PHẦN MỞ ĐẦU
Quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền dân sự cơ bản của con
người được pháp luật bảo hộ. Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định
khác. Việc tôn trọng quyền nhân thân của người khác là nghĩa vụ của mọi người và cũng
là nghĩa vụ của chính bản thân mình. Khi thực hiện quyền nhân thân của mình nguyên
tắc không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Trong một xã hội tốt đẹp mọi quyền dân sự trong đó có quyền nhân thân của cá
nhân sẽ được mọi người tôn trọng, không bị xâm phạm. Trên thực tế của đời sống xã hội
do nhận thức của mỗi người khác nhau, việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
không những gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền dân sự của cá nhân đó mà còn
ảnh hưởng tới trật tự pháp lý của xã hội.
Mỗi cá nhân luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển thể chất và các nhu
cầu về tư tưởng, tinh thần; gắn liền với hai quyền đó là quyền về tài sản và các quyền về
nhân thân. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của pháp luật dân sự cho thấy trong thời gian qua
quyền nhân thân của cá nhân chưa được điều chỉnh hoàn thiện trong Bộ Luật dân sự
2005. Bên cạnh, các quyền nhân thân lại được nhiều ngành luật khác điều chỉnh như:
Luật Hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân: phong
các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận
các chức danh… Luật Hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những
hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân được coi là tội phạm ( như các
tội: Vu khống, Làm nhục người khác, Làm hàng giả…).
Để quyền nhân thân luôn được bảo đảm thực thi; được tôn trọng và được pháp luật
bảo hộ, nhất là quyền nhân thân trong thương mại điện tử. Đề tài nghiên cứu sẽ giới thiệu
cơ bản quyền nhân thân; đặc điểm cơ bản quyền nhân thân và phân loại quyền nhân thân
trong mối quan hệ thương mại điện tử. Bên cạnh, đề xuất định hướng biện pháp và giải
pháp nhằm hoàn thiện quyền nhân thân trong Bộ Luật dân sự 2005, góp phần góp ý bổ
sung cho các nhà lập pháp định hình rõ nét bản chất của các quyền nhân thân, tiến tới
hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ quyền nhân thân, đáp ứng thích
nghi và kịp thời cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đất nước ta hiện nay, nhất là
đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phát triển xã hội ngày càng tiến bộ hơn trên nền
tảng “xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”.
1
CHƯƠNG 1
QUYỀN NHÂN THÂN VÀ PHÂN LOẠI
QUYỀN NHÂN THÂN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Trong các mối quan hệ xã hội, quyền con người nói chung và quyền nhân thân nói
riêng, là những vấn đề có tính lịch sử lâu đời cả về phương diện lý luận cũng như thực
tiễn. Quyền nhân thân nói chung, có thể chia thành năm nhóm:
- Nhóm các quyền chính trị;
- Nhóm các quyền dân sự;
- Nhóm các quyền kinh tế;
- Nhóm các quyền văn hóa;
- Nhóm các quyền xã hội.
Pháp luật dân sự là công cụ để thực hiện quyền dân sự của công dân. Mỗi cá nhân,
luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển thể chất và các nhu cầu về tư tưởng; tinh
thần, gắn liền với hai loại quyền trên là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân.
Quy luật cho thấy khi con người đã phần nào thỏa mãn những lợi ích về mặt vất
chất, người ta sẽ quan tâm nhiều hơn đến những giá trị tinh thần, coi đó là bộ phận không
thể thiếu trong cuộc sống và đòi hỏi những giá trị đó ngày càng mở rộng và tôn trọng
hơn. Đối với nước ta hiện nay, đặc biệt là trong gia đoạn hội nhập quốc tế và phát triển
nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình trạng quyền nhân
thân bị xâm phạm và không được bảo vệ thỏa đáng là khá phổ biến và đang trong tình
trạng ngày càng gia tăng. Việc làm cho mỗi cá nhân nhận biết được những giá trị nhân
thân của mình và tôn trọng giá trị quyền nhân thân của người khác là một việc làm mang
tính cấp thiết và lâu dài.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề quyền nhân
thân trong thương mại điện tử của cá nhân là một vấn đề hết sức thiết yếu và cấp bách.
Từ đó, đưa ra những phương án, giải pháp để bảo vệ quyền nhân thân cũng như hoàn
thiện pháp luật về quyền nhân thân nhằm đảm bảo hơn công bằng và văn minh xã hội.
1.1. Khái niệm quyền nhân thân
a. Một số quy định về quyền nhân thân
Điều 21. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Quy
định:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và
bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
2
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và
các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Điều 24. Bộ Luật dân sự 2005. Quy định quyền nhân thân:
“Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.”
Điều 25. Bộ Luật dân sự 2005 (BLDS 2005). Quy định bảo vệ quyền nhân thân:
“Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người
vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người
vi phạm bồi thường thiệt hại.”
Điều 46. Luật giao dịch điện tử 2005. Quy định bảo mật thông tin trong giao dịch
điện tử:
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp
với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin
về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận
hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá
nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật dân sự không chỉ là công cụ để bảo
vệ những quan hệ tài sản, bảo vệ những giá trị vật chất, mà pháp luật dân sự còn là công
cụ hữu hiệu để cá nhân bảo vệ những giá trị tinh thần của mình.
Quyền nhân thân được quy định trong BLDS 2005 “ là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của người khác. Mọi người có nghĩa
vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Quyền nhân thân được hiểu dưới gốc độ pháp luật nói chung, đó là một dạng quyền
của cá nhân trong lĩnh vực dân sự. Dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền nhân thân là tiên
đề hình thành nên quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với
người về một giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân
là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá
nhân hay tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên
tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Đó là quyền dân sự tuyệt đối.
b. Đặc điểm cơ bản của quyền nhân thân
Bộ Luật dân sự 2005 điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những
giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các
3
quyền nhân thân đó. Đồng thời, quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân
thân ( Điều 25 BLDS 2005).
Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do Bộ Luật dân sự điều chỉnh
có thể chia làm hai nhóm:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Những quan hệ nhân thân do Bộ Luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:
- Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể dịch
chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể
được dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định
(quyền công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…).
- Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền - Giá trị nhân thân và tiền tệ
không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền
nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự,
uy tín của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay
đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, ly hôn… (từ Điều
24 đến Điều 51 BLDS 2005).
- Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy
định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi một chủ thể có những giá trị
nhân thân khác nhau, nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. Khi
quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính, yêu cầu người có
hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm
chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Tòa án buộc người
vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần.
- Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những giá trị nhân thân khi được xác lập
làm phát sinh các quyền tài sản. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài
sản khi có những sự kiện pháp lý nhất định như tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học kỹ thuật; quyền tác giả các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… được hưởng tiền
nhuận bút; thù lao; được hưởng tiền do áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nêu
trên.
1.2. Phân loại quyền nhân thân
Các quyền nhân thân có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu
chí thể hiện một khía cạnh pháp lý đặc thù. Thông qua các phân loại này, chúng ta sẽ
hiểu rõ hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân. Từ đó, nhận diện được chính
xác các hành vi xâm phậm và đề ra được phương thức bảo vệ thích hợp.
Một, dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thể phân thành nhóm các
quyền nhân thân không gắn với tài sản và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản.
Phân loại này được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các quyền nhân thân
không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. Các quyền
nhân thân không gắn với tài sản được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng
và suốt đời. Các quyền nhân thân này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính
bản thân mình, luôn gắn với chính bản thân người đó và không thể chuyển giao cho chủ
thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4
Ngược lại, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với sự hình
thành của một tài sản vô hình (như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế …..
Đây là quyền nhân thân của chủ thể đối với tài sản vô hình mà người đó sáng tạo ra.
Việc phân loại này giúp chúng ta định hình rõ căn cứ và thời điểm xác lập các quyền
nhân thân. Mỗi một chủ thể đều được công nhận một cách vô điều kiện các quyền nhân
thân không gắn với tài sản. Tuy nhiên, để được thừa nhận các quyền nhân thân gắn với
tài sản thì chủ thể đó phải chứng minh đươc sự tồn tại của loại tài sản vô hình do chính
mình sáng tạo ra.
Hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được phân thành
hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân của
các chủ thể khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các
quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005 và các quyền nhân
thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005. Các quyền nhân thân của
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín
(được quy định tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005).
Việc phân loại này giúp chúng ta nhận diện được chính xác nội dung năng lực pháp
luật của từng chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự. Về pháp nhân, hộ gia đình và
tổ hợp tác cũng cần có tinh thần của riêng mình, có những giá trị phi vật chất, không định
giá được và không thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Và các giá trị đó cũng cần
phải được bảo vệ khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp.
Ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành năm
nhóm sau đây:
- Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay
đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình
ảnh; quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.
- Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm: quyền được đảm
bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ
phận cơ thể người.
- Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân: quyền
kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi
con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi;
- Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho
tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo hộ,
quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công
bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, xuyên tạc tác phẩm….
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cơ chế bảo vệ hiệu quả các quyền
nhân thân. Đối với các quyền nhân thân thuộc nhóm thứ nhất thì chủ thể chính lại là
người đánh giá xem các quyền nhân thân của mình có bị xâm phạm hay không, tự quyết
5
định có yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm hay không, và Nhà nước sẽ chỉ can thiệp và
bảo vệ khi có yêu cầu.
Bốn, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân được phân loại thành hai
nhóm: Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và nhóm các quyền nhân
thân được bảo hộ có thời hạn.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với họ tên;
quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, xuyên tạc tác phẩm.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay đổi họ
tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn
về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ
thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người khác; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn,
quyền bình đẳng vợ chồng; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú ….
Việc phân loại này có ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền nhân thân khỏi sự xâm
phạm. Các quyền nhân thân thuộc nhóm vô thời hạn được pháp luật bảo hộ vĩnh viễn.
Khi chủ thể không còn nữa thì những người có liên quan được quyền yêu cầu bảo vệ khi
có hành vi xâm phạm. Ngược lại, các quyền nhân thân thuộc nhóm có thời hạn thì chỉ
được pháp luật bảo hộ khi chủ thể đó còn sống. Bởi lẽ, khi cá nhân chết đi thì các quyền
nhân thân thuộc nhóm này hoặc không thể thực hiện được nữa, hoặc không thể bị xâm
phạm nữa.
Năm, dựa vào đặc điểm của hành vi xâm phạm, chúng ta có thể phân loại các quyền
nhân thân thành ba nhóm:
- Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động chính chủ thể quyền.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể khác.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên quán đến quyền.
Việc phân loại dựa trên đặc điểm của hành vi xâm phạm có ý nghĩa quan trọng trong
việc nhận diện và chứng minh hành vi xâm phạm. Khi nộp đơn yêu cầu cơ quan Nhà
nước bảo vệ trước những hành vi xâm phạm quyền nhân thân của mình, thì chủ thể
quyền phải chứng minh được các hành vi xâm phạm và chứng minh rằng hành vi đó đã
trực tiếp xâm hại đến quyền nhân thân của mình
Sáu, dựa vào phương thức bảo vệ mà các quyền nhân thân được phân thành hai
nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ không phụ
thuộc vào yêu cầu.
Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền
thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với
hình ảnh; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người khác; quyền xác
định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết
hôn; quyền bình đẳng vợ chồng; quyền ly hôn.
Nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu bao gồm: quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền được hưởng
sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.
6
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cơ chế bảo vệ hiệu quả các quyền
nhân thân. Đối với các quyền nhân thân thuộc nhóm thứ nhất thì chủ thể quyền chính là
người đánh giá xem các quyền nhân thân của mình có bị xâm phạm hay không, tự quyết
định có yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm hay không, và Nhà nước sẽ chỉ can thiệp và
bảo vệ khi có yêu cầu.
CHƯƠNG 2
BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN QUYỀN NHÂN THÂN TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Thông tin cá nhân luôn được luật pháp tôn trọng. Mọi cá nhân được quyền đảm bảo
bí mật các thông tin về đời tư. Khi thực hiện các giao dịch trong môi trường Internet, các
chủ thể tham gia giao dịch thường được yêu cầu phải khai báo thông tin cá nhân như: số
thẻ tín dụng, ngày tháng năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá nhân… để phục vụ
cho mục đích xác nhận, kiểm tra. Thông tin cá nhân đã và đang trở thành hàng hóa có giá
trị đối với doanh nghiệp. Các thông tin về đời tư này dễ bị bên thứ ba lấy cấp và sử dụng
vào nhiều mục đích khác nhau, có thể gây phương hại đến quyền lợi của người tham gia
giao dịch thương mại điện tử.
Người tiêu dùng được quyền bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham
gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền yêu cầu.
2.1. Biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một khâu trong cơ chế bảo đảm việc
thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Tuy vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân một cách tùy tiện cũng có thể xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác. Vì vậy, pháp luật đã quy định các phương thức, biện pháp bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm chỉ được
7
bảo vệ quyền nhân thân của mình theo những phương thức và biện pháp do pháp luật quy
định.
- Theo quy định tại Điều 25 BLDS 2005 thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm
phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức khác nhau như: tự
mình bảo vệ, yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc buộc người vi phạm
bồi thường thiệt hại. Việc pháp luật quy định cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm
có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức khác nhau là cần thiết, tạo
điều kiện cho việc bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả. Hơn nữa, các quyền nhân thân
của cá nhân bao gồm nhiều quyền khác nhau và các hành vi xâm phạm đến quyền nhân
thân cũng rất đa dạng nên việc pháp luật quy định đa dạng hóa các phương thức bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân là rất cần thiết.
- Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thông qua việc yêu cầu các cơ quan Nhà
nước như Toà án; Viện kiểm sát bảo vệ là rất cần thiết, bởi các cơ quan này là cơ quan
Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể, trong đó có quyền nhân thân của cá nhân. Đồng thời, quyết định của Tòa
án; Viện kiểm sát còn được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước, do đó các
quyết định liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân của các cơ quan này
sẽ được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì có
nhiều phương thức bảo vệ quyền nhân thân, tùy quyền nhân thân nào của cá nhân bị xâm
phạm, tùy mức độ xâm phạm và thái độ của người có hành vi trái pháp luật mà cá nhân
có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể lựa chọn thực hiện phương thức pháp lý cần
thiết, phù hợp để bảo vệ quyền nhân thân của mình.
- Quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của pháp luật khá đa dạng nên hành vi
xâm phạm đến quyền nhân thân cũng rất đa dạng dưới nhiều hình thức, mức độ khác
nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả ngoài việc sử dụng nhiều
phương thức bảo vệ khác nhau, còn phải áp dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau như:
biện pháp xử lý hành chính, biện pháp xử lý hình sự, biện pháp dân sự, biện pháp xử lý
kỷ luật. Trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đó thì biện pháp dân sự là một
trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả và được áp dụng phổ biến nhất.
- Tự mình cải chính là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm
được áp dụng trong trường hợp người có hành vi trái pháp luật đưa ra những tin tức
không đúng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là biện pháp cho phép
người có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn
chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng đã
gây ra.
- Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là biện pháp bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân, có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân bị xâm
phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong phạm vi rộng
hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường
hợp người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp
luật của họ.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi
phạm cũng là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, có thể áp dụng trong mọi
trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, đây là biện pháp bảo vệ quyền
nhân thân có hiệu quả. Vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
8
sẽ áp dụng các biện pháp chế tài đủ mạnh do pháp luật quy định, buộc người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân chấm dứt hành vi đó. Trên thực tế biện
pháp này thường được người có quyền nhân thân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp
đã yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được
áp dụng.
- Yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại, là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
được thực hiện khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá
nhân, gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp luật
xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần thì
cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp
luật bồi thường thiệt hại. Nếu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân
thân của cá nhân không chịu bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có
quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người vi phạm
bồi thường thiệt hại.
Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì c`á nhân có quyền nhân thân bị
xâm phạm được thực hiện các biện pháp bảo vệ trên để bảo vệ quyền nhân thân của
mình. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp bảo vệ quyền nhân thân hoặc áp dụng
biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nào là tùy vào trường hợp cụ thể quyền nhân thân
bị xâm phạm và do người có quyền nhân thân bị xâm phạm tự lựa chọn quyết định.
Tuy nhiên, việc lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp sẽ giúp cho việc bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân đạt yêu cầu và hiệu quả hơn.
2.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quyền nhân thân trong Bộ Luật dân sự 2005
Quyền nhân thân của cá nhân đã được pháp luật bảo hộ và quy định khá cụ thể trong
Bộ Luật dân sự 2005 và nhiều ngành luật khác điều chỉnh, tạo thuận lợi cho việc thực
hiện trên thực tế. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau trong những năm gần đây
các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân vẫn xảy ra nhiều,
khá đa dạng, xâm phạm đến nhiều lĩnh vực của quyền nhân thân như quyền của cá nhân
đối với tên họ, hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể;
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền bí mật đời tư….
Thực tiễn, cho thấy quy định của Bộ Luật dân sự 2005 vẫn còn chung chung, mang
tính chất định hướng. Nên việc áp dụng thực hiện gặp nhiều vướng mắc, bất cập nhất là
trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể. Để hoàn thiện hơn quyền nhân thân
trong Bộ Luật dân sự 2005, chúng ta cần có những giải pháp để hoàn thiện. Như sau:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLDS 2005, khi quyền nhân thân của cá nhân
bị xâm phạm thì người có quyền đó được bảo vệ bằng cách tự mình cải chính những tin
tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của họ mà không nhất thiết phải chờ người có
hành vi xâm phạm thực hiện cải chính. Để người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực
hiện được tự cải chính thì pháp luật phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện
việc tự cải chính.
- Tại khoản 2, khoản 3 Điều 25 BLDS 2005 quy định quyền nhân thân của cá nhân
bị xâm phạm thì người có quyền đó được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ
thông qua việc buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công
khai, bồi thường thiệt hại. Theo quy định này, thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm
được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ nhưng cơ quan, tổ chức nào là cơ
9
quan, tổ chức có thẩm quyền lại chưa được BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật này, cũng như các văn bản pháp luật có liên quan chỉ rõ. Vì thế trên thực tế
đã xảy ra không ít các trường hợp đương sự không xác định được cơ quan, tổ chức nào
có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của họ. Từ việc pháp luật không quy định cụ thể
về thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, các
loại vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết. Nên trong thực tiễn xét xử của Tòa án có việc được
Tòa án thụ lý giải quyết, có việc Tòa án không thụ lý giải quyết và quan điểm về thẩm
quyền về giải quyết các vụ việc về quyền nhân thân giữa Tòa án cũng khác nhau, dẫn
đến cùng loại vụ việc Tòa án này thụ lý giải quyết nhưng Tòa án khác lại không thụ lý
giải quyết.
Để hoàn thiện, chúng ta cần điều chỉnh, bổ sung như sau:
+ Về pháp luật nội dung, cần sửa đổi, bổ sung một số quy điịnh của Bộ Luật dân sự
2005, Luật Hôn nhân và Gia đình liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân. Đối với các quy định của BLDS 2005, cần sửa đổi, bổ sung đoạn đầu Điều 25 theo
hướng quy định, không chỉ người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu
bảo vệ mà cả người đại diện của họ cũng có quyền yêu cầu bảo vệ và việc yêu cầu bảo vệ
được đặt ra trong cả trường hợp người có quyền nhân thân bị xâm phạm đã chết.
+ Cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 25 BLDS 2005, theo hướng quy định rõ cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, tạo thuận
lợi cho cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời thực hiện được việc bảo vệ
quyền nhân thân của mình.
+ Đối với Luật Hôn nhân và Gia đình cần sửa đổi, bổ sung Điều 65 Luật Hôn nhân
và Gia đình theo hướng quy định quyền của cha mẹ trong việc yêu cầu xác định con cả
trường hợp con đã chết. Vì đây cũng là vấn đề thuộc về bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân. Trong trường hợp, cha mẹ chết thì pháp luật quy định con vẫn có quyền yêu cầu
xác định cha mẹ cho mình (Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình).
+ Về pháp luật tố tụng dân sự, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 25 Bộ luật Tố
tụng dân sự (sửa đổi bổ sung 2011) về thẩm quyền của Tòa án, hướng Tòa án có thẩm
quyền giải quyết đối với việc giải quyết yêu cầu bảo vệ họ tên, hình ảnh, bí mật đời tư,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, xác định giới tính.
+ Tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung 2011), sửa đổi theo hướng
cho phép Tòa án được chủ động quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
+ Ngoài ra, phải xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật dân
sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật Tố tụng dân sự …. Về trình tự, thủ tục thực hiện
việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân. Trong đó, cần chú trọng quy định, hướng dẫn
về trình tự, thủ tục tự cải chính; yêu cầu cơ quan, tổ chức khác ( ngoài việc yêu cầu Tòa
án) bảo vệ.
KẾT LUẬN
Quyền nhân thân là một quyền cơ bản gắn liền với lợi ích của mỗi cá nhân, bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân là vấn đề quan trọng trong cơ chế bảo đảm quyền dân sự
của các chủ thể. Khi xã hội ngày càng phát triển thì việc cần phải có nhận thức đúng về
quyền nhân thân, cũng như việc bảo vệ quyền nhân thân càng phải được coi trọng. Vấn
10
đề được đặt ra không chỉ cho các nhà chức trách, nhà lập pháp, mà cho toàn xã hội phải
cùng nhau chung sức để góp phần hoàn thiện hơn pháp luật Việt Nam nói chung và pháp
luật dân sự nói riêng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội ngày càng “ dân chủ,
công bằng và văn minh”./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Được Quốc hội khóa XIII,
kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013).
2. Bộ Luật Dân Sự 2005.
3. Luật Giao Dịch Điện Tử 2005.
4. Giáo trình luật dân sự Việt Nam - tập 1 (2006),Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội.
5. Giáo trình pháp luật kinh tế (2012), NXb. Đại học kinh tế quốc dân.
6. Giáo trình luật dân sự - tập 1(2014), Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
7. TS. Trần Lê Đăng Phương (2015), Bài giảng pháp luật thương mại điện tử.
11