TÍCH HỢP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG VÀO DẠY HỌC PHẦN THỨ
HAI: CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC-TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nằm trong chương trình các môn học ở bậc trung học phổ thông, bộ môn Giáo
Dục Công Dân (GDCD) trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo
sát sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất là
giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ giáo viên
đã và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng cao chất lượng
bộ môn, nâng cao tỷ lệ học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên nếu như nhìn vào điểm số thì
có thể thấy kết quả của bộ môn GDCD tương đối cao, nhưng nếu đánh giá dựa vào
hành vi, thái độ của học sinh, kỹ năng vận dụng của học sinh trong thực tiễn cuộc
sống thì chưa được như mong muốn. Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang lên án
mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi sa đọa… của một bộ phận học
sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến cảnh một số học sinh ở các
cấp học trung học cơ sở, trung học phổ thông đánh nhau, trong khi có rất nhiều học
sinh khác chỉ đứng nhìn và dùng điện thoại quay rồi tung lên mạng mà không hề
can ngăn, hay trình báo với người có chức trách… Câu chuyện về giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh không phải là mới, nhưng đang là yêu cầu cấp thiết đặt
ra hiện nay. Bên cạnh những học sinh biết vượt lên số phận, thì vẫn còn một bộ
phận không nhỏ học sinh ham chơi, vi phạm pháp luật , thiếu kỹ năng sống, không
tự tin làm chủ bản thân. Bên cạnh những thành tựu mà giáo dục đã đạt được thì cần
nhìn thẳng vào hạn chế của giáo dục hiện nay đó là chủ yếu quan tâm đến việc dạy
“chữ” mà chưa quan tâm tới việc dạy “người” một cách toàn diện. Đa số các bậc
phụ huynh coi điểm một số môn học là thước đo sự tiến bộ của con cái, tạo thành
sức ép buộc học sinh chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao mà chưa chú ý
nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng sống, hành vi ứng xử của học sinh trong cuộc
sống thường ngày. Vì sao lại còn tồn tại những vấn đề đó?. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật của học sinh,
bên cạnh trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, một trong những nguyên
nhân sâu xa là do bản thân học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu những kiến thức, suy
nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết… Để phát huy vai trò của môn học và góp phần
khắc phục những tình trạng trên và để giải quyết đúng đắn các vấn đề trong cuộc
sống. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào trong các môn
học, đặc biệt là môn GDCD là việc làm có tính tất yếu. Chính vì vậy bản thân tôi
đã chọn đề tài:“ Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào dạy học phần thứ hai: Công
dân với đạo đức – trong chương trình GDCD lớp 10”, đề phát huy vai trò của môn
học và góp phần khắc phục tình trạng trên.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
2.1 Cơ sở lý luận.
Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm khác
nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức khác
nhau. Thông thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con
người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với sức khỏe cao.
Trang 1
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã
hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể tương tác với những người khác một cách
hiệu quả với các giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), kỹ năng sống là tập hợp rất
nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những
quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý
và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ
kỹ năng sống có thể thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động
đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến những
hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở lên lành mạnh.
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESSCO), kỹ
năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know)
gồm các kỹ năng tư duy như: kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo,
kỹ năng quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng nhận thức được hậu quả…;
Học để làm (Learning to do) gồm các kỹ năng thực hiện công việc vả các nhiệm vụ
như: kỹ năng đặt mục tiêu , kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng quản lý thời
gian, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin…; Học để khẳng định (Learning to be)
gồm các kỹ năng cá nhân như: kỹ năng ứng phó căng thẳng, kỹ năng kiểm soát
cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng thể hiện sự tự tin …; Học để cùng chung
sống (Learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng thương lượng, kỹ năng tự khẳng định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo
nhóm, kỹ năng thể hiện sự cảm thông …
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kỹ năng sống bao gồm một loạt các
kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ
năng sống là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống , học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kỹ năng sống là
kỹ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với người khác và với
xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Như vậy, các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức – “ cái
chúng ta biết” và thái độ, giá trị - “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng?”
“thành hành động thực tế nào?” “làm gì và làm bằng cách nào?” là tích cực nhất
và mang tính chất xây dựng.
Kỹ năng sống thường được thiết lập với một nền tảng riêng biệt, do đó mọi
người có thể hiểu và thực hành. Kỹ năng sống liên hệ mật thiết với những nội dung
giáo dục thực hành giúp chúng ta trả lời những cây hỏi như là: Chúng ta cần làm
gì để có thái độ quyết đoán ? Quyết định của chúng ta liên quan đến những điều
gì?...
Khái niệm kỹ năng sống được hiểu rất khác nhau. Ở một số nước như: Trung
Quốc, Singapore, Thái Lan … đào tạo kỹ năng sống chính là để giáo dục cách vệ
sinh, dinh dưỡng, giáo dục phòng chống bệnh tật hoặc giáo dục hòa bình… Ở một
số nước khác như: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật… kỹ năng sống đào tạo tập trung vào
Trang 2
giáo dục hành vi, giáo dục an toàn trên đường phố hay giáo dục bảo vệ môi
trường…
Kỹ năng sống vừa mang cả tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Tính cá nhân
bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự
phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợp với những
kỹ năng sống ấy. Chẳng hạn: kỹ năng sống của mỗi cá nhân trong thời bao cấp
khác với kỹ năng sống của các cá nhân trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hội
nhập, kỹ năng sống của người miền núi khác với kỹ năng sống ở vùng biển, kỹ
năng sống của người sống ở nông thôn khác với kỹ năng sống của người sống ở
thành phố.
Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn cầu
nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các kỹ
năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội và
tự nhiên. Chính vì vậy rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một
nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008 – 2013 do Bộ Giáo dục và
Đào tạo chỉ đạo, triển khai và thực hiện.
Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận thấy:
những kỹ năng sống cơ bản cần tích hợp cho học sinh thông qua môn GDCD ở bậc
THPT như sau:
- Kỹ năng tự nhận thức.
- Kỹ năng kiểm soát cảm xúc.
- Kỹ năng ứng phó với căng thẳng.
- Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
- Kỹ năng thể hiện sự tự tin.
- Kỹ năng giao tiếp.
- Kỹ năng lắng nghe tích cực.
- Kỹ năng thể hiện sự cảm thông.
- Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn.
- Kỹ năng hợp tác.
- Kỹ năng tư duy phê phán.
- Kỹ năng tư duy sáng tạo.
- Kỹ năng ra quyết định.
- Kỹ năng giải quyết vấn đề.
- Kỹ năng kiên định.
- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm.
- Kỹ năng đặt mục tiêu.
- Kỹ năng quản lý thời gian.
- Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin…
2.2. Cơ sở thực tiễn:
Giáo dục kỹ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng không
xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy nhiên,
đặc trưng của môn GDCD là không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của môn
Trang 3
học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà điều quan trọng hơn là hình thành và phát
triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước các vấn đề liên quan đến nội dung bài học
cho các em. Vì vậy, môn học này có khả năng tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau
với các nội dung giáo dục kỹ năng sống cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ. Tuy
nhiên, khi tích hợp giáo dục kỹ năng sống cần đảm bảo nguyên tắc: không gượng
ép, không làm nặng nội dung, không làm biến dạng môn học. Cụ thể tôi nghiên
cứu và ứng dụng trong 3 năm, so sánh giữa các năm học và đưa ra kết quả khả
quan.
Cụ thể:
Năm 2010-2011 (Chưa tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh vào các bài dạy).
Khảo sát trên 3 lớp 10a1,10a2,10a10 tổng số học sinh: 140 học sinh.
Xếp loại hạnh kiểm: Tốt: 88 học sinh (62.8%); khá: 35 (25%); trung bình: 09
(6.4%); yếu: 08 (7.7%).
Năm 2011-2012 (Đã tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
vào các bài dạy).
Khảo sát trên 3 lớp 10a1,10a2,10a10 tổng số học sinh: 149 học sinh.
Xếp loại hạnh kiểm: Tốt: 80 học sinh (53.7%); khá: 64 (42.9%); trung bình: 04
(2.7%); yếu: 01 (0.7%).
Năm 2012-2013 (Đã tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
vào các bài dạy).
Khảo sát trên 3 lớp 10a1,10a2,10a10 tổng số học sinh: 149 học sinh.
Xếp loại hạnh kiểm: Tốt: 109 học sinh (73.1%); khá: 37 (24.8%); trung bình: 03
(2.0%); yếu: 00 (0.0%).
Trên thực tế, qua một số giờ dạy của đồng nghiệp ở trường hiện nay tôi nhận
thấy, có nhiều giáo viên bộ môn GDCD quan niệm rằng: Tích hợp giáo dục kỹ
năng sống là vô hình dung làm nặng thêm nội dung kiến thức bài học, biến dạng
môn học dưới hình thức đơn điệu khô cứng. Bên cạnh đó, có một bộ phận giáo
viên dạy chéo môn, không tâm huyết với nghề, ít đọc sách báo, ít quan tâm đến các
vấn đề chính trị xã hội, việc tự học, tự bồi dưỡng còn hạn chế, cho nên ngại tích
hợp vì cho rằng chỉ cần tập trung vào kiến thức bài học là đủ, không cần phải tích
hợp những nội dung khác. Từ thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tích
hợp giáo dục kỹ năng sống vào dạy học phần thứ hai: công dân với đạo đứctrong chương trình Giáo Dục Công Dân lớp 10”. Qua đó góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường Trung học phổ
thông Tam Phước.
3.TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Để phát huy vai trò giáo dục của bộ môn, giúp học sinh rèn luyện tinh thần có
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp học sinh có
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp với gia đình bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài
hòa và lành mạnh. Giáo viên phải là những người có lòng nhiệt huyết, biết lựa
chọn và kết hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy
Trang 4
mạnh phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên kịp thời học sinh có
những tiến bộ. Trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện được
mục tiêu giáo dục THPT. Vì vậy, nhận thấy trong rất nhiều biện pháp nhằm phát
huy vai trò giáo dục bộ môn, tôi mạnh dạn sử dụng biện pháp tích hợp giáo dục kỹ
năng sống trong giảng dạy.
Thông qua chương trình GDCD lớp 10, giáo viên có thể tích hợp giáo dục kỹ
năng sống trong một số nội dung trong phần thứ hai:“Công dân với đạo đức”.
Tùy vào nội dung kiến thức của từng bài, từng mục… giáo viên có thể lựa chọn nội
dung thích hợptích hợp. Qua việc giáo dục kỹ năng sống sẽ làm thay đổi nhận thức
của học sinh về môn học và đặc biệt sẽ hình thành một số kỹ năng sống cơ bản cho
học sinh.
- Ví dụ về một số bài có thể vận dụng tích hợp giáo dục kỹ năng sống:
+ Trong bài 10: Quan niệm về đạo đức. Giáo viên có thể tích hợp kỹ năng so
sánh, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng thể hiện sự thông
cảm…
Khi dạy mục 1.a: Đạo đức là gì? Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lấy một số
ví dụ về hành vi của cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng lại trái với chuẩn
mực đạo đức xã hội. Qua ví dụ đó, em rút ra cho mình được điều gì?
Ví dụ 1: Một số bạn đi xe buýt gặp người tàn tật, thương bệnh binh, người già,
trẻ em, phụ nữ mang thai… nhưng không nhường ghế ngồi.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy?
2. Nếu gặp các trường hợp nêu trên em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Ví dụ 2: Trong lớp bố bạn Hoa đau nặng, phải nằm viện, nhưng một số bạn
không hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ Hoa.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy?Vì sao?
2. Nếu chúng ta biết hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích gì được
cho bạn Hoa?
+ Trong bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học. Tùy theo các phạm
trù như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc, giáo viên có thể tích
hợp các kỹ năng phù hợp như: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng nhận thức, kỹ
năng ứng phó với căng thẳng…
Ví dụ 1: Khi dạy xong phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, giáo viên có thể đưa ra
tình huống sau:
Trên đường đi học về, cách trường khoảng 500m Hạnh nhìn thấy mấy viên
gạch vỡ nằm ngay giữa đường. Có lẽ gạch rơi ra từ xe ô tô của ai đó chở vật liệu
xây dựng. Xe vừa lướt qua, bỗng Hạnh chợt nghĩ trên đường trên đoạn đường này
thường xuyên có nhiều xe máy, xa đạp và trẻ con đi qua; nếu cứ để đó thì thật
không an toàn cho người qua lại, thế nào cũng có người bị ngã.
Hạnh nói với mấy bạn cùng đi dừng xe lại để nhặt gạch, kẻo có người bị ngã.
Thế nhưng, một bạn nói đó không phải là việc của các bạn và không ai dừng lại.
Trang 5
Hạnh dừng lại, lặng lẽ nhặt mấy viên gạch vỡ và xếp gọn vào ven đường. Xong
việc, Hạnh đạp xe về nhà và thấy lòng mình thật vui.
Câu hỏi:
1. Tại sao Hạnh lại thấy vui khi nhặt xong những viên gạch vỡ xếp vào ven
đường?
2. Em có suy nghĩ gì về việc mấy bạn cùng lớp không hưởng ứng lời đề nghị
của Hạnh?
3. Nếu có mặt ở đó em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Ví dụ 2: Khi dạy phạm trù hạnh phúc, giáo viên hướng dẫn lớp tiến hành một
trò chơi “ Vẽ cây tâm lý” bằng cách đặt câu hỏi như sau: theo em hạnh phúc được
biểu hiện thế nào? Giáo viên yêu cầu các em vẽ ra những điều làm cho các em
hạnh phúc bằng cách thể hiện qua các nhánh cây như: đạt được điểm cao; bố mẹ
mua cho bộ quần áo mới; giúp bố mẹ một số công việc của gia đình; có được sự
quan tâm; tôn trọng của mọi người; được bạn thân tặng cho một bản nhạc … Với
mỗi biểu hiện học sinh dùng bút màu để vẽ ra. Nhóm nào vẽ càng nhiều nhánh cây
thể hiện những điều làm các em hạnh phúc, biểu thị một vòng tròn khép kín, đẹp sẽ
là nhóm thắng cuộc. Sau phần hoạt động của học sinh, giáo viên có thể kết luận
hạnh phúc là gì? Định hướng trong nhận thức và cách xác định giá trị, làm tăng
thêm kỹ năng hợp tác, lắng nghe, chia sẻ giữa các bạn trong nhóm và lớp học. Học
sinh sẽ tiếp cận với phạm trù hạnh phúc một cách sâu sắc, toàn diện.
+ Trong bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân, gia đình. Giáo viên dùng
phương pháp thảo luận nhóm, với những câu chuyện phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn sự
tập trung của học sinh. Thông qua những câu chuyện, tác động trực tiếp tới suy
nghĩ, cảm xúc của người học. Qua đó giúp học sinh hình thành kỹ năng xác định
giá trị, cảm thông, chia sẻ với những người xung quanh mình. Giúp học sinh tích
cực suy nghĩ để có thể lập luận chặt chẽ, đưa ra những ví dụ dẫn chứng, rèn luyện
tính kiên định, tư duy phê phán và khả năng giao tiếp có hiệu quả. Với những mối
quan hệ trong cuộc sống như quan hệ với bạn bè, bố, mẹ, hàng xóm… học sinh sẽ
lựa chọn cách ứng xử phù hợp với từng đối tượng và trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Kỹ năng giao tiếp được coi là một trong những kỹ năng quan trọng, kỹ năng này có
thể thể hiện bằng lời nói, sự trao đổi thông tin giữa các học sinh hoặc cũng có thể
sử dụng kỹ năng giao tiếp không lời (kỹ năng lắng nghe). Sự lắng nghe, chia sẻ
biết tôn trọng các ý kiến giữa các thành viên trong lớp sẽ làm cho học sinh tự tin,
cởi mở, làm cho mối quan hệ giữa học sinh vào giáo viên trở nên gần gũi. Qua đó
quá trình học tập sẽ tích cực hơn.
Ví dụ: Khi dạy mục 1.b: Thế nào là một tình yêu chân chính? Giáo viên có thể
đưa ra mẫu chuyện sau đây:
Mẫu chuyện 1: Trong buổi giao lưu Hồng đã gặp Sơn và đã thầm yêu Sơn –
một chiến sỹ biên phòng. Gia đình và bạn bè chê bai Hồng vì sao không yêu những
chàng trai có địa vị xã hội, có học vấn, có tiền của… lại yêu một người lính.
Mẫu chuyện 2: Hùng và Hòa học với nhau một lớp từ phổ thông. Hai người
thường xuyên giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều đậu vào Đại
học và đến năm cuối Đại học họ đã công bố cho gia đình và bạn bè về tình yêu của
họ.
Trang 6
Mẫu chuyện 3: Ông An và ông Hoàng là chỗ bạn bè thân thiết. Thủy con gái
ông An một người con gái giỏi giang, xinh đẹp… Hai ông muốn làm thông gia với
nhau nên đã cùng với con trai ông Hoàng tìm mọi cách để có được tình cảm của
Thủy.
Câu hỏi: Trình bày quan điểm về các trường hợp trên?
+ Trong bài 13: Công dân với cộng đồng, tùy vào các trách nhiệm của công
dân với cộng đồng như: nhân nghĩa, hòa hợp và hợp tác, giáo viên có thể sử dụng
phương pháp dự án, tọa đàm, thảo luận nhóm… để tích hợp các kỹ năng phù hợp
như: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng hợp tác và chia sẻ, kỹ
năng thể hiện sự tự tin trước đám đông, kỹ năng đánh giá người khác…
Khi nói đến trách nhiệm nhân nghĩa, giáo viên có thể tích hợp bằng việc đưa
ra các hành vi sau đây:
Ví dụ 1: Chị Nguyễn Thị Bé sinh ra và lớn lên ở huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị. Khi xuất ngũ chị làm quản trang ở nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn.
Nghĩa trang rộng 40 ha là nơi yên nghỉ của 10.462 liệt sỹ cả nước. Tuy công việc
rất vất vả nhưng chị luôn thấy hạnh phúc.
Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về việc làm của chị Bé?
Ví dụ 2: Đền bù, giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề quan tâm trong các công
trình xây dựng cơ bản.Tuy nhiên, mặc dù không có kinh phí hỗ trợ đền bù, gần
chục hộ dân thôn Tân Mỹ, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã
hiến gần 200m2 đất ở của gia đình để công trình giao thông thuộc dự án giao thông
nông thôn 3 do Bộ Giao thông – Vận tải làm chủ đầu tư đi qua địa bàn được triển
khai đúng tiến độ.
Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về việc làm của các hộ dân thôn Tân Mỹ, xã
Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang?
+ Trong bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bài học
này thích hợp với việc lồng ghép các kỹ năng như: kỹ năng đảm nhận trách nhiệm,
kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng giải quyết các vấn đề, kỹ năng kiên định…
Khi dạy mục 2: Trách nhiệm xây dựng Tổ quốc, giáo viên có thể tích hợp giáo
dục kỹ năng sống bằng việc đưa ra tình huống sau:
Anh Nguyễn Văn Hùng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xã Hương Điền, huyện
Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi học xong cấp 3, anh đậu vào trường Đại học
Nông nghiệp I – Hà Nội, ra trường với tấm bằng loại giỏi. Anh được rất cơ quan,
xí nghiệp ở thủ đô Hà Nội mời về làm việc với mức lương rất cao, nhưng anh đã từ
chối. Vì anh muốn trở về mảnh đất nơi mình sinh ra để góp một phần sức lực của
bản thân mình xây dựng quê hương, đất nước.
Câu hỏi: Em suy nghĩ gì về hành động của anh Hùng? Nếu sau này học xong
Đại học em có hành động như anh Hùng không? Vì sao?
Sự kiện Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Một số người đã thể hiện lòng yêu nước bằng việc đập phá các nhà
máy, xí nghiệp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam.
Câu hỏi: Với vị trí là một học sinh Trung học phổ thông, em có suy nghĩ và
hành động gì cho phù hợp?
Trang 7
Khi dạy mục 3: Trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, giáo viên có thể tích hợp giáo
dục kỹ năng sống bằng việc đưa ra tình huống sau:
Anh trai Nam có giấy gọi nhập ngũ. Bố mẹ Nam không muốn con đi bộ đội
nên tìm cách xin cho anh ở lại.
Câu hỏi: Theo em, Nam nên làm gì khi biết ý định của bố mẹ? Vì sao?
+ Trong bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Giáo
viên có thể sử dụng phương pháp động não, xử lý tình huống, phân tích thông tin,
trình bày 1 phút… để rèn luyện kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng thể
hiện sự tự tin, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phản hồi tích cực…
Khi dạy đến nội dung cấp thiết của nhân loại hiện nay, giáo viên cho trình
chiếu các đoạn băng hình hoặc giáo viên yêu cầu trình bày các sản phẩm tự sưu
tầm được (yêu cầu học sinh chuẩn bị trước) về tình hình ô nhiễm môi trường; sự
bùng nổ dân số, đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam và thế giới.
Ví dụ 1: Phóng sự xả nước thải ra dòng sông Thị Vải làm ô nhiễm môi trường
của tổng công ty Vedan (ngày 26/09/2008)
Ví dụ 2: Video bùng nổ dân số (ngày 11/07/2011)
Ví dụ 3: Clip đau lòng và những điều bạn không biết về HIV/AIDS (ngày
01/12/2011)
Câu hỏi: Gáo viên yêu cầu học sinh quan sát và phát biểu các em biết gì về
những vấn đề này?
Ví dụ 4: Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm trình bày các sản phẩm tự sưu
tầm được về tình hình ô nhiễm môi trường; sự bùng nổ dân số; đại dịch HIV/AIDS
ở Việt Nam và trên thế giới. Các nhóm khác chất vấn, nhận xét, bổ sung, sau đó
giáo viên kết luận.
+ Trong bài 16: Tự hoàn thiện bản thân. Giáo viên dùng phương pháp thảo
luận nhóm; phương pháp động não… để tích hợp giáo dục các kỹ năng như: kỹ
năng đặt mục tiêu, kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng ra quyết định; kỹ năng thể
hiện sự tự tin; … với phương pháp này giáo viên có thể tập hợp nhiều ý kiến khác
nhau trong một thời gian ngắn, tạo không khí học tập sôi nổi, học sinh sẽ chủ động,
tích cực, tự tin. Để tự hoàn thiện bản thân học sinh phải tự nhận thức được mặt
mạnh và mặt hạn chế của mình, biết được những giá trị định hướng niềm tin và
hành động trong cuộc sống. Việc giáo viên hướng dẫn học sinh đặt ra mục tiêu
giúp cho người học sống có định hướng, không có quá nhiều ảo tưởng. Kỹ năng
này làm cho việc tiếp cận mục tiêu đề ra một cách cụ thể, thực tế. Học sinh xác
định mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh của bản thân, xác định đúng những thuận lợi,
khó khăn trước mắt và có kế hoạch cho những giai đoạn thực hiện mục tiêu. Học
sinh cũng đồng thời quyết định được quyết tâm là nhân tố quan trọng, là động lực
thúc đẩy việc thực hiện đạt tới mục tiêu đề ra. Từ đó sẽ thay đổi nhận thức, thái độ
học tập, khắc phục tình trạng học đối phó, học “không tư duy" của học sinh.
Khi dạy mục 2.a. Thế nào là tự hoàn thiện bản thân? Giáo viên cho học sinh
nghiên cứu 2 mẫu chuyện trong sách giáo khoa GDCD 10 (trang 113); hoặc 2 mẫu
chuyện sau đây để tích hợp vào bài:
Mẫu chuyện 1: Anh Lê Hồng Sơn – sinh năm 1979, nhà ở vùng 3, xã Phú Gia,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, bị tật nguyền từ bé, cả hai tay anh đều không vận
Trang 8
động, cử động được. Với nghị lực vươn lên, anh đã tự chọn một nghề để làm nuôi
sống mình và giúp thêm được cho gia đình – nghề mộc. Nghề này đã khó với
người bình thường có đủ chân tay, lại càng khó hơn cho người khuyết tật. Hồng
Sơn đã kiên trì tập nghề mộc hàng ngày, dùng đôi chân của mình làm thay đôi tay
để đục, cưa, xẻ, đóng. Từ những chiếc ghế đơn giản, cho đến chiếc tủ, chiếc bàn
uống nước, chiếc phản… anh lần lượt làm được và làm rất đẹp. Anh dùng hai chân
đục, ghép mộng, ghép gỗ thành thạo, khéo léo như đôi tay của người thợ cả. Sản
phẩm của anh được nhiều bà con mua về dùng. Nhưng cảm phục hơn, khi anh đã
giỏi nghề và bán được nhiều sản phẩm, anh đã tự mở một tổ sản xuất, sửa chữa đồ
gỗ tại nhà, mời thêm nhiều người khuyết tật trong xã về cùng làm mộc. Việc làm
của anh đã được Chủ tịch nước gửi thư khen ngợi, được Bộ LĐTB&XH tặng bằng
khen.
Mẫu chuyện 2: Anh Nguyễn Công Hùng – 24 tuổi, quê ở xã Nghi Diên, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, bị liệt và teo hai chân từ nhỏ, nhưng với nghị lực vượt lên
số phận, anh tự học tin học, trở thành thầy giáo dạy tin học ngay tại nhà anh. Hiện
nay cơ sở anh dạy tin học cho gần 200 cháu nhỏ, riêng những cháu khuyết tật được
anh dạy miễn phí. Công Hùng từ năm 2005 đến năm 2006 đã nhận được nhiều giải
thưởng như: “Hiệp sỹ công nghệ thông tin” – 2005, giải thưởng “ Ngày sáng tạo
Việt Nam”, giải thưởng “Hội thi tin học không chuyên toàn quốc lần thứ ”, và gần
đây nhất – giải thưởng “Qũy học bổng mãi mãi tuổi 20” (Qũy liệt sỹ Đặng Thùy
Trâm – tặng giải thưởng cho những gương mặt thanh niên, sinh viên xuất sắc nhất
toàn quốc – 2006).
Câu hỏi: Nêu suy nghĩ của bản thân về các nhân vật trên?
Việc giáo viên đưa ra tình huống, các mẫu chuyện, các trò chơi… giúp giảm
lối học thụ động, sách vở, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế,
khuyến khích học sinh tích cực xem xét, thảo luận về một tình huống, một câu
chuyện, nhân vật có thật trong thực tế. Với những tình huống giáo viên đưa ra, học
sinh tiếp nhận lý thuyết bằng cách giải quyết những vấn đề thực tế. Từ đó tăng
cường khả năng suy nghĩ độc lập, kiên định khi tiếp cận tình huống dưới nhiều góc
độ, tăng cường tính sáng tạo để tìm giải pháp cho vấn đề, kỹ năng đánh giá các giải
pháp đã lựa chọn. Kỹ năng phát triển giao tiếp, ứng xử, tinh thần tập thể, tính trách
nhiệm và tự khẳng định mình của học sinh. Nâng cao lòng tin vào khả năng giải
quyết vấn đề trong tương lai.
Việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống là hướng đến người học, một mặt đáp
ứng nhu cầu của người học tạo ra những năng lực để đáp ứng trước những thử
thách của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác
việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào bộ môn thông qua những phương pháp
hướng đến học sinh, phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò
chủ động, tự giác của học sinh sẽ có những tác động tích cực đến mối quan hệ giữa
thầy, cô giáo và học sinh, giữa học sinh với học sinh. Đồng thời học sinh sẽ cảm
thấy mình được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của bản
thân, học sinh sẽ thích thú và tích cực học tập hơn. Trên cơ sở đó chất lượng giáo
dục cũng được nâng lên.
Trang 9
Để việc tham gia rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được hiệu quả, cần hội
tụ 4 yếu tố cơ bản: Bản thân các em, gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh cần
có sự cố gắng và hợp tác với thầy, cô giáo trong quá trình học tập. Gia đình phải
thương yêu, định hướng, hỗ trợ tạo điều kiện nhưng không bắt ép các em, cha mẹ
cần dành nhiều thời gian lắng nghe con mình hơn. Gia đình động viên giúp các em
trách xa tệ nạn xã hội, bố trí thời gian học tập, vui chơi phù hợp. Gia đình phải là
nơi xây dựng cho các em thái độ yêu thích môn học, không coi nhẹ môn học.
Chính việc làm này sẽ giúp học sinh hoàn thiện hơn về nhân cách, đạo đức, nâng
cao được chất lượng giáo dục. Với nhà trường, quan tâm đào tạo và lồng ghép tích
cực để tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện kỹ năng sống. Giáo viên phải đến với học
sinh bằng trái tim nồng ấm, chan chứa tình yêu thương và trách nhiệm của mình.
Đối với xã hội cần có những chủ trương, chính sách kịp thời để nhà trường có điều
kiện, có cơ sở đưa các nội dung giáo dục kỹ năng sống tích hợp vào trong các môn
học.
Thiết nghĩ việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống chỉ là một trong rất nhiều các
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, cần khẳng định việc tích hợp giáo
dục kỹ năng sống không phải là giải pháp vạn năng để giải quyết được tất cả
những tồn tại trên. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tích cực chủ
động áp dụng các biện pháp khác nhau để giúp cho học sinh hình thành các kỹ
năng sống phù hợp với các lứa tuổi. Bản thân tôi nhận thấy không chỉ môn GDCD
tích hợp giáo dục kỹ năng sống mà các môn khác trong hệ thống giáo dục cũng có
thể làm được điều này.
4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói rằng người giáo viên dạy giáo dục công dân phải là nhà chính trị
lão luyện, là người nghệ sỹ đích thực, đam mê, tâm huyết với mỗi tiết dạy, phải
lường hết và ứng xử linh hoạt, khéo léo trước mọi tình huống không có trong “
kịch bản”, phải thả hồn vào mỗi bài dạy để thắp sáng trong trái tim học trò những
rung cảm lành mạnh trước cái đẹp, cái chính nghĩa, cái cao cả của cuộc đời, thanh
lọc tâm hồn bằng thứ ánh sáng thuần khiết trong suốt như pha lê.
Chính sự thao thức trăn trở đã là yếu tố quan trọng quyết định thành công của
giờ dạy. Kinh nghiệm bản thân cho thấy: Sau khi tích hợp nội dung giáo dục kỹ
năng sống vào trong các bài dạy thì học sinh học say sưa hơn, hứng thú cảm nhận
bài, đồng thời có nhiều em đưa ra những phát hiện, những ý tưởng, những câu trả
lời khá thú vị và sâu sắc, giúp học sinh hình thành mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè,
gia đình, người thân và mọi ngườixung quanh, sống chủ động tích cực, tránh xa
các tệ nạn xã hội, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng. Từ đó kết quả
học tập và rèn luyện đạo đức cũng được nâng cao.
Qua khảo sát tại 3 lớp có chất lượng tương đương như 3 lớp tôi đã khảo sát
trước, thu được kết quả sau:
Năm học 2010 – 2011: (Chưa tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh vào các bài dạy)
Khảo sát trên 3 lớp 10a1,10a2,10a10 tổng số học sinh: 140 học sinh.
Trang 10
Xếp loại hạnh kiểm: Tốt: 88 học sinh (62.8%); khá: 35 (25%); trung bình: 09
(6.4%); yếu: 08 (7.7%).
Năm học 2011 – 2012: ( Đã tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh vào các bài dạy)
Tổng
Kết quả xếp loại học lực
Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Lớp
số
Giỏi Khá
TB
Yếu Kém Tốt
Khá
TB
Yếu
10A1 50
0
12
37
1
0
20
23
5
2
(0%) (24%) (74%) (2%) (0%) (40%) (46%) (10%) (4%)
10A2 49
0
10
39
0
0
19
24
5
1
(0%) (20%) (80%) (0%) (0%) (39%) (49%) (10%) (2%)
10
10A
50
0
12
36
2
0
23
21
4
2
(0%) (24%) (72%) (4%) (0%) (46%) (42%) (8%) (4%)
Năm học 2012 – 2013: (Đã tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh vào các bài dạy)
Tổng
Kết quả xếp loại học lực
Kết quả xếp loại hạnh
Lớp
số
kiểm
HS
Giỏi Khá
TB
Yếu Kém Tốt
Khá
TB Yếu
10A1 50
0
20
30
0
0
35
15
0
0
(0%) (40%) (60%) (0%) (0%) (70%) (30%) (0%) (0%)
10A2 48
0
22
26
0
0
34
14
0
0
(0%) (46%) (54%) (0%) (0%) (71%) (29%) (0%) (0%)
10
10A
51
0
23
28
0
0
37
14
0
0
(0%) (45%) (55%) (0%) (0%) (73%) (27%) (0%) (0%)
Từ số liệu trên đã cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa việc áp dụng dạy học
kỹ năng sống trong các tiết học môn GDCD trên lớp, từ kết quả học tâp đến hạnh
kiểm của học sinh được nâng cao rõ rệt, bản thân học sinh cũng rất hứng thú trong
mỗi tiết học. Hơn hết là các em biết và vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc
sống,trong cách đối nhân xử thế, sống có ý tưởng, có mục đích và tự bảo vệ mình
trước những cám dỗ của cuộc sống.
Trong hệ thống các môn khoa học, môn GDCD có vai trò rất lớn trong việc
hình thành kỹ năng sống cho học sinh, thế nhưng cho tới nay việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trong môn học còn bị coi nhẹ - một trong những nguyên nhân cơ
bản làm cho đạo đức, tư cách, lối sống của một bộ phận học sinh đang xuống cấp ở
mức báo động, đe dọa đến sự phát triển nhân cách của học sinh.
Trang 11
Chính vì vậy, trong đề tài: “Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy
phần thứ hai: Công dân với đạo đức – trong chương trình GDCD lớp 10”. Với
những phương pháp tích hợp như trên, bước đầu đã thu được những kết quả khả
quan về chất lượng dạy và học của bộ môn, đặc biệt là góp phần to lớn trong việc
giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh.
Để nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cần phải tích hợp giáo dục kỹ
năng sống vào một số nội dung của chương trình GDCD. Cần phải hiểu việc tích
hợp kỹ năng sống không làm nặng nề, quá tải nội dung kiến thức, mà làm cho học
sinh sẽ hứng thú hơn với môn học, không còn cảm thấy kiến thức khô khan, xa vời
mà thiết thực, gần gũi. Giúp cho học sinh cảm thấy bài học nhẹ nhàng, bổ ích. Giáo
dục kỹ năng sống là hình thành cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực. Trên
cơ sở đó giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng thích hợp.
Đánh giá chất lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các kỹ năng
sống và tác động của kỹ năng sống đối với xã hội, học sinh.
Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục bộ môn, giáo viên cần nhận thấy rõ
được thực trạng của quá trình giáo dục, đưa ra những cách thức khác nhau phù hợp
với đặc điểm của môn học, đặc điểm của từng học sinh, điều kiện của từng lớp.
Trong đó việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một trong những
việc làm cần thiết. Kỹ năng sống được coi là một khía cạnh của chất lượng giáo
dục, đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá kỹ năng
sống của học sinh.
Cách tích hợp như trên có thể áp cho bất kỳ một bài học nào với sự thiết kế và
kinh nghiệm sư phạm của từng giáo viên, song đòi hỏi mỗi giáo viên phải có đầu
tư khá nhiều thời gian và công sức để thu thập tài liệu, thông tin, để lựa chọn nội
dung tích hợp cho phù hợp với bài học.
5. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hình thành kỹ năng sống, bản thân
tôi đã và đang nỗ lực học hỏi, lựa chọn phương pháp dạy học trong đó có việc tích
hợp giáo dục kỹ năng sống cho phù hợp với đặc thù môn học, bám sát đối tượng
học sinh, rèn luyện kỹ năng và tinh thần tự giác, trung thực trong hoạt động học
tập, qua kiểm tra, đánh giá, phản ánh đúng năng lực học sinh. Tôi mạnh dạn đề
xuất một số kiến nghị sau:
5.1 Đối với Sở GD&ĐT Đồng Nai
- Cần hỗ trợ, tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học
như: máy chiếu Projecter, máy chiếu hắt, các phòng chức năng, đồ dùng dạy học,
băng đĩa, các tư liệu tham khảo… để tạo điều kiện cho giáo viên có thể đổi mới
phương pháp và tích hợp các vấn đề chính trị, xã hội vào bài dạy môn GDCD tích
cực, hiệu quả hơn.
- Quan tâm, chỉ đạo sát sao việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo
dục, kịp thời động viên, khen thưởng những giáo viên đã có những sáng tạo và thu
được kết quả tốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Trang 12
- Tổ chức các hội thảo nâng cao chất lượng bộ môn, qua hội thảo giáo viên có
thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp trong việc thực hiện các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Mở lớp tập huấn về tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong bộ môn GDCD.
- Tiếp tục tổ chức cuộc thi giáo viên dạy giỏi bộ môn, các cấp, ngành quan tâm
đúng mức đến bộ môn.
5.2. Đối với các trường THPT
- Tổ chức các buổi ngoại khóa với các nội dung trong chương trình, tạo sân
chơi lành mạnh cho học sinh, giúp các em phát huy hết năng lực, sở trường của
bản thân mình, tránh xa các tệ nạn xã hội.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục thái độ, động cơ, mục đích học tập, lao động đúng đắn- hình thành kỹ năng
sống cho học sinh.
Trên đây là một chút kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân tôi. Chắc chắn những
trăn trở của bản thân tôi vẫn không tránh khỏi thiếu sót, sai sót, vụng về. Kính
mong sự góp ý, bổ sung, giúp đỡ của đồng nghiệp.
Trang 13
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Thị Tố
Oanh… “ Giáo dục kỹ năng sống trong môn giáo dục công dân ở trường THPT” –
NXB giáo dục, 2010.
- Mai Văn Bính “Giáo dục công dân 10” - NXB giáo dục, 2007
- Mai Văn Bính “Giáo dục công dân 10” sách giáo viên - NXB giáo dục,
2006.
- Lê Văn Chiến “Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống cho trẻ em” – NXB trẻ,
2006.
- Lê Văn Chiến “Kỹ năng sống dành cho bạn trẻ” – NXB trẻ, 2006.
- Hồ Thanh Diện “Câu hỏi luyện tập giáo dục công dân 10”-NXB giáo dục,
2006.
- Đinh Văn Đức “Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn giáo dục công
dân” – NXB Đại học sư phạm, 2010.
- Vũ Hồng Tiến “Tình huống giáo dục công dân 10” – NXB giáo dục, 2008.
- Diane TillMan “Những giá trị sống cho Tuổi trẻ” – NXB TP.HCM, 2000.
- Larry King “Những bí quyết giao tiếp tốt” – NXB TP.HCM, 2008
- Fileserve “Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống của Unicef” – NXB TP.HCM,
2004.
- Website: www.tailieu.vn, www.ketnoisunghiep.vn, www.kynang.edu.vn,
www.hieuhic.com, www.kynangmem.com, o.
Trang 14
7. PHỤ LỤC
Trang
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ...................................................................................1
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.............................................................1
2.1. Cơ sở lý luận ...............................................................................................1
2.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................3
3. TỔ CHÚC THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP ....................................................4
4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI...............................................................................10
5.ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP.......................................................12
5. 1. Đối với Sở GD & ĐT Đồng Nai...................................................................12
5. 2. Đối với các trường THPT...........................................................................13
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................14
Người thực hiện
Mai Thị Phương
Trang 15