Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Dựa trên cơ sở nào để khẳng định những thay đổi trong chính sách ngoại thương của việt nam là đầy ấn tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.04 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

Môn: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM

Đề bài: Dựa trên cơ sở nào để khẳng định: Những thay đổi trong chính
sách ngoại thương của Việt Nam là đầy ấn tượng.

nhóm 4:

Hà Nội, tháng 3 năm 2012


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra từng ngày từng
giờ và không ngừng biến đổi, phát triển. Việt Nam chúng ta cũng năm trong xu
hướng đó, chúng ta đã có nhiều bước tiến dài, thần kỳ và ngoạn mục trong hơn 30
năm qua, từ một nền kinh tế lạc hậu, lạm phát cao và đóng cửa với thế giới, ngày nay,
chúng ta đã hội nhập sâu rộng và vững chắc với toàn thế giới. Để có những bước tiến
như vậy, không thể không kể đến những chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong
những năm qua. Các chính sách và đường lối lãnh đạo nói chung và chính sách đối
ngoại nói riêng đã thực sự đóng góp cho thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong các chính sách đối ngoại, chính sách ngoại thương có vai trò lớn, góp
phần thúc đẩy các hoạt động giao thương với các quốc gia khác trên thế giới, mở ra
những thị trường mới và tiềm năng cho sản xuất trong nước, góp phần phát huy các
lợi thế vốn có của Việt Nam, giải quyết nhiều vấn đề Kinh tế - Xã hội. Những bước
phát triển của Chính sách Ngoại thương Việt Nam gắn liền với từng bước phát triển
của lịch sử và kinh tế nước ta. Có nhận xét cho rằng: “Những thay đổi trong chính
sách ngoại thương của Việt Nam là đầy ấn tượng”. Để có nói rằng nhận định trên


đã phản ánh đúng thực trạng của Chính sách Ngoại thương của Việt Nam hay không,
chúng ta sẽ dựa vào chính những Chính sách Ngoại thương qua các giai đoạn và
những thành tựu mà nó mang lại cho nền kinh tế Việt Nam để đánh giá.
Chính sách Ngoại thương Việt Nam qua các thời kỳ
1. Chính sách ngoại thương giai đoạn 1976 - 1985
Thời kì 1976-1985, nền kinh tế Việt Nam chuyển từ chia cắt hai miền sang thống
nhất cả nước. Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, hoạt động ngoại thương có
những thuận lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Ở giai đoạn này nền kinh tế
vẫn được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp với tư tưởng
dựa dẫm vào viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nước
ta gặp phải sự bao vây, cấm vận của Mỹ và một số nước phương Tây vì vậy có nhiều
khó khăn trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, đặc biệt với các
nền kinh tế phát triển.
Chính sách ngoại thương trước đổi mới (1976 – 1985).
Nhà nước vẫn duy trì chính sách kinh tế đóng, quan hệ buôn bán với nước ngoài
chưa phát triển, chủ yếu là buôn bán với các nước XHCN, hoạt động xuất nhập khẩu
còn manh mún. Chính vì vậy, chính sách ngoại thương chủ yếu là quản lý, điều chỉnh
các quan hệ kinh tế trong nước và giữa nước ta với các nước XHCN.
• Nhà nước độc quyền quản lý về ngoại thương
Mọi hoạt động ngoại thương đều tập trung vào Nhà nước, Bộ Ngoại thương là
cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước quản lý hoạt động ngoại thương. Bộ Ngoại
thương xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và trực tiếp phân bổ kế hoạch cho các
doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời Bộ trực tiếp điều tiết,
quản lý hoạt động ngoại thương bằng các chỉ tiêu pháp lệnh và thông qua hệ thống
cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Ngoại thương thay mặt Nhà nước trực tiếp
kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
1.1

2
Chính sách Ngoại thương Việt Nam



Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Trong quá trình thực hiện, nếu gặp khó khăn, vướng mắc, các doanh nghiệp phải báo
cáo Bộ và xin ý kiến chỉ đạo, không được tự ý sửa đổi kế hoạch.
• Nhà nước độc quyền kinh doanh ngoại thương
Hoạt động kinh doanh ngoại thương do Nhà nước độc quyền, Bộ Ngoại thương
cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh được kinh doanh xuất nhập khẩu, các
doanh nghiệp này chỉ được kinh doanh những mặt hàng và ngành hàng được cho
phép. Số lượng các doanh nghiệp được phép kinh doanh ngoại thương là rất nhỏ, tính
đến năm 1981, chỉ có 12 doanh nghiệp, năm 1987 là 35 doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp phải thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước: sản xuất
cái gì, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trường nào, thậm chí
nhiều trường hợp ngay cả giá cả cũng do Nhà nước quy định.
• Nhà nước độc quyền về tài sản trong kinh doanh ngoại thương
Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi và các chính sách ngoại thương đó đã gây ra
cho nước ta không ít khó khăn, nhưng kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng
vẫn được tiếp tục phát triển.
Sau đây là kết quả hoạt động xuất, nhập khẩu giai đoạn 1976 -1985:
Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985
Năm
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983

1984
1985
Tổng số

Tổng
KNXNK
1.226,8
1.540,9
1.630,0
1.846,6
1.652,8
1.783,4
1.998,8
2.143,2
2.394,6
2.555,9
18.773,0

Xuất khẩu
222,7
322,5
326,8
320,,5
338,6
401,2
526,6
616,5
649,6
698,5
4.423,5


Nhập khẩu
1.004,1
1.218,4
1.303,2
1.562,1
1.314,2
1.382,2
1.472,2
1.526,7
1.745,0
1.857,4
14.349,5

Đơn vị: Triệu rúp – USD
Cán cân thương mại
Trị giá
Tỉ lệ %
-881,4
22,2
-815,9
28,3
-976,4
25,1
-120,5
21,0
-975,6
25,8
-981,0
29,0

-945,6
35,8
-910,2
40,4
-1.095,4
37,2
-1.158,9
37,6
-9.926,0
30,8

Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm

Qua bảng trên chúng ta thấy:
- Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong
10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của tổng kim ngạch buôn
bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong 10 năm
của xuất khẩu là 13,5% thì của XNK cộng lại là 8,4%, và của nhập khẩu chỉ có 7%/
năm.
- Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhưng trong 10 năm (1976-1985) nhưng giá trị
xuất khẩu cũng chỉ bằng 30,8% tổng giá trị nhập khẩu.
- Cán cân thương mại quốc tế luôn trong tình trạng nhập siêu và nhập siêu có xu
hướng tăng.
3
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu

toàn bộ hay một phần di sản xuất trong nước không đảm bảo.
Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu dùng. Kể
cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng đ ược như lúa gạo,
vải mặc. Trong những năm 1976 -1985 đã nhập khẩu 60 triệu mét vải các loại và gần
1,5 triệu tấn lương thực quy ra gạo.
Xuất khẩu tuy có tăng nhưng trị giá xuất khẩu quá thấp. Hàng xuất khẩu chủ yếu
dựa vào thu gom sản phẩm từ nền sản xuất hàng hoá kém phát triển: 63% trị giá xuất
khẩu của năm 1985 là nông, lâm, thuỷ sản: 28,9% là hàng công nghiệp nhẹ và thủ
công nghiệp.
Thành tựu đạt được:
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã
hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Tháng 7/1978, Việt
Nam ra nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim
ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong
khối SEV đều tăng.
Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23
nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF); ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng Thế
giới (WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB); ngày 209-1977, trở thành thành viên tại Liên hợp quốc. Kể từ năm 1977, một số nước mở
quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam.
Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và
Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với
Việt Nam.18/4/1977 chính phủ ta ban hành điều lệ về đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam.
1.2

2. Chính sách Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1986-1995
Trong năm 1986, tại Ðại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Ðảng Cộng Sản Việt
Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là về kinh tế. Ðó là xóa
bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần,

hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN.
Bên cạnh đó nhà nước ta cũng xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Đến năm 1995, nước ta đã thiết lập
quan hệ buôn bán với hơn 100 nước và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên thế giới;
đã ký Hiệp định hợp tác thương mại với EU; bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Hoa Kỳ (12/7/1995); gia nhập ASEAN (28/7/1995). Với những cải tổ kinh tế vĩ mô
trên đã mang lại nhiều kết qủa đáng khích lệ: tỷ lệ lạm phát từ 774,6% năm 1986 đã
giảm xuống một cách nhanh chóng (năm 1990 là 67,4%; 1995 là 12,7%), trong khi
4
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

đó tốc độ phát triển kinh tế trong giai đoạn 1991-1995, tăng xấp xỉ 9%. Về hoạt động
ngoại thương nói riêng cũng có những thành tựu khá ấn tượng.
Các chính sách ngoại thương:
Xóa bỏ độc quyền ngoại thương của nhà nước, cho phép các thành phần kinh tế khác
tham gia xuất nhập khẩu. Nhà nước chỉ thực hiện quản lý bằng pháp luật và chính
sách.
Chính sách khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu, đẩy mạnh áp dụng biện pháp
thuế quan, giảm thiểu dùng các biện pháp phi thuế…Cơ cấu thuế phức tạp 36 mức
thuế suất từ 0 tới 200% nhưng thuế trung bình tương đối thấp là 13%. Riêng thuế
xuất khẩu từ 0 – 45% đánh lên 58 nhóm sản phẩm như gạo, điều, cà phê, sản phẩm
gỗ, …và có sử dụng dụng hạn ngạch với gạo.
Hạn ngạch với các sản phẩm về dầu khí, phân bón, xi măng, thép, xe hơi, xe
máy, đường và hạn ngạch gộp với nhập khẩu hàng tiêu dùng (9% tổng nhập khẩu).
Tiêu chuẩn: các sản phẩm phải được phê chuẩn đặc biệt như hóa chất, dược phẩm,
radio, điện thoại thiết bị in ấn, …
Kiểm soát ngoại hối: việc kiểm soát ngoại hối được sử dụng như một công cụ

chính sách thương mại mà chính phủ tùy nghi sử dụng. Các doanh nghiệp cần thì phải
xin mua ngoại hối cho từng giao dịch.
Ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước trong hoạch định chính sách.
Chính sách hội nhập: mở cửa nền kinh tế, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế. Theo đó, nước ta đã ký hiệp ước thương mại với EU, bình thường hóa
quan hệ với Hoa Kì (12/7/1995), gia nhập ASEAN (28/7/1995).
2.1

-

-

-

-

Thành tựu đạt được
Biểu đồ 1: Kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1986-1995
Đơn vị tính: Triệu USD

2.2

- Về trị giá xuất nhập khẩu: Trị giá xuất khẩu và nhập khẩu hàng năm lớn
hơn rất nhiều lần giai đoạn trước đó. Từ năm 1986-1990 tốc độ tăng tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu khá đồng đều sau đó từ năm 1991-1995 tăng nhanh: từ 4425,2 triệu
USD đến 13604,3 triệu USD.
- Về tốc độ tăng trưởng: Xuất khẩu tăng bình quân 24%/năm. Từ năm 1986 là
789,1 triệu USD tăng đến 5.448,9 triệu USD. Còn nhập khẩu tăng bình quân
16%/năm từ 1986-1995 tăng từ 2155,1 triệu USD lên tới 8.155,4 triệu USD.
- Về cán cân thương mại: Vẫn còn thâm hụt nhưng nhờ tốc độ tăng trưởng

xuất khẩu cao (so với nhập khẩu, xuất khẩu đã chiếm tỷ lệ từ 33,6% đến 101,5% so
với nhập khẩu hàng năm) nên đã phần nào làm giảm khoảng cách giữa kim ngạch
xuất khẩu và nhập khẩu. Ngoài ra, trong giai đoạn này, đầu tư nước ngoài vào lãnh
thổ nước ta và đầu tư trong nước gia tăng, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và
5
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng là một trong những nguyên nhân gia tăng nhập
siêu, nhưng điều đó lại cần thiết vô cùng cho sư phát triển.
- Về cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu: giai đoạn1986-1995 nước ta mở rộng
hoạt động ngoại thương với 100 nước trên thế giới trong đó có các nước ở châu Âu
và Mỹ. Đặc biệt hoạt động buôn bán với các nước châu Á được đẩy mạnh do có lợi
thế gần về đia lý, cùng khu vực. Châu Á chiếm 22,6% tổng giá trị xuất khẩu và
10,6% tổng giá trị nhập khẩu trong năm 1986 nhưng tới năm 1995 tỉ lệ tương ứng là
72,4% và 77,5% (Nguồn: Vụ xuất khẩu – Bộ Thương mại, giáo trình Kinh tế ngoại
thương, 1997)
- Về cơ cấu mặt hàng: trước đây khi buôn bán với các nước trong khối SEV,
hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta bị thụ động theo những các hiệp định và nghị
định kí kết với. Thời kì 1986-1995 nước ta đã thực hiện buôn bán với các nước tư bản
chủ nghĩa từ đó đã phát huy được những thế mạnh của ta nhiều mặt hàng xuất khẩu
chủ lực gạo, thủy sản, may mặc đã xuất hiện và tạo nên giá trị xuất nhập khẩu tăng
lên nhanh chóng so với thời kì trước đây.
Bảng 2: Tỷ lệ xuất nhập khẩu phân theo nhóm hàng giai đoạn 1986 - 1995
Năm
Nhóm hàng
1. Hàng CN nặng và khoáng sản
2. Hàng CN nhẹ và TTCN

3. Hàng nông sản và NSCB
4. Hàng lâm sản
5. Hàng thuỷ sản
6. Hàng khác
Tổng số

1986
8,0%
28,8%
40,4%
9,1%
13,4%
0,3%
100%

1990
25,7%
26,4%
32,6%
5,3%
9,9%
0,1%
100%

1995
25,3%
28,4%
32,0%
2,8%
11,4%

0%
100%

( Nguồn: Thương mại thời mở cửa, NXB thống kê 1996)

Trong thời kỳ này, có thể thấy tỉ trọng hàng nông sản và nông sản chế biến tuy
có giảm nhưng luôn giữ tỉ trọng cao nhất năm 1986 là 40,4% và năm 1995 là 32%.
Đứng thứ hai về tỉ trọng là hàng công nghiệp nhẹ và TTCN 28,4% năm 1995. Hai
nhóm hàng này đứng đầu về tỉ trọng là điều dễ hiểu vì chúng bao gồm những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta thời kì này. Ngoài ra một điểm chú ý nữa là tỉ
trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng lên nhanh chóng năm 1986 chỉ là
8% nhưng tới năm 1995 đã là 25,3%. Nguyên nhân là do từ năm 1989 nước ta bắt
đầu xuất khẩu dầu thô, và tới năm 1995 khối lượng xuất khẩu dầu thô đã lên tới 7,5
triệu tấn.
Dựa vào những thành tựu mà ngoại thương Việt Nam thời kì này đạt được có thể
thấy những thay đổi trong chính sách ngoại thương thời kì này là đầy ấn tượng.
Chính sách Ngoại thương giai đoạn 1996-2005
Trong giai đoạn 1996 – 2005, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều
biến động.
3.

6
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Trên thế giới, năm 1997- 1998, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã bùng
nổ từ Thái Lan, lan rộng, kéo dài ảnh hưởng tói hầu hết các nước trong khu vực Đông
Nam Á rồi cả Châu Á . Giai đoạn này, Việt Nam đã gia nhập ASEAN nên cuộc khủng

hoảng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế đối ngoại của nước ta.
Năm 2001, thế giới chứng kiến vụ tấn công khủng bố vào nền kinh tế mạnh
nhất thế giới - Mỹ. Việc đầu tàu kinh tế rơi vào suy sụp đã khiến cho kinh tế của thế
giới phát triển chậm lại khiến cho lượng hàng xuất khẩu của nước ta vào thị trường
kinh tế lớn cũng sụt giảm theo.
Trong nước, giai đoạn này là giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của
chúng ta, đánh dấu 1 bước phát triển trong quá trình đổi mới của Việt Nam. Việc bình
thường hóa quan hệ Việt-Mỹ vào năm 1995 đã mang yếu tố quyết định, có tính chất
thời đại. Sau đó, vào năm 9/1996 đã bắt đầu có những cuộc đàm phán song phương
giữa hai bên để có được mối quan hệ tốt đẹp.
Trên cấp độ song phương chúng ta đã ký được nhiều hiệp định như : Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ (2000), Hiệp đinh bảo hộ và
khuyến nghị đầu tư với Nhật Bản (2003)… Ngoài ra, Việt Nam tham gia vào Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN, tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) vào
năm 1996, gia nhập vào APEC năm 1998.
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trong
giai đoạn này chúng ta đã thực hiện nhiều phiên họp nhiều cuộc đàm phán song
phương, đa phương. Đây chính là những hoạt động quan trọng trong quá trình 11 năm
để Việt Nam đến được với WTO.
Quan điểm và các chính sách ngoại thương
Quan điểm về ngoại thương
Chính sách mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài theo hướng đa phương
hóa, đa dạng hóa; khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu theo
quy định của pháp luật; có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt
hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại; hạn chế nhập
khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu,
bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị, công nghệ cao,
kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Quy định các chính sách cụ thể về ngoại thương trong từng thời kỳ và chính sách đối

với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia phát triển ngoại thương.
Năm 2001 chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ trong chính sách thương mại. Một lộ
trình chính sách thương mại cho giai đoạn 2001-2005 đã được đưa ra. Đây là một
thay đổi so với trước đây, khi mà chính sách thương mại chỉ được thông báo theo
từng năm. Lộ trình này đã tạo ra một môi trường minh bạnh hơn và có thể dự báo
3.1
3.1.1

-

7
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

được. Trong khuôn khổ lộ trình này, chúng ta có kế hoạch cho việc dỡ bỏ một lượng
lớn các hàng rào phi thuế quan.
Các chính sách ngoại thương
 Thuế quan:
Nhìn chung, Việt Nam đã sử dụng 3 loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu:
- Mức thuế ưu đãi chung: trong khuôn khổ AFTA được áp dụng cho các quốc gia
ASEAN từ năm 1996. Năm 2005, Việt Nam đã hoàn thành cam kết trong việc xóa bỏ
thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu có xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN. Một
biểu thuế khác được sử dụng cho việc nhập hàng hóa dưới khung khổ hiệp định
thương mại ACFTA( ASEAN_ Trung Quốc) và AKFTA ( ASEAN_ Hàn Quốc).
- Biểu thuế theo chế độ đối xử quốc gia được áp dụng cho các nước thành viên
của WTO và các quốc gia có các hiệp định thương mại song phương với Việt Nam.
- Mức thuế phổ thông được áp dụng cho hàng nhập từ các quốc gia khác. Tuy
nhiên giá trị hàng nhập khẩu trong nhóm này không đáng kể.

 Hạn ngạch và các công cụ phi thuế quan
Việc kiểm soát khối lượng hàng nhập khẩu theo hạn ngạch được sử dụng cho hai
mặt hàng chính là gạo và hàng dệt may theo các thị trường. Hạn ngạch cho việc
xuất khẩu hàng dệt may do Liên minh Châu Âu, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ thiết lập
vào năm 2003. EU và Canada đã cho phép dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của
Việt Nam từ tháng 1 năm 2005, mặc dù lúc đó Việt Nam vẫn chưa phải là thành viên
của WTO. Hạn chế số lượng hàng xuất khẩu đối với hầu hết các sản phẩm khác đã bị
bãi bỏ. Năm 2001, hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng được Chính phủ bãi bỏ.
Công cụ phi thuế quan trước kia chưa được phổ biến, tuy nhiên, trong giai đoạn
2001-2005, nhà nước sử dụng hạn ngạch nhập khẩu với một số mặt hàng như sản
phẩm sữa, thịt...
Các hàng rào hành chính: Các điều kiện tiêu chuẩn về y tế, về an toàn và các thủ tục
hải quan ... Các công cụ quản lý ngoại thương ngày càng được cải tiến để phù hợp
với các hiệp định thương mại mà nước ta đã ký kết với các nước.

3.1.2

-

-

-

Thành tựu
 Tốc độ tăng trưởng cao, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh
- Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên
tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy
nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong
nước 7%/năm.

Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam
(Nguồn : Worldbank)
3.2

8
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình
quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện
hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương
đương với 640 USD.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm,
nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.

-

-

Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu đóng góp vào GDP Việt Nam 1996-2005
Đơn vị: %

Nguồn: Worlbank
Cơ cấu xuất nhập khẩu thay đổi
- Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng
thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt
điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Biểu đồ 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000-2008



-

-

Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị
trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây
dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm.
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng nông,
lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%.
Biểu đồ 5: Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 2000 - 2008
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu không có quá nhiều biến động, mặt hàng Nguyên
nhiên vật liệu vẫn là hàng hóa nhập khẩu chính và có xu hướng tăng. Các mặt hàng
khác có tỷ trọng trong cơ cấu ít thay đổi.
4. Chính sách Ngoại thương giai đoạn 2006-đến nay
9
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Tình hình quốc tế có rất nhiều biến chuyển trong giai đoạn từ 2006 đến nay, đặc
biệt về kinh tế. Thế giới chứng kiến một tốc độ tăng trưởng kinh tế nóng của các nền
kinh tế lên đến đỉnh cao vào năm 2007, sau đó lại rơi vào cuộc đại suy thoái tồi tệ
nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933. Các quy luật kinh tế chịu tác động đan
xen của nhiều yếu tố, nhiều chủ thể trở nên phức tạp và khó dự đoán. Giai đoạn phục
hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 – 2009 kéo dài hơn dự đoán. Nhiều yếu tố

rủi ro còn tiềm ẩn khiến kinh tế thế giới mặc dù tăng trưởng cao hơn mức kỳ vọng
trong 2010 nhưng dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ chỉ phục hồi trở lại vào năm 2012.
Trong nước, suốt 25 năm đổi mới, Việt Nam trở thành nền kinh tế tăng trưởng
nhanh thứ hai tại châu Á, sau Trung Quốc. Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng hết sức
đều đặn, trong giai đoạn 2005 -2010, Việt Nam tăng trưởng khoảng 7%/năm. Đặc biệt
năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO, mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng, hoạt động kinh tế đối ngoại mà nòng cốt
là hoạt động ngoại thương tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế không
chỉ tạo cơ hội cho hoạt động ngoại thương phát triển mà nó còn đặt ra nhưng thách
thức. Do đó, chủ trương, đường lối ngoại thương cần phải được cân nhắc để đảm bảo
tận dụng được cơ hội khi tham gia thương mại quốc tế nhưng cũng tránh đánh mất
chủ quyền dân tộc trên đấu trường quốc tế.



(1)
(2)

(3)

4.1. Quan điểm và Các chính sách ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-nay
Quan điểm về phát triển ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-nay
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đã góp phần thúc
đẩy mọi hoạt độn kinh tế trong đó có ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương: đẩy mạng xuất khẩu, coi xuất khẩu là một hướng ưu
tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Giảm tỷ trọng
sản phẩm thô và sơ chế, tang tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh chế xuất khẩu,
tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ, giảm dần nhập siêu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản

xuất trong nước, bảo hộ đi kèm theo điều kiện và thời hạn để các ngành, các doanh
nghiệp trong nước phải nỗ lực vươn lên cạnh tranh, khẳng định vị trí trên thị trường
quốc tế. Trên cơ sở quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thời kỳ mới, quan điểm
cụ thể để phát triển xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới là:
Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh.
Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu.
Phát triển xuất khẩu góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo,
tạo nhiều việc làm đảm bảo công bằng xã hội, chia sẻ lợi ích hợp lý giữa các thành
phần tham gia xuất khẩu.
10
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam
(4)

Đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ tiên tiến, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong
nước sản xuất được, hạn chế nhập khẩu hàng hóa nguy hại đối với môi trường và sức
khỏe, cân đối xuất, nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán
cân thương mại.
Các chính sách ngoại thương Việt Nam hướng tới: (i) Phải phù hợp, nhất quán,
thống nhất với chính sách phát triển kinh tế- xã hội; (ii) Phải phù hợp với những
nguyên tắc chung của các tổ chức Kinh tế quốc tế; (iii) Phải tuân thủ nguyên tắc sử
dụng ngoại tệ có hiệu quả; (iv) Phải có tác dụng bảo vệ, hỗ trợ đối với sản xuất trong
nước phát triển; (v) Phải kết hợp hài hòa giữa xuất khẩu với nhập khẩu
 Các chính sách ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006- nay
Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương nói riêng đã góp
phần mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, đóng góp lớn tạo động

lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, đẩy nhanh sự nghiệp CNH HĐH đất nước, đồng thời tạo dựng thế và lực trên trường quốc tế…
Năm 2000, Thủ tướng chính phủ đã đề ra “Mục tiêu chiến lược về xuất nhập khẩu
của Việt Nam giai đoạn 2001 -2010”, thể hiện chiến lược phát triển hoạt động ngoại thương,
giảm giá trị nhập khẩu và tăng giá trị xuất khẩu.
Bảng 3: Mục tiêu chiến lược về xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 -2010
Đơn vị tính: Tỷ USD
Xuất khẩu
Giai đoạn
2001 – 2005
2006 – 2010
2001 - 2010

Hàng hóa
% Tăng
Trị giá
trưởng
năm cuối
16%
28,4
14%
54,6
15%

Dịch vụ
% Tăng Trị giá
trưởng năm cuối
15%
4,0
15%
8,1

15%

Nhập khẩu
Hàng hóa
% Tăng
Trị giá
trưởng năm cuối
15%
29,2
13%
53,7
14%

Dịch vụ
% Tăng Trị giá
trưởng năm cuối
11%
2,02
11%
3,4
11%

(Nguồn: Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng chính phủ về
Chiến lược phát triển xuất
– nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010)
Chính sách xuất khẩu:
(1) Đẩy mạnh xúc tiến thương mại với các đối tác nước ngoài:
Xúc tiến thương mại giúp cho Việt Nam ngày càng nhiều cơ hội xuất khẩu sang
nước ngoài. Định hướng chương trình xúc tiến thương mại của Vệt Nam: Đối tác
xuất khẩu chính của Việt Nam trong những năm qua tập trung vào các thị trường phát

triển ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á. Trong đó Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu
quan trọng nhất, sau đó là EU, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN, châu Phi, Trung
Đông, Ấn Độ…. Số lượng, nội dung, quy mô, tính chất của các hoạt động XTTMQG
cũng tăng cao. Theo thống kê, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của tổng xuất
khẩu vào 17 nước đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam là 23,5%. Gần đây,thị
trường khu vực châu Á ngày càng trở nên quan trọng hơn trong xuất khẩu của Việt
Nam với mức tăng trưởng xuất khẩu trung bình đạt 26,3%/năm. Sự trỗi dậy của châu
Á đã mở ra những cơ hội cho Việt Nam tiếp cận thị trường của các nước trong khu
11
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

vực nhờ vị trí địa lý thuận lợi cũng như nhu cầu trên các thị trường này tương đồng
hơn với nhu cầu thị trường trong nước của Việt Nam.
(2) Xây dựng ngày càng nhiều các khu chế xuất:
Khu chế xuất là nơi đặc biệt chỉ dành cho việc sản xuất, chế biến những sản
phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài hoặc dành cho các loại doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất-nhập khẩu tại khu vực đó với các
ưu đãi về các mức thuế xuất-nhập khẩu hay các ưu đãi về giá cả thuê mướn mặt bằng
sản xuất, thuế thu nhập cũng như cắt giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. Mục đích
chính của nó là để nâng cao kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển, bù
đắp bớt một phần thâm hụt trong cán cân thanh toán. Nó còn có mục đích là thu hút
vốn đầu tư nhằm giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động còn khá dồi dào
vào các ngành nghề với định hướng xuất khẩu.
Bảng 4: Các loại thuế xuất – nhập khẩu áp dụng cho doanh nghiệp chế xuất
Các loại thuế
Thuế xuất khẩu
Thuế nhập khẩu


Chính sách
Miễn thuế
Miễn thuế đối với vật tư, nguyên liệu hàng hoá máy móc, dùng cho sản
xuất gia công hàng xuất khẩu và phương tiện vận tải chuyên dùng tạo
thành tài sản cố định của Doanh nghiệp.

(3) Chuyển

-

dịch cơ cấu hàng xuất khẩu:
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đang có sự chuyển mình mạnh mẽ - xuất “thô” ngày
càng bị thu hẹp xuất “tinh” đang dần trở thành chủ lực. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
năm 2010 đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng
công nghiệp, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao. Tỷ trọng
nhóm hàng công nghiệp chế biến so với 2009 tăng mạnh từ 63,4% lên 68,2%; nhóm
hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ 15,2% xuống 11,1%; nhóm hàng nông sản thủy
sản giảm từ 21,5% xuống 20,8%. Trong đó, phải kể đến, xuất khẩu của khu vực FDI
đã có sự tăng trưởng mạnh, tăng 26% (nếu không tính dầu thô tăng 40%). Khu vực
doanh nghiệp FDI tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu trong việc tạo giá trị xuất khẩu, tỷ
trọng xuất khẩu FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng lên.
Chính sách nhập khẩu:
Chính sách nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua nhằm mục tiêu:
Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa đất nước
Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế
cân đối và ổn định
Góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa đảm bảo
thỏa mãn nhu cầu trực tiếp về hàng tiêu dùng đồng thời vừa đảm bảo đầu vào cho

hoạt động sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động qua đó tác động tích cực
tới công tác xuất khẩu
Thuế quan
Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hóa khi nó được vận chuyển xuyên
qua biên giới quốc gia. Thuế quan là công cụ bảo hộ truyền thống và lâu đời nhất, và
12
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

cũng là công cụ bảo hộ duy nhất được WTO cho phép sử dụng vì tính minh bạch và
dễ dự đoán.
Theo cách tiếp cận của WTO chúng ta có thế phân loại thuế quan theo một trong
những cách sau: Theo phương pháp tính thuế, Theo đối tượng đánh thuế, Theo mục
đích đánh thuế, Theo mức thuế suất.
Theo biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của việt nam để thực hiện hiệp định về
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai
đoạn (2008-2013) thì:
- Có 15 mặt hàng về thịt và phụ phẩm gia cầm được cắt giảm từ 20% năm 2008
xuống còn 5% năm 2013
- Có 9 mặt hàng về quả thuộc chi cam quýt và 3 mặt hàng về lúa gạo được cắt
giảm từ 30% năm 2008 xuống còn 5% năm 2013
- Có 19 mặt hàng thuộc thịt và sản phẩm phụ của thịt sau khi giết mổ được cắt
giảm từ 40% năm 2008 xuống còn 5% năm 2013
- Có 33 mặt hàng bao gồm các loại xe ôtô được cắt giảm từ 83% năm 2008
xuống còn 60% năm 2013
- Có 14 mặt hàng thuộc các loại mô tô được cắt giảm từ 90% năm 2008 xuống
còn 60% năm 2013
• Ngoài ra chúng ta còn dành cho 2 quốc gia láng giềng là Lào và Campuchia

những mức thuế suất ưu đãi thấp hơn so với các nước khác.
Với Lào có thuế suất ưu đãi 0%, giảm 50% thuế so với thuế suất trong khu vực
mậu dịch tự do ASEANvà không được hưởng thuế suất.
Về phía Campuchia, chúng ta ký thỏa thuận song phương dành thuế suất ưu đãi
0% cho 60 mặt hàng xuất xứ từ Campuchia và Phía bạn cũng thỏa thuận áp dụng thuế
suất 0% cho 13 mặt hàng từ Việt Nam.
Lộ trình cắt giảm thuế khi gia nhập WTO
Khi gia nhập WTO, chúng ta đồng ý cam kết mức chung ràng buộc trần cho
toàn bộ biểu thuế (10.670 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức
hiện hành 17,2% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm
Nhóm mặt hàng
1. Nông sản
2. Cá, sản phẩm cá
3. Dầu khí
4. Gỗ, giấy
5. Dệt may
6. Da, cao su
7. Kim loại
8. Hóa chất
9. Thiết bị vận tải
10. Máy móc thiết bị cơ khí
11. Máy móc thiết bị điện
12. Khoáng sản

Thuế suất cam kết tại thờiThuế suất cam kết cắt giảm
điểm gia nhập WTO (%)
cuối cùng cho WTO (%)
25,2
29,1
36,8

14,6
13,7
19,1
14,8
11,1
46,9
9,2
13,9
16,1

21,0
18,0
36,6
10,5
13,7
14,6
11,4
6,9
37,4
7,3
9,5
14,1
13

Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Nhóm mặt hàng

13. Hàng chế tạo khác
Cả biểu thuế












Thuế suất cam kết tại thờiThuế suất cam kết cắt giảm
điểm gia nhập WTO (%)
cuối cùng cho WTO (%)
12,9
17,2

10,2
13,4

Hiện tại các mặt hàng nhập khẩu bị nhà nước đánh thuế cao vẫn là các loại hàng
hóa xa xỉ hay hàng hóa không khuyến dụng, cụ thể như sau:
- Nhóm 2404-xì gà, xì gà xén hai đầu, xì gà nhỏ và thuốc lá điếu, chế biến từ lá thuốc
lá hoặc từ các chất thay thế lá thuốc lá, năm 2010 là 120% năm 2011 giảm còn 110%
- Nhóm 8703-xe ôtô và các loại xe khác có động cơ được thiết kế chủ yếu để chở
người(trừ các loại thuộc nhóm 87.02) kể cả chở người có khoang hành lý riêng
và xe đua giảm từ mức 77% năm 2010 xuống còn 73% năm 2011.

Hạn ngạch và các công cụ phi thuế quan khác…
Trong giai đoạn này, việc Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO, các hàng rào phi thuế quan cũng được nới lỏng và dỡ bỏ dần. Cụ
thể, việc dỡ bỏ hạn ngạch xuất nhập khẩu sản phẩm may mặc, đã làm cho trao đổi
hàng may mặc được tự do hóa, ngành may mặc được hưởng nhiều ưu đãi theo cơ chế
chung của tổ chức này. Đây là cơ hội để ngành may mặc cả nước phát triển.
Việt Nam cam kết từ thời điểm gia nhập WTO sẽ không áp dụng mới và không
áp dụng trở lại các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu không phù hợp với quy
định của WTO.
Các nhóm cam kết cụ thể:
-Ngoài các trường hợp hạn chế định lượng vì lợi ích công cộng phù hợp với
WTO, Việt Nam cam kết như sau:
*Bãi bỏ các biện pháp hạn ngạch đang được áp dụng trước thời điểm gia nhập:
Bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may kể từ thời điểm gia nhập;
Bãi bỏ tất cả các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu trừ hạn ngạch thuế quan đối
với thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm, đường thô và đường tinh luyện, muối;
*Bãi bỏ các biện pháp cấm nhập khẩu đang được áp dụng trước thời điểm gia
nhập:
Bãi bỏ biện pháp cấm nhập khẩu thuốc lá điếu và xì gà với điều kiện là việc
nhập khẩu chỉ được thực hiện bởi một doanh nghiệp duy nhất là VINATABA và phải
được Bộ Công Thương cấp giấy phép nhập khẩu tự động;
Bãi bỏ biện pháp cấm nhập khẩu đối với khẩu ô tô cũ không quá 5 năm sử
dụng (việc nhập khẩu không cần giấy phép của Bộ Công Thương, chỉ làm thủ tục trực
tiếp tại hải quan cửa khẩu);
Cho phép nhập khẩu đối với các phần mềm, thiết bị mã hoá thuộc diện tiêu
dùng đại chúng (không liên quan đến bí mật quốc gia) (việc nhập khẩu không cần
giấy phép của Bộ Công Thương, chỉ làm thủ tục trực tiếp tại hải quan cửa khẩu);
Bãi bỏ biện pháp cấm nhập khẩu đối với xe máy có dung tích từ 175 cm 3 trở
lên từ ngày 31/5/2007 với điều kiện người điều khiển xe phải được cấp bằng lái theo
14

Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

quy định của Bộ Giao thông Vận tải và việc nhập khẩu phải được Bộ Công Thương
cấp giấy phép nhập khẩu tự động.
*Việt Nam duy trì biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu dưới hình thức hạn
ngạch thuế quan (thay thế cho giấy phép nhập khẩu trước đây, nếu có) với các mặt
hàng: Thuốc lá nguyên liệu; Trứng gia cầm; Đường thô và đường tinh luyện; Muối.
Với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam đang tham gia vào “Quá trình
xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN” vào năm 2015. Theo đó, “Kể từ năm 2010, sáu
nước phát triển hơn (Indonesia, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Brunei)
bắt đầu áp dụng mức thuế suất 0% đối với hầu hết các mặt hàng, bốn nước còn lại sẽ
thực hiện vào năm 2015. Các nước sẽ hướng tới việc xoá bỏ hết những hàng rào phi
thuế quan năm 2015. Mười nước ASEAN cũng phấn đấu tạo ra chính sách một cửa
quốc gia vào năm 2015, trong đó Singapore và Brunei đang bắt đầu áp dụng, còn Việt
Nam sẽ cố gắng thực hiện vào năm 2013.
4.2. Các thành tựu đạt được
Xuất nhập khẩu tăng mạnh và đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam. Dưới đây là số liệu thể hiện sự tăng trưởng của kim ngạch xuất nhập
khẩu ở Việt Nam.
Biểu đồ 6: Kim ngạch hàn hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2011
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương
Đơnquan
vị: Tỷ WTO
USD mà

mại và mở cửa thị trường của 150 nước thành viên. Các hàng rào thuế
hàng hoá Việt Nam bị áp đặt một cách bất lợi bị bãi bỏ, Việt Nam có thể tăng xuất
khẩu hàng hoá của mình sang thị trường các nước thành viên. Mặt khác, việc thực
hiện các cam kết mở cửa thị trường Việt Nam và yêu cầu đầu vào của nhiều ngành
sản xuất, nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng rất mạnh.
Trong hai năm 2007 và 2008, mức tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt bình
quân khoảng 25 %/ năm. Năm 2009, do khủng hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất
nhập khẩu của Việt Nam bị tụt xuống đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền
kinh tế khác. Mặc dù năm 2009 tình hình xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do thương
mại toàn cầu giảm mạnh, tính trong 3 năm sau gia nhập WTO, tổng kim ngạch xuất
khẩu đạt 167,8 tỷ USD, chiếm gần 64,9% kế hoạch 2006-2010, tổng kim ngạch nhập
khẩu đạt 211 tỷ USD, chiếm gần 73,7% kế hoạch 2006-2010.
Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so
với năm 2009 trong đó 18 mặt xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD với tổng kim ngạch đạt
54.595 triệu USD, chiếm 76% tổng kim ngạch cả nước. Nhiều mặt hàng trong năm
2010 tăng mạnh về số lượng xuất khẩu, giúp duy tăng trưởng xuất khẩu và thể hiện
được quy mô mở rộng sản xuất.
Điểm tích cực đáng kể nữa là cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp tục
thay đổi theo hướng giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản chưa chế biến
15
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

và tăng dần số lượng cũng như giá trị các mặt hàng hàng chế biến, hàng công
nghiệp có giá trị gia tăng cao.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng ở ngành công nghiệp chế tạo và
hàng hóa có hàm lượng chất xám cao. Tỷ trọng hàng hóa ngành công nghiệp chế biến
so với 2009 tăng mạnh từ 63,4% lên 67,9%, nhóm khoáng sản giảm từ 15,2% xuống

11,1%,… Ngôi thứ kim ngạch cao thay đổi trong các năm, với đà tăng trưởng xuất
khẩu sẽ có thêm nhiều mặt hàng đạt 1 tỷ USD.

10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.

18 Mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 2010
Mặt hàng
Kim ngạch (1000 USD)
So với tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước (%)
11172
15.60
1. Dệt may
5079
7.09
2. Giày dép
4953
6.91
3. Thủy sản
4944
6.90
4. Dầu thô

3558
4.97
5. Điện tử. máy tính và linh kiện
3408
4.76
6. Gỗ và sản phẩm gỗ
3212
4.48
7. Gạo
3047
4.25
8. Máy, thiết bị, dụng cụ, phương tiện khác
2855
3.99
9. Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
2376
3.32
Cao su
1549
2.16
Than đá
1504
2.10
Phương tiện vận tải và phụ tùng
1313
1.83
Dây điện và cáp điện
1271
1.77
Xăng dầu

1163
1.62
Cà phê
1136
1.59
Hạt điều nhân
1051
1.47
Sản phẩm từ chất dẻo
1004
1.40
Sắt thép
Tổng cộng
54595
76

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam.

Năm 2010, nhập siêu cả nước đạt khoảng 12,3 tỷ USD, thấp hơn so với dự báo
từ đầu năm 13,5 tỷ USD bằng 17,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đạt mục
tiêu Chính phủ đã đề ra. Một số hàng hóa cần nhập khẩu giảm khá mạnh năm qua là
clinker giảm 38%, xăng dầu giảm 28,6%, khí đốt hóa lỏng giảm 14%, phân bón giảm
22%, thép các loại giảm 10%, ô tô nguyên chiếc giảm 45%,…chủ yếu do sản xuất
trong nước phần nào đáp ứng được nhu cầu.
Về thị trường xuất nhập khẩu:
Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và
khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007,
hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam.
Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng.
Vào năm 2009, trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt

Nam, tỷ trọng nhập khẩu đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa,
Thụy Sĩ, Australia, Hàn Quốc, Singapore, Đức, Malaysia, Philippine…

16
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

Biểu đồ 7: Các thị trường nhập khẩu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam từ năm 2001-2009

Nguồn: www.trademap.org

Việt Nam còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
nhiều nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Singapore,
Mỹ, Malaysia, Ấn Độ, Đức,...
Tuy nhiên, phát triển mạnh của hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua là
động lực thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ ăn theo . Do vậy, góp
phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, tỷ lệ giá trị xuất
nhập khẩu của Việt Nam trên tổng GDP là trên 170 %. Điều này cho ta thấy hai điểm
quan trọng sau. Một là, nền kinh tế Việt Nam gắn kết và phụ thuộc quan trọng vào
nền kinh tế và thị trường thế giới. Hai là, thương mại quốc tế là động lực và yếu tố
then chốt của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

Kết luận
Đánh giá chính sách Ngoại thương của Việt Nam qua các giai đoạn
Từ những phân tích ở trên có thể thấy chính sách ngoại thương của Việt Nam đã
có những chuyển biến đáng kể. Trước năm 1986, chính sách chủ yếu là nhà nước độc
quyền ngoại thương, hoạt động ngoại thương vẫn chỉ được bó hẹp trong phạm vi các
nước xã hội chủ nghĩa, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có tăng nhưng tăng chậm, cán

cân thương mại luôn ở tình trạng nhập siêu và có xu hướng tăng. Tuy nhiên, trong các
giai đoạn sau đổi mới đến nay, chính phủ đã bỏ chính sách độc quyền ngoại thương,
khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu coi xuất khẩu là mục tiêu quan trọng thúc
đẩy thăng dư cán cân thương mại. Từ chỗ bị bao vây cấm vận nước ta cũng đã mở
rộng quan hệ ngoại thương với 169 nước trên thế giới và bình thường hóa quan hệ
được với các nước trung tâm kinh tế chính trị trên toàn thế giới. Nhờ đó mà xuất khẩu
tăng mạnh và đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng kinh tế. Hi vọng trong tương
lai chính sách ngoại thương của nhà nước sẽ có nhiều thay đổi ấn tượng hơn nữa.
Từ những nội dung đã trình bày về nội dung Chính sách Ngoại thương Việt Nam
qua các thời kỳ và thành tựu mà nó mang lại cúng như đánh giá trên, có thể khẳng
17
Chính sách Ngoại thương Việt Nam


Môn Kinh tế đối ngoại Việt Nam

định: “Những thay đổi trong chính sách ngoại thương của Việt Nam là đầy ấn
tượng”

Tài liệu tham khảo
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(1)
(2)

Phan Huy Đường, Kinh tế đối ngoại Việt Nam, (2007), NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội

Website: Ngân hàng Thế giới (www.worldbank.org )
Website: Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn/ )
Website: Tổng cục Hải quan (www.customs.gov.vn/ )
Website: Bộ kế hoạch và đầu tư (www.mpi.gov.vn/ )
Website: Bộ Tài chính (www.mof.gov.vn/ )
Website: Trung tâm WTO – Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam
( />
18
Chính sách Ngoại thương Việt Nam



×