PHẦN MỞ ĐẦU
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Nguyên nhân
là do xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm
hữu nô lệ, hình thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp. Chính
trong quá trình ấy đã sản sinh ra các tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là
lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng
chung là giải quyết các những vấn đề thự tiễn chính trị - đạo đức của xã hội,
trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau
này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia,
Thuyểt Âm Dương – Ngũ hành.
1
PHẦN NỘI DUNG
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ,
trung đại.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Hoa cổ, trung đại:
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến
cuối thế kỷ III tr. CN.
1.1.1. Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà
Tây Chu. Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN,
đánh dấu sự mở dầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa
đầu thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã
lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam hiện nay).
Đến thế kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi
là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà
Ân lập ra nhà Chu (giai đoạn đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa
lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm
ruộng, đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý
của vua nhà Chu, đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất
lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần
quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã
hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan
niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ. Về khoa
học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành của mặt
trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng của
cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
2
1.1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân
Thu - Chiến quốc), thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế
độ phong kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình
thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây
Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới
lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa
sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối
ren và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi
giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi
giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ
điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ
và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm
nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm
của các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự
nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính
trị - đạo đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ
này có chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho
gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung
hoành gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các
trường phái triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần
nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn
triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực
chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên
3
nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học
thực chứng của Trung Hoa.
Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất
hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung
Hoa cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm",
coi đó là gốc rễ của nhận thức.
2. Một số học thuyết của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
2.1. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
Ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành"
đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư
tưởng về Âm dương - Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan
niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a. Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành
đầu tiên và phổ biến của vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập
nhau là Âm và Dương.
"Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn
(2,4,6...). "Dương" là phạm trù đối lập với "Âm", phản ánh khái quát những
tính chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía
trái, số lẻ (1,3,5...). Nhưng hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà
là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm-Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên
lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói
lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó
bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên
khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái
cực. Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát
bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia
thành hai nửa (đen trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia
4
(trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho
nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý:
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì
Dương khởi", "Dương cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực
sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương Thiếu Âm - Thiếu Dương - Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô
cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn
chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là
một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn,
Bĩ, Thái, Truân...; Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều
thời đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một "tập
đại thành" của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong
phú và sâu sắc.
b. Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc
của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất
khác nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm
yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng,
khô, cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc,
v.v.; Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng
trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất
vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống
ảnh hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy;
Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa;
Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
5
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm
cho mỗi thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các
quẻ đơn (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài) đều được quy
về Ngũ hành để biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm Dương. Chẳng hạn: Kiền - Đoài thuộc hành Kim; Chấn - Tốn thuộc hành
Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm
và Mộc Dương.
2.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho
gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng
khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có
ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân
cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu).
Các kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung
Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo
đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể
hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những
quan hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi,
cha - con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên
dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì
vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị
quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong
kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng
của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự
trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm
trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến
thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai
cấp địa chủ phong kiến đang lên.
6
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã
hội lý tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã
hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
"Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính
con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về
vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính
con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp
những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa,
Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng
Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường
thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể
giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm
đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho
gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN). Trong
quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn.
Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa
nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không
phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận
hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa); hay “ cũng như
dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ”
(Luận ngữ, Tử Hãn). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng
tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối
vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua
7
trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do
mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn); “làm
sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất
yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một
mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại
nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống. Quan
niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không
đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do
đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng
biết) và “hạ ngu” (học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri
thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ,
giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới
thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ
trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra
một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập;
học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được
cái cốt yếu. Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối
“hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những
vấn đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản
nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng... cùng
với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính
danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”… Khổng Tử lấy chữ “Nhân”
làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình. Nhân có ý nghĩa rất
rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc
cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung
khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng
đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư
tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng
Tử là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và
cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật
lệ, hình pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì
8
bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung
mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và
nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh
là làm mọi việc cho ngay thẳng” (Luận ngữ, Nhan Uyên); “Chính danh thì
người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi,
cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”
(Luận ngữ, Bát Dật)...Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa
mình cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói
không thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ
nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng;
hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ). Xuất
phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử
đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang
tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi
vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân
biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng
dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận
ngữ, Tử Lộ). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo
ra những người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị. Toàn bộ học
thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích
chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm
như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà
dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao
khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú
và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính
thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội
phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung
và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống,
Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống,
9
gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán),
Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá
trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai
xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết
học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi
ích thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo
nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy
tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao.
Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường
thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên
cơ sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ
hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của
Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của
tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học
ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với
những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có
cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và
sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
2.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học
thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện
và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học
của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư
tưởng biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể
luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về
với cội nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu
không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu
10
hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn
tại.
- "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là
"đạo pháp tự nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái
quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính
chỉnh thể thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan
niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản
phục" (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).
- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện
tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch
nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương
thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư
tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học
Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi
không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là
hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo".
2.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN)
sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu
Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo Mặc). Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về
"Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu... không
phải là do định mệnh của Trời mà là do con người. Nếu người ta nỗ lực làm
việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan
niệm khác với quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo
dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
11
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức. Thuyết "Kiêm ái" là
một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch
phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ...trong
học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau, không
phân biệt thân sơ, đẳng cấp...
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên
phương diện nhận thức luận.
2.5. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương
dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành
vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là
tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại
tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê
tín tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư
tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên: Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo
tính quy luật khách quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của
giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có
"Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể
và là cái luôn luôn biến hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động
của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà còn phải thay đổi
theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
Về lịch sử: Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định
rằng không thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có
khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội
làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập
quán riêng ứng với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra
lửa để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh
phạt lẫn nhau.
12
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi
của dân số và của cải xã hội.
Về thuyết "Tính người": Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính
người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi
mình hại người, tránh hại cầu lợi...Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi
của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật
tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị: Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy,
Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị
xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho
giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3
yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính
sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa
hẹp, là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội
phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị
và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ
danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của
mình.
+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của
nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
PHẦN BA
Một số nhận định về triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan
tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc
đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề
xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác
13
lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương
tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến
phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư
tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý
đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ,
có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Hoa và một số
nước khác trong khu vực. Xã hội Trung Hoa thời kỳ triết học cổ đại ra đời
(khoảng thế kỷ VI trước công nguyên) là thời kỳ đang chuyển từ xã hội nô lệ
sang xã hội phong kiến. Đây cũng là thời kỳ có nhiều biến động sâu sắc và
rộng lớn, do vậy, ở đó, đã nảy sinh nhiều học thuyết chính trị — xã hội, triết
học, tôn giáo phong phú và không ngừng đấu tranh với nhau. Dưới đây là
một số nhận định về triết học Trung Hoa cổ đại:
1. Trước hết, triết học Trung Hoa nói riêng và triết học phương Đông
nói chung ít bàn đến vấn đề về giới tự nhiên, nhưng khi kiến giải những vấn
đề xã hội loài người, ít nhiều họ có đề cập đến vấn đề khởi nguyên của thế
giới, vấn đề cơ bản của triết học.
Lão Tử cho rằng, khởi nguyên của thế giới là "Đạo". Đạo" là một tên
gọi khiên cưỡng, vì theo ông "Đạo" là cái lớn nhất, cái mông lung mờ ảo.
Nhưng "Đạo" cũng là cái có trước vạn vật, cái mà mọi vật được sinh ra và
được nhập vào sau khi bị huỷ diệt. "Đạo" cũng là cái mà mọi vật và cả con
người phải tuân theo. Ông cho rằng: "Người theo quy luật của đất, đất theo
quy luật của trời, trời theo quy luật của đạo..." và "đạo theo quy luật của tự
nhiên". Với Lão Tử, "Đạo" có tính duy vật, song trong đó, có chứa đựng
mầm mống duy tâm. Do vậy, sau này, một số nhà triết học kế tục ông đã
khai thác yếu tố duy tâm này và biến "Đạo" thành cái có tính chất như một
tinh thần tuyệt đối, cái mà con người không thể nhận thức được.
Với Khổng Tử, tuy không trực tiếp bàn đến vấn đề bản thể, tự nhiên,
nhưng ông lại có quan niệm về "Trời", "mệnh trời". Sau này, một số người
kế tục ông biến các quan niệm đó thành những thực thể thần thánh, với họ
14
"Trời" là vị thần có nhân cách, có quyền thưởng phạt..., và là kẻ sáng tạo ra
thế giới.
Khác với những quan điểm trên, một số nhà triết học duy vật ở Trung
Hoa cổ đại cho rằng vạn vật do "ngũ hành" (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) tương
sinh tương khắc tạo thành. Hoặc một số khác cho rằng, do âm dương giao
cảm mà tạo nên trời, đất, vạn vật và con người. Triết học Trung Hoa cổ đại
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học thông qua việc luận giải cái phạm trù:
Tâm - Vật, Lý - Khí, Thần - Hình. Các nhà duy tâm cho rằng, Tâm, Lý,
Thần là có trước, là cái chủ động; còn Vật, Khí, Hình là có sau, là cái lệ
thuộc. Các nhà duy vật đã phản bác lại quan niệm duy tâm trên và cho rằng,
cái tinh thần, cái tâm lý, cái tư tưởng luôn gắn với cái thân thể và nó mất đi
khi thân thể bị huỷ diệt.
2. Vấn đề con người:
Triết học Trung Hoa rất chú ý đến vấn đề con người, nhiều vấn đề
"ngoài con người" có được đề cập tới, cuối cùng cũng chỉ để giải quyết vấn
đề con người trong các mối quan hệ gia đình và xã hội.
Một số quan niệm có tính chất duy vật cho rằng, con người là sản
phẩm của sự vận động, phát triển của các yếu tố có tính vật chất như quan
niệm "ngũ hành", "âm dương", hay coi con người là một bộ phận của sự phát
triển của cái gọi là "Đạo" hay "tự nhiên". Nhưng ngay trong những quan
niệm trên cũng ít nhiều có biểu hiện của yếu tố duy tâm, nhất là trong việc
giải thích vấn đề "tính người". Trong các quan niệm này, "tính người" được
hiểu là những phẩm chất, năng lực, ý thức, tư tưởng,... Quan niệm có tính
duy tâm cho rằng, tính người là cái có sẵn (tính bản thiện, tính bản ác, tính
người do trời phú...,). Cũng có nhà triết học cho rằng tính người không thiện,
không ác, vốn dĩ gần nhau (giống nhau) và do "tập, nhiễm" mà thành thiện
hay ác. Họ cho rằng cái đáng sợ không phải là "mệnh trời", mà là "nhân
hoạ". Vấn đề vai trò của con người đã được các nhà triết học Trung Hoa cổ
đại đề cập khá nhiều. Điều đặc biệt lưu ý ở đây là, trong những biến đổi sâu
sắc của đời sống xã hội đương thời, một số nhà triết học đã thấy được vai trò
to lớn của con người, của nhân dân. Như quan niệm: "dân là gốc, xã tắc là
quý, vua quan là thường", hay "dân có sức mạnh như nước, lật thuyền cũng
là dân...". Nhưng do sự phát triển trì trệ của xã hội Trung Hoa và do hạn chế
15
lịch sử của chính các nhà triết học mà cuối cùng hầu hết họ đều có quan
niệm về tính chất đẳng cấp, định mệnh trong vấn đề con người.
3. Vấn đề nhận thức:
Triết học Trung Hoa cổ đại ít bàn đến vấn đề nhận thức giới tự nhiên,
và nếu có thì nhận thức ấy cuối cùng cũng để quay về nhận thức xã hội (thí
dụ: vấn đề "Đạo" và nhận thức "Đạo" của Lão Tử,...). Khi bàn nhiều đến khả
năng nhận thức của con người, Khổng Tử cho rằng thánh nhân không học
cũng biết, quân tử học thì biết, còn tiểu nhân học cũng không biết.
Một số nhà triết học khác thì cho rằng, dù kẻ trí hay ngu cũng phải
qua học mới biết. Nhưng nhiều nhà triết học cho rằng, cái học, biết ấy là
nhằm để làm theo "danh", "phận" của mình.
Phép biện chứng cũng là vấn đề đã được đặt ra trong triết học Trung
Hoa cổ đại, thể hiện trong kiến giải về "Đạo", về "Biến dịch". Trong đó, họ
thừa nhận rằng: Thế giới vận động biến đổi là tồn tại vĩnh viễn, có tính quy
luật và nhờ những mâu thuẫn vốn có của nó. Nhưng do hạn chế lịch sử, sự
vận động, biến đổi đó lại được coi là một chu trình khép kín, không có phát
triển, không có sự đổi mới về chất. Do những điều kiện lịch sử cụ thể mà
Việt Nam có sự tiếp thụ và cải biến những tư tưởng triết học của Trung Hoa,
đó là một tất yếu lịch sử. Do vậy, khi nghiên cứu tư tưởng triết học Việt
Nam không thể không tính đến sự tiếp thụ và cải biến ấy.
16