phải gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công
21


nhân; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã
hội. Sử dụng đi đôi với chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho
công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ công
nhân trẻ có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu
vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng trở thành bộ
phận nòng cốt của giai cấp công nhân. Kịp thời phát hiện và tập trung giải quyết

những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với công nhân như: bảo đảm việc làm, tiền
lương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, vấn đề nhà ở, bảo vệ sức khỏe,
quyền dân chủ của công nhân… Để thực hiện tốt các giải pháp trên Huyện uỷ cần
tổ chức quán triệt sâu sắc tới các cấp uỷ đảng ở cơ sở, các doanh nghiệp đóng trên
địa bàn, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Huyện uỷ chỉ thị cho uỷ ban nhân
dân huyện có kế hoạch phát triển đội ngũ công nhân về mọi mặt, hàng năm phải
tổng kết rút kinh nghiệm và có yêu cầu tối thiểu về việc bồi dưỡng nâng cao trình
độ cho công nhân trong các cơ quan, xí nghiệp, các công ty cổ phần, công ty tư
nhân, công ty liên doanh…
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn với xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, xây dựng tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội
trong giai cấp công nhân lớn mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
trong các doanh nghiệp. Chú trọng hơn nữa việc lựa chọn những cán bộ ưu tú trong
giai cấp công nhân, góp phần tạo nguồn cán bộ, từng bước tăng dần tỷ lệ cán bộ
xuất thân từ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp, sớm ban hành và thực thi
các chính sách, pháp luật đối với tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên trong các
doanh nghiệp...
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định rõ phương hướng: “Xây dựng,
phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện
để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch
cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện
22


thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất
lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc
xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp".

Đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng đã tạo ra bước đột phá mới,
phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhằm phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải
quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng
xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân. Phát triển sản xuất nông nghiệp là nền
tảng của chủ trương xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp nông dân. Chương
trình “tam nông” cần được triển khai trên tất cả các mặt: đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, xây dựng nông thôn mới và tạo ra thiết chế pháp lý và trách
nhiệm của cộng đồng đối với nông thôn. Cần có chính sách cụ thể nhằm ưu đãi, thu
hút lao động trình độ cao về các địa phương. Để làm tốt các nội dung trên cần có sự
kết hợp đồng bộ các cấp, các ban ngành trong huyện, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
đến các xã thị trấn một các cụ thể. Lấy Hội nông dân tập thể là cầu lối nhằm thực
hiện các chủ trương chính sách. Sự chỉ đạo và thực hiện của uỷ ban nhân dân các
xã là bắt buộc. Giai cấp nông dân là nhóm dân cư đông nhất ở huyện
Cẩm Giàng sinh sống hàng ngàn đời nay ở làng quê của mình, cùng với giai cấp
công nhân và đội ngũ trí thức sẽ kết thành một khối thống nhất là động lực của cách
mạng trong thời kỳ mới.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ phương hướng: "Xây dựng đội ngũ
trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn
trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng
trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính
sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện,
giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định
23



đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng
và Nhà nước".
Trong thời đại ngày nay, trí thức ngày càng giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển của các quốc gia, dân tộc. Trí thức đang đứng trước những đòi hỏi mới,
cả thời cơ lớn và cả những thách thức lớn. Trước yêu cầu phát triển đất nước, Đảng
phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo đối với trí thức, thấy rõ thực
trạng đội ngũ trí thức nước nhà, có giải pháp đồng bộ xây dựng, phát triển một đội
ngũ trí thức ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Trước hết, cần nắm vững mục tiêu: "Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn
mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng đông và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với trí
thức, giữ trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh công - nông - trí". Trên cơ sở đó, không ngừng mở rộng
dân chủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội
quyết tâm triển khai thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ: từng bước hoàn thiện môi
trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức; xây dựng chính sách trọng
dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi
dưỡng trí thức; củng cố và phát triển các hội trí thức; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với trí thức. Ngay từ các kỳ Đại hội của Đảng các cấp cần có phương
hướng cho việc phát triển đội ngũ trí thức. Huyện uỷ cùng với uỷ ban nhân dân có
chủ trương chính sách ưu tiên, ưu đãi cho đội ngũ trí thức của huyện, thường xuyên
động viên chăm lo giáo dục đến các thế hệ con em nhân dân đặc biệt quan tâm đến
các gia đình nghèo, khó khăn có con em tích cực học tập, có chính sách việc làm
phù hợp cho con em sau học tập.
Có Đảng lãnh đạo, có liên minh công - nông - trí vững mạnh làm động lực
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là bảo đảm vững chắc sự nghiệp đổi mới
đất nước đi tới thắng lợi.


24


3.2.2. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn
Ở huyện Cẩm Giàng, nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm phần lớn, nhiều nơi
còn lạc hậu. Do vậy trước hết phải cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Theo tinh thần văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khoá IX, nội dung công nhiệp hoá, hiện đại hoá nong nghiệp, nông thôn bao
gồm hai vấn đề: Một là chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Hai là, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao
đọng các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động
nông nghiệp.
Để thực hiện nội dung trên phải thực hiện:
- Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị trường
trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân.
- Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và
chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật
nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh
công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả
năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển
công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản…
- Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp
tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên
nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và
nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập,
kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt
bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao

thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước
phát triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 100% số dân cư nông thôn có điện
sinh hoạt; hơn 80% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
25


×