Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Quản lý hiệu quả vốn tại các doanh nghiệp nhà nước - từ thực tiễn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 215 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM PHÚ QUỐC

QU¶N Lý HIÖU QU¶ VèN T¹I C¸C DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC – Tõ
THùC TIÔN C¤NG TY TR¸CH NHIÖM H÷U H¹N MéT THµNH VI£N
CñA THµNH PHè Hå CHÝ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mă số: 62. 34. 02.01

TP HỒ CHÍ MINH - 2015


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chú trọng hoàn
thiện và hài hòa hóa các thành phần kinh tế. Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến
pháp 2013, Đảng luôn khẳng định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thành phần
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Tuy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là
một bộ phận của thành phần kinh tế nhà nước, nhưng cũng như các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và
cạnh tranh theo pháp luật. Theo Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp 2013, nền kinh tế Việt


Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà
nước luôn xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn
trọng các quy luật thị trường, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản
lý nhà nước nhằm đảm bảo tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
Vào tháng 04 năm 2001, Đại hội Đảng lần thứ IX đã thông qua Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, trong đó đã xác định rõ “Vai trò chủ đạo kinh
tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; DNNN
được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả”[34]. Sau 10 năm thực hiện,
tháng 12 năm 2011, Hội nghị báo cáo tổng kết việc thực hiện Chiến lược này đã được
tổ chức tại Hà Nội. Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo thì kết quả đạt được là DNNN
giảm về số lượng, nhưng doanh nghiệp trong những ngành, lĩnh vực quan trọng thì
quy mô vốn tăng lên, hiệu quả hoạt động tốt hơn, cơ bản thực hiện được vai trò nòng
cốt của kinh tế nhà nước, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhìn chung, kết quả đổi mới và phát triển doanh nghiệp mang tính tích cực và
khả quan. Hiện đã có 4.750 DNNN đã được sắp xếp lại[67]. Riêng tại Thành phố Hồ
Chí Minh (TP.HCM), việc sắp xếp, đổi mới DNNN được thực hiện chủ yếu theo hai


hình thức, (1) Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư: thực hiện cổ phần hóa các DNNN, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp và người lao động hoàn toàn tự chủ trong cơ chế năng
động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của việc cổ phần hóa các
doanh nghiệp tại TP.HCM trong thời gian qua đã làm nguồn thu ngân sách nhà nước
tăng 40% và thu nhập lao động tăng trên 24%; (2) Nhà nước quản lý trực tiếp vốn
thông qua đại diện chủ sở hữu vốn: mô hình được thực hiện từ 432 doanh nghiệp năm
1997, đến nay sau khi hoàn thành việc sắp xếp, chuyển đổi mô hình, số doanh nghiệp
do UBND TP.HCM làm chủ sở hữu 100% vốn nhà nước chỉ còn 107 Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên (Công ty TNHH MTV) nắm giữ 57.756 tỷ đồng, trong

đó có 17 tổng công ty và công ty lớn, nắm giữ khoảng 51.554 tỷ đồng và hoạt động
theo mô hình công ty mẹ - công ty con, đã phát huy được thế chủ động và nâng cao
năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Theo Dự thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XII (2016 – 2021) của Đảng, việc tái cơ
cấu DNNN cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Sau khi cơ cấu lại, một bộ
phận DNNN cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; tập trung hơn vào những
lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu,
quản lý nhà nước được tăng cường. Hệ thống pháp luật về DNNN được hoàn thiện.
Xác định rõ quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp và công
khai, minh bạch hoạt động của DNNN. Cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành
theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh. Năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của DNNN được nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và
phát triển; giá trị tài sản tăng; tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trong giới hạn quy định.
Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Tuy nhiên, Dự thảo Văn kiện cũng xác định là DNNN hoạt động kém hiệu quả,
chưa thể hiện được vai trò lực lượng nòng cốt của kinh tế Nhà nước. Tái cơ cấu
DNNN, cổ phần hóa, thoái vốn ở một số doanh nghiệp chưa đạt tiến độ. Tỉ lệ vốn
được cổ phần hóa còn thấp. Quản trị doanh nghiệp đổi mới còn chậm; kiểm tra, giám
sát nội bộ còn hạn chế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều DNNN thấp, chưa
tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất thoát, lãng phí còn lớn.


Nhiều nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng vấn đề quản lý vốn nhà nước tại
các DNNN còn nhiều bất cập như đối với đầu tư khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng cao
nhưng không tập trung mà bố trí dàn trải, nhiều công trình đầu tư không đồng bộ và
mục đích đầu tư không phù hợp với mục đích sử dụng nên hiệu quả sử dụng vốn rất
thấp[35]. Bên cạnh đó, một số tập đoàn, tổng công ty đã thành lập các công ty con và
đầu tư vào những lĩnh vực ngoài nhiệm vụ chính được giao nhưng kiểm soát thiếu
chặt chẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp; tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN

tuy đã rõ hơn nhưng vẫn còn nhiều lúng túng và quản lý kém hiệu quả... Do đó, nhà
nước cần có một cơ chế quản lý vốn để tránh tình trạng này. Ngoài ra, cũng cần có các
giải pháp để giúp các DNNN, đặc biệt là các Tổng công ty, các Công ty TNHH MTV
đang nắm giữ 100% vốn nhà nước và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con quản lý thật hiệu quả vốn nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh
trong cơ chế thị trường.
Bên cạnh những vấn đề về quản lý vốn nhà nước mang tính chất thực tiễn như
trên, vấn đề lý luận cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong thời gian qua,
khung pháp lý về hoạt động cũng như cơ chế, hệ thống giám sát tài chính doanh
nghiệp luôn được nhà nước quan tâm và hoàn thiện, sao cho cơ chế giám sát tài chính
cũng như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Phương thức quản lý vốn nhà nước cũng được đổi mới từ quản lý
hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn. Trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu
vốn và người điều hành doanh nghiệp, pháp luật cũng xác định rõ mức độ và giới hạn
giữa hai bên trong mối quan hệ này sao cho tăng cường thêm tính tự chủ của doanh
nghiệp có vốn nhà nước[61].
Nhiều nhà nghiên cứu, nhà lập pháp đã đặc biệt quan tâm đến cơ sở lý luận
trong việc quản lý vốn như việc xác định khái niệm vốn, khái niệm DNNN, cơ chế
kiểm tra, giám sát về quản lý vốn tại các DNNN cũng như mô hình tổ chức thực hiện
chức năng sở hữu đối với DNNN và vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Vấn đề này
được đặt ra bởi lẽ trên thực tế còn rất nhiều bất cập.


Chính vì những thực tế như trên mà tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản
lý hiệu quả vốn tại các Doanh nghiệp nhà nước – từ thực tiễn Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên của Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận án tiến sỹ. Công
trình nghiên cứu này sẽ nghiên cứu về cả quy định của pháp luật và thực trạng quản lý
vốn các DNNN, nhất là các các Công ty TNHH MTV đang nắm giữ 100% vốn nhà
nước trực thuộc UBND TP.HCM, để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất trong việc
quản lý vốn nhà nước.

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến vấn đề quản lý vốn nhà nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nhìn từ góc độ quản lý hành chính công, Luận án
tiến sĩ “Quản lý nhà nước đối với tổng công ty 90-91 theo hướng hình thành tập đoàn
kinh tế” của Lê Hồng Tịnh năm 2010 đã nghiên cứu được bản chất, vị trí, vai trò của
các tổng công ty 90-91, các tập đoàn kinh tế trong nền kinh tế thị trường; đã đánh giá
được thực trạng hoạt động của các tổng công ty 90-91, các tập đoàn kinh tế và việc
quản lý nhà nước đối với các tổng công ty 90-91 theo hướng hình thành tập đoàn kinh
tế tại Việt Nam; đã đưa ra các kiến nghị về phương hướng và hệ thống giải pháp nhằm
thực hiện hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổng công ty 90-91 theo hướng hình
thành tập đoàn kinh tế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, ở đề tài nghiên cứu này, tác giả luận án chưa đề cập đến tính đặc thù
trong hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn
kinh tế nhà nước, được gọi chung là DNNN; các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả
quản lý vốn nhà nước tại các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước,
các DNNN.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Nam về đề tài “Đổi mới cơ chế quản lý vốn
và tài sản đối với các tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở
Việt Nam” năm 2005 cũng đã tiến hành đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đổi
mới cơ chế quản lý vốn và tài sản đối với các tổng công ty 91 phát triển theo mô hình
tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam. Điểm tương đồng của công trình nghiên cứu trên với
đề án này là cùng nghiên cứu về vấn đề quản lý vốn trong phạm vi DNNN nhưng chỉ


ở một góc nhìn hẹp về chủ thể bị quản lý và cơ chế quản lý mà chưa có nghiên cứu
bao quát về vấn đề quản lý vốn của loại hình DNNN.
Ngoài hai luận án cơ bản trên, còn khá nhiều công trình liên quan như Luận
văn của Nguyễn Hồng Thắng về đề tài “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau
khi cổ phần hóa DNNN (nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy Len Hà Đông)”, năm
2010. Những thành công của đề tài này là làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về

doanh nghiệp sau cổ phần hóa DNNN, vốn nhà nước và quản lý vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Luận văn cũng đã đánh giá đúng thực trạng quản lý
vốn DNNN trong thời gian qua ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng tác giả
luận văn chủ yếu chỉ đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, chưa đặt vấn đề về quản lý vốn
nhà nước của các DNNN, mà tại đó Nhà nước vẫn nắm giữ 100% vốn nhà nước; đồng
thời, các giải pháp đề xuất của luận văn cũng chỉ vận dụng tại một doanh nghiệp điển
hình, chưa nghiên cứu bao quát ở phạm vi lớn hơn và toàn diện hơn về việc quản lý
vốn trong loại hình DNNN.
Ngoài các công trình cụ thể nêu trên, liên quan đến đề tài này còn có các công
trình nghiên cứu liên quan khác. Có thể phân nhóm các công trình này thành hai dạng:
1) Quản lý nhà nước về DNNN và 2) Quản lý vốn nhà nước trong các loại hình doanh
nghiệp (bao gồm cả cơ chế quản lý vốn).
Đối với nhóm thứ nhất, các chủ đề tập trung vào các đối tượng chủ yếu là
DNNN, ví dụ như “Xây dựng và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam” [2], “Quản lý
nhà nước về kinh tế” [8], “Những nền tảng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” [7]; “Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước - Một số khía
cạnh lý luận cần được nhận thức đúng”

[9]

; “Bảo đảm tính tự chủ kinh doanh của

DNNN theo cơ chế thị trường nước ta hiện nay” [6]; “Một số giải pháp tiếp tục chuyển
đổi DNNN theo Luật Doanh nghiệp mới” [4]; “Báo cáo nghiên cứu mô hình tổ chức
thực hiện chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DNNN: Kinh
nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”[40]; “Báo cáo nghiên cứu mô hình quản lý
DNNN: Được và chưa được, các giải pháp kiến nghị sửa đổi” [40].



Nội dung chủ yếu của các nghiên cứu này xoay quanh vấn đề là làm thế nào để
quản lý hiệu quả DNNN (trong đó có quản lý vốn). Các nghiên cứu thiên về việc xác
định mô hình doanh nghiệp để việc quản lý nhà nước được hiệu quả hơn.
Nhóm thứ hai nghiên cứu sâu hơn về vấn đề quản lý vốn. Có thể kể tên các
công trình như “Tái cấu trúc danh mục đầu tư nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng vốn
của Tổng Công ty Bến Thành” [24]; “Những giải pháp tài chính về quản lý vốn của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường” [5] ; “Cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp”

[22]

; “Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại các doanh

nghiệp” [27]; “Chế độ pháp lý về vốn của công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp”
[36]

...
Nội dung chủ yếu có thể khái quát từ các công trình này là đưa ra cơ sở lý luận

và cơ sở pháp lý về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp; đánh giá thực
trạng hoạt động của các DNNN và thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn nhà nước
đầu tư vào các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhận định chung là các nghiên cứu này chưa
xác định rõ các khái niệm vốn, DNNN, quản lý vốn nhà nước đầu tư trong các DNNN
(mà hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau). Các công trình trên cũng chưa đi
sâu vào phân tích về Công ty TNHH MTV 100% vốn nhà nước cũng như cơ chế cho
việc đầu tư vốn vào loại hình doanh nghiệp này một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, các trang điện tử cũng có nhiều bài viết về vấn đề quản lý vốn
nhà nước. Trong chừng mực nhất định, các bài viết này cũng góp phần làm nên bức
tranh toàn cảnh về quản lý vốn nhà nước tại các DNNN, bao gồm cả những mặt tích
cực lẫn hạn chế của nó. Tuy nhiên, các bài viết chỉ mang tính chất thông tin chứ chưa

thật sự là những nghiên cứu mang giá trị khoa học cao.
Qua nghiên cứu tổng thể, tác giả nhận định rằng vốn là một trong những yếu tố
quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả trở thành một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp, đặc biệt
là DNNN. Vốn là điều kiện cần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
mọi doanh nghiệp nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp,
bởi lẽ trong kinh doanh mục đích cao nhất của mọi doanh nghiệp chính là lợi nhuận.
Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi


nguồn lực sẵn có của mình, trong đó sử dụng hiệu quả nguồn vốn là yêu cầu bắt buộc
đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh
mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào
tận dụng tối đa năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ có điều kiện
đứng vững trên thị trường. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu hàng đầu của
mọi doanh nghiệp vì đây là yếu tố không những đảm bảo cho doanh nghiệp an toàn về
mặt tài chính, tăng lợi nhuận mà còn giúp doanh nghiệp tăng uy tín, nâng cao khả
năng cạnh tranh và vị thế doanh nghiệp trên thương trường. Có thể nói rằng hiệu quả
sử dụng vốn thực chất là thước đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực, tài chính của
doanh nghiệp, tạo những lợi thế nhất định để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Nghị quyết Trung ương 6 tháng 10/2012 (Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI), cũng đã dành một phần quan trọng đề cập đến vấn đề tiếp tục sắp xếp và đổi
mới nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó, Nghị quyết khẳng định vai trò nòng cốt của
DNNN trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời chỉ ra những hạn chế yếu kém còn tồn
tại nhằm kiên quyết điều chỉnh để DNNN có cơ cấu hợp lý, đi đầu trong đổi mới ứng
dụng khoa học công nghệ, sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và
hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Bên cạnh đó cũng cần bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý DNNN. Các DNNN phải
được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp

với Luật Doanh nghiệp, áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị
trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai minh
bạch. Song song với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh
nghiệp thì cần phải tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu nhà nước,
nhất là việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển kinh doanh, quản lý
vốn và tài sản tại doanh nghiệp…
Với chủ trương mang tính chất định hướng cơ bản như vậy nhưng các công
trình nghiên cứu đã liệt kê trên chưa đề cập đến làm thế nào để quản lý vốn nhà nước
thật hiệu quả; làm sao vận dụng cơ chế quản lý vốn cho phù hợp với các DNNN tại
một địa phương có nhịp sống kinh tế sôi động và đa dạng như TP.HCM. Do đó, Luận


án “Quản lý hiệu quả vốn tại các Doanh nghiệp nhà nước – từ thực tiễn Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên của Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ là một bước
hoàn thiện các nghiên cứu trên theo hướng quản lý hiệu quả vốn nhà nước trong các
DNNN. Đồng thời, đây có thể xem là công trình nghiên cứu đầu tiên dưới góc độ quản
lý kinh tế nhằm đánh giá toàn diện hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các DNNN
trực thuộc UBND TP.HCM, một vùng kinh tế động lực lớn nhất Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận án sẽ đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm duy trì và phát
huy những mô hình quản lý tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực để nâng cao hiệu
quả quản lý vốn nhà nước tại các DNNN trực thuộc UBND TP.HCM. Các giải pháp
đều nêu rõ nội dung cần triển khai và các biện pháp kiến nghị thực hiện.
3. Mục tiêu nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Với nghiên cứu tổng quan về các công trình đã được nghiên cứu, luận án sẽ tập
trung làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quản lý vốn tại các DNNN (tổng quát ở
Việt Nam và cụ thể ở TP.HCM). Trong phần này, luận án đặt trọng tâm vào việc
nghiên cứu để xác định các khái niệm một cách chính xác và thống nhất, bao gồm các
khái niệm vốn, khái niệm quản lý vốn, khái niệm DNNN và khái niệm quản lý vốn
nhà nước tại các doanh nhiệp nhà nước. Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ làm rõ những

chính sách đầu tư vốn của nhà nước, đặc điểm vốn nhà nước tại các DNNN, chủ thể
quản lý vốn, nội dung quản lý vốn và hình thức quản lý vốn nhà nước. Các cơ chế kiểm
tra, giám sát vốn của nhà nước tại các DNNN cũng sẽ được đề tài tập trung làm rõ.
Phần tiếp theo của đề tài sẽ nghiên cứu chủ yếu về Công ty TNHH MTV.
Ngoài việc nghiên cứu những khái niệm liên quan, đặc điểm về vốn nhà nước tại
Công ty TNHH MTV cũng sẽ được nghiên cứu cụ thể.
Sau khi làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận cũng như luật định, đề tài
sẽ tiến hành nghiên cứu thực trạng quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực
thuộc UBND TP.HCM. Với vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất nước, TP.HCM có
nhiều loại hình doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó chiếm tỷ lệ không nhỏ là Công
ty TNHH MTV 100% vốn nhà nước. Nội dung của phần này cũng sẽ đề cập đến tình


hình kinh tế, xã hội của TP.HCM cũng như tiến hành khảo sát để có nhận định và
đánh giá chính xác về thực trạng hoạt động quản lý vốn của các công ty này.
Để có cái nhìn tổng quát và mang tính chất đa chiều, đề tài cũng tiến hành khảo
sát việc quản lý vốn và cơ chế giám sát vốn nhà nước tại các DNNN của một số nước
trên thế giới như Trung Quốc, Singapore, các nước thành viên của Tổ chức phát triển
và hợp tác kinh tế - OECD. Kết quả nghiên cứu mang tính chất tham khảo cho việc
quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp được hiệu quả hơn.
Sau khi nghiên cứu một cách chi tiết và đầy đủ về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý
cũng như thực trạng về quản lý vốn nhà nước nói chung và của TP.HCM nói riêng,
phần cuối của luận án sẽ đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM. Các kiến nghị
và giải pháp sẽ tập trung vào các vấn đề như chính sách đầu tư vốn của nhà nước, chủ
thể quản lý vốn, nội dung quản lý, hình thức quản lý vốn và cơ chế kiểm tra, giám sát
của nhà nước tại các doanh nhiệp nhà nước - Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND
TP.HCM.
3.2. Vấn đề nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung vào các vấn đề sau:

1) Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về vốn và quản lý vốn của DNNN, nhìn từ
góc độ Công ty TNHH MTV.
2) Thực trạng quản lý vốn tại Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND
TP.HCM.
3) Biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn tại các Công ty
TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM.
4. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn cao. Bên cạnh
đó, yêu cầu của đề tài cũng vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ thể nên việc
xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài đóng một vai trò hết sức quan trọng. Căn cứ
vào mục tiêu đề ra, luận án được nghiên cứu theo các phạm vi sau:


- Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Luận án sẽ nghiên cứu tổng quát về quản
lý vốn DNNN và nghiên cứu cụ thể về quản lý vốn của Công ty TNHH MTV 100%
vốn nhà nước.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: vì số liệu báo cáo thống kê ở Việt Nam nói
chung và TP.HCM công bố muộn, thường công bố chính thức tháng 5 và tháng 6 hàng
năm, cho nên để đảm bảo tiến độ luận án và đảm bảo số liệu có thể so sánh và phân
tích có hệ thống, mang tính khoa học, tác giả chỉ lấy số liệu đến hết năm 2014. Tuy
nhiên, ở một số phần trong luận án, số liệu có thể minh họa cập nhật đến thời điểm
thực hiện luận án.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Với phần cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý
sẽ nghiên cứu mang tính chất tổng quan. Tuy nhiên, đối với phần thực trạng thì chỉ
nghiên cứu các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM. Xác định phạm vi
không gian nghiên cứu này sẽ giúp luận án tập trung và quan trọng hơn, khi các giải
pháp đưa ra đều có địa chỉ cụ thể để mang lại hiệu quả cao nhất.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Mức độ khái quát: Đối tượng là DNNN.

- Mức độ cụ thể: Đối tượng là Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND
TP.HCM.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh,
phương pháp hệ thống, tư vấn ý kiến chuyên gia, kết hợp lý luận với thực tiễn… để
giải quyết những vấn đề đặt ra của đề tài. Cụ thể như:
- Phương pháp so sánh đối chiếu: sử dụng nhiều tài liệu để nghiên cứu phần lý
thuyết quản lý vốn, các bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới là cơ sở cho
các kiến nghị và giải pháp của đề tài.
- Phương pháp phân tích thống kê và khảo sát thực tế: thông qua việc khảo sát
điều tra các Tổng Công ty TNHH MTV và các Công ty TNHH MTV đang hoạt động
theo hình thức Công ty mẹ - Công ty con trực thuộc UBND TP.HCM nhằm đánh giá


thực trạng quản lý vốn nhà nước tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND
TP.HCM.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích các tác động tích cực, các tác
động hạn chế làm cơ sở để đề xuất các giải pháp.
- Ngoài ra, đề tài cũng tham khảo, tư vấn ý kiến chuyên gia thông qua phiếu
xin ý kiến và hội thảo hoặc gởi luận án bản thảo đến cho các chuyên gia, các nhà quản
lý nhà nước, các nhà khoa học có uy tín am hiểu về đề tài luận án góp ý để tác giả luận
án hoàn thiện các đánh giá, nhận định cũng như đề xuất các giải pháp của đề tài.
Khung lý thuyết nền tảng được sử dụng trong nghiên cứu này là lý thuyết về
vốn. Trên cơ sở các định nghĩa về vốn, tác giả đi sâu phân tích về vốn tại DNNN, về
hiệu quả vốn và quản lý hiệu quả vốn tại DNNN.
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Về cơ bản:
- Để đánh giá hiệu quả quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc
UBND TP.HCM, tác giả đã sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập, phân tích,
tổng hợp bởi các cơ quan quản lý nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Chi cục
Tài chính doanh nghiệp và Ban quản lý đổi mới doanh nghiệp.

- Về dữ liệu thứ cấp, tác giả đã xây dựng mẫu khảo sát và tiến hành phát phiếu
nhằm thu thập các ý kiến đánh giá đối với những nội dung mà yêu cầu của đề tài đặt
ra. Đối tượng khảo sát được chọn là các nhà lãnh đạo về kinh tế, cơ quan quản lý
doanh nghiệp, các doanh nghiệp và chuyên gia tại TP.HCM, cụ thể như: lãnh đạo
Thành phố (Thường trực Thành ủy, UBND TP. Hồ Chí Minh); các cơ quan quản lý
doanh nghiệp Trung ương và thành phố (Ban tổ chức, Thanh tra Bộ Tài chính, VP.
UBND TP. HCM, lãnh đạo các Sở - Ban – Ngành liên quan: Sở Tài Chính, Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Nội vụ, Sở Lao động Thương binh và Xã hội…), khối Tổng
Công ty và Công ty lớn (hoạt động theo mô hình Công ty mẹ, Công ty con) gồm 17
Công ty mẹ và 41 Công ty con 100% vốn hoạt động dưới dạng Công ty TNHH MTV
và một số chuyên gia kinh tế, luật. Kết quả trong 150 mẫu khảo sát phát ra, tác giả sử
dụng được 70 mẫu với đủ 4 nhóm đối tượng các lãnh đạo chính quyền về kinh tế, các


nhà quản lý và điều hành doanh nghiệp, các nhà đại diện vốn sở hữu của nhà nước,
các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - luật.
6. Tính mới của công trình nghiên cứu
- Đây là công trình đầu tiên dưới góc độ kinh tế học đánh giá toàn diện hoạt
động quản lý vốn nhà nước tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM,
với một đối tượng cụ thể trên một vùng kinh tế lớn nhất Việt Nam.
- Luận án sẽ đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm duy trì và phát huy những
mô hình quản lý tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực để nâng cao hiệu quả quản lý
vốn nhà nước tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM. Các giải pháp
đều nêu rõ nội dung cần triển khai và các biện pháp kiến nghị thực hiện.
- Ý nghĩa của đề tài tập trung thông qua các giải pháp. Trên cơ sở lý luận và
thực tiễn khách quan của cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các Công ty TNHH MTV
do Nhà nước nắm giữ 100% vốn trực thuộc UBND TP.HCM thời gian qua, luận án đề
xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các
Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM, bao gồm các nhóm giải pháp:
- Giải pháp liên quan đến chủ thể quản lý;

- Giải pháp liên quan đến nội dung quản lý;
- Giải pháp liên quan đến hình thức quản lý;
- Giải pháp liên quan đến cơ chế kiểm tra, giám sát nhà nước.
Tuy nhiên, luận án cũng có giới hạn là chỉ nghiên cứu tập trung vào một đối
tượng xác định (Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM) và trên một phạm
vi không gian xác định (Thành phố Hồ Chí Minh). Do đó, về cơ bản vẫn chưa bao
quát hết tất cả các vấn đề về quản lý vốn của DNNN nói chung.
7. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu và nội dung cơ bản của luận án tập trung vào ba vấn đề chính: 1) Cơ sở
lý luận, cơ sở pháp lý về vốn của DNNN – nhìn từ góc độ Công ty TNHH MTV; 2)
Thực trạng quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM và;
3) Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn tại Công ty TNHH MTV trực thuộc
UBND TP.HCM.


Phần mở đầu là phần nghiên cứu tổng quan trong đó nêu lên tính cấp thiết của
đề tài. Bên cạnh những nhận định chung thì luận án đã thực hiện nghiên cứu tổng
quan về tình hình nghiên cứu của đề tài để từ đó xem xét, đánh giá những vấn đề mà
các tác giả khác đã nghiên cứu cũng như những kết quả mà họ đã đạt được để từ đó có
được cái nhìn khái quát chung cho luận án cũng như xác định đúng đắn mục tiêu, tính
mới, tính hợp lý và định hướng nghiên cứu của đề tài.
Bên cạnh đó, trên cơ sở định hướng về mặt nội dung, Phần mở đầu cũng giới
hạn phạm vi nghiên cứu để đề tài mang tính chuyên sâu và bảo đảm giá trị thực tiễn.
Những phương pháp như phương pháp so sánh đối chiếu, phân tích thống kê và khảo
sát thực tế, phương pháp phân tích, tổng hợp cũng như việc tham khảo, tư vấn ý kiến
chuyên gia thông qua hội thảo, phiếu xin ý kiến, để nội dung đề tài được phong phú
nhưng hợp lý, đúng hướng và đảm bảo các giải pháp mang tính khả thi cao.
Chương 1 là chương nghiên cứu mang tính chất lý luận và pháp lý các khái
niệm cơ bản về vốn và quản lý vốn của một doanh nghiệp. Chương này tập trung phân
tích vào vai trò, đặc điểm hoạt động của DNNN và quản lý vốn DNNN. Bên cạnh đó,

vấn đề quản lý vốn và cơ chế giám sát vốn tại các DNNN của một số nước trên thế
giới như Singapore, Trung Quốc… Mục đích của phần này là tìm hiểu cách thức mà
các nhà nước khác đã thực hiện việc quản lý vốn của mình. Kết quả của chương này
nhằm đáp ứng mục tiêu cung cấp thông tin nói chung và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Một vấn đề khác cũng được tác giả nghiên cứu trong Chương 1 là cơ sở pháp lý
về công ty trách nhiệm hữu một thành viên, bao gồm khái niệm, phân loại vốn, cơ sở
pháp lý về quản lý vốn và phân tích về khung lý thuyết quản lý vốn. Trong đó về
khung lý thuyết quản lý vốn phân tích rõ 4 thành tố chính là chủ thể quản lý vốn, nội
dung quản lý vốn, hình thức quản lý vốn và cơ chế kiểm tra giám sát của nhà nước tại
Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM nhằm xác định những vấn đề hoặc
giải pháp để nâng cao hiệu quả trong quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV.
Chương 2 là chương về thực trạng quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV
trực thuộc UBND TP.HCM. Chương này rất quan trọng vì đây là mục tiêu cũng như
nhiệm vụ trọng tâm của tác giả thực hiện đề tài. Nội dung chương sẽ bao quát những


vấn đề mang tính lý luận nhưng phạm vi nghiên cứu sẽ hẹp và sâu hơn. Điểm nhấn
quan trọng của chương này là khảo sát thực trạng về Công ty TNHH MTV trực thuộc
UBND TP.HCM và thực trạng quản lý vốn tại các công ty này theo 4 thành tố chính
của khung lý thuyết quản lý vốn (bao gồm chủ thể quản lý vốn, nội dung quản lý vốn,
hình thức quản lý vốn và cơ chế kiểm tra giám sát) để từ đó đưa ra những nhận xét
đánh giá mang tính khách quan cũng như tìm ra được các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM nhằm làm
tiền đề cho các kiến nghị và giải pháp ở Chương 3.
Chương 3 là phần kết của đề tài. Chương này đưa ra những kiến nghị và giải
pháp cụ thể về các vấn đề đã được đặt ra ở Chương 2. Kết quả nghiên cứu ở các
chương trước được đúc kết ở chương này và đây cũng sẽ thể hiện rõ tính mới cũng
như giá trị của đề tài, cụ thể đó là những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý vốn tại các Công ty TNHH MTV trực thuộc UBND TP.HCM.



1

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ VỐN VÀ QUẢN LÝ VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
1.1. Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về vốn và quản lý vốn của doanh nghiệp
nhà nước
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp về nguyên tắc, phải là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Theo quy định tại Khoản 22, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNNN là
doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Vừa mới đây, Quốc hội
đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2014 (có hiệu lực vào ngày 01/07/2015, sau đây gọi
tắt là Luật Doanh nghiệp 2014), Luật này có quy định thêm chương Doanh nghiệp nhà
nước (Chương IV). Theo cách giải thích từ ngữ ở Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì
DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Bên cạnh là một tổ
chức kinh tế được đầu tư vốn bởi nhà nước, DNNN có tư cách pháp nhân và hoạt
động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao cho. Các mục tiêu
kinh tế xã hội này có thể là hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích.
Khoản 2, Điều 2, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 ban hành ngày 05/12/2014 cũng nói rõ
doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bao gồm Công ty TNHH MTV
do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước,
công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ – công ty
con; Công ty TNHH MTV độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Trong phạm vi luận án này, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là Công ty TNHH
MTV - Công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty hoạt động theo mô


2

hình công ty mẹ - công ty con (sau đây gọi chung là công ty mẹ); Công ty TNHH
MTV (Công ty TNHH MTV độc lập).
1.1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp nhà nước
Có nhiều tiêu chí để phân loại DNNN, mỗi tiêu chí sẽ phân loại DNNN thành
các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Thông thường, khi phân loại DNNN sẽ căn cứ
vào các tiêu chí sau: tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, tiêu chí mục đích hoạt động, quy mô
hình thức, cách thức tổ chức quản lý doanh nghiệp và phân cấp quản lý.
- Căn cứ tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại doanh nghiệp, DNNN có hai loại:
Doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu và Doanh nghiệp có vốn nhà nước. Theo
đó, doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu bao gồm Công ty TNHH MTV - Công
ty mẹ của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con (sau đây gọi chung là công ty mẹ); Công ty TNHH MTV (Công ty
TNHH MTV độc lập); Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).
Doanh nghiệp có vốn nhà nước bao gồm công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn từ hai thành viên trở lên do các Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh là chủ sở hữu
vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Việc xác định những công ty này thuộc phạm vi DNNN
có mục đích chủ yếu là đặt ra một số quy định riêng để điều chỉnh từng loại hình
doanh nghiệp.
- Căn cứ vào mục đích hoạt động thì DNNN cũng bao gồm hai loại là DNNN
hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Việc phân loại theo tiêu chí này
giúp doanh nghiệp tập trung vào mục tiêu hoạt động chính của mình. Nhà nước sẽ có
cơ chế quản lý và có chính sách phù hợp với từng loại doanh nghiệp.
- Căn cứ vào quy mô và hình thức thì có DNNN độc lập (không ở trong cơ
cấu tổ chức của doanh nghiệp khác); doanh nghiệp thành viên và Tổng công ty Nhà

nước. Trong đó, DNNN thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu tổ chức của một
doanh nghiệp lớn hơn. Tổng công ty Nhà nước là DNNN có quy mô lớn bao gồm các
đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ,
thông tin, đào tạo... trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính do
Nhà nước thành lập nhằm tăng cường, tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá
và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu


3

quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn tổng công ty, đáp ứng nhu cầu
của nền kinh tế.
- Căn cứ vào cách thức tổ chức, quản lý doanh nghiệp gồm có DNNN có Hội
đồng thành viên (là DNNN mà ở đó Hội đồng thành viên thực hiện chức năng quản lý
hoạt động của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lý
nhà nước được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của doanh nghiệp) và DNNN
không có Hội đồng thành viên (là DNNN lựa chọn mô hình Chủ tịch công ty theo chế
độ thủ trưởng).
Theo Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 89, Điều 78), Công ty TNHH MTV do
Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có thể tổ chức và quản lý theo một trong hai mô
hình đó là: 1) Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên
hoặc; 2) Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên. Nếu
theo mô hình có Hội đồng thành viên thì phải tuân thủ theo quy định từ Điều 90 đến
Điều 97; Nếu theo mô hình Chủ tịch công ty thì theo quy định tại Điều 98 của Luật
Doanh nghiệp 2014.
- Căn cứ vào phân cấp quản lý thì DNNN chia làm hai loại đó là tập đoàn kinh
tế nhà nước và SCIC do Chính phủ quản lý; loại thứ hai là Công ty TNHH MTV phân
cấp cho Bộ và Ủy ban nhân cấp tỉnh quản lý.
1.1.1.3. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Đặc điểm chung của doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập theo quy

định của pháp luật. Nó khác với tổ chức xã hội hay hiệp hội nghề nghiệp. Để trở thành
một doanh nghiệp thì điều kiện đầu tiên là phải thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh.
Khi cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh
nghiệp đó có năng lực chủ thể và tư cách pháp nhân để tiến hành các hoạt động kinh
doanh.
Đặc điểm chung khác nữa của doanh nghiệp là doanh nghiệp phải có tên riêng,
trụ sở giao dịch, có tài sản và có sử dụng lao động làm thuê. Tên gọi để thực hiện giao
dịch hay các hoạt động khác của doanh nghiệp. Trụ sở chính của doanh nghiệp đặt ở
địa phương nào thì sẽ quyết định việc doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh và


4

được cấp phép. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải có tài sản để hoạt động. Tài sản này
được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư, vốn do doanh nghiệp huy động và vốn
do doanh nghiệp tạo lập thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vốn đóng vai trò
quyết định trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp
phải có lao động làm thuê vì doanh nghiệp muốn hoạt động phải có nguồn nhân lực.
Đặc điểm chung cuối cùng là mục đích hoạt động chủ yếu của các doanh
nghiệp là nhằm mục đích kinh doanh. Đây là một dấu hiệu quan trọng để phân biệt
doanh nghiệp với các tổ chức xã hội hay hiệp hội nghề nghiệp. Doanh nghiệp hoạt
động dưới mục đích sinh lời và mục đích này là một thuộc tính không tách rời của
doanh nghiệp[38].
Tuy nhiên, mỗi loại hình doanh nghiệp vẫn có sự khác biệt nhất định và do đó,
chúng cũng có một số điểm đặc thù. Đối với DNNN thì có các đặc điểm riêng biệt
sau:
- Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực tiếp thành lập. DNNN
đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập khi thấy
việc thành lập doanh nghiệp là cần thiết. Việc thành lập DNNN dựa trên nguyên tắc
chỉ thành lập trong những ngành, lĩnh vực then chốt, xương sống của nền kinh tế với

những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế thời điểm đó và chủ trương của Đảng và nhà
nước về ngành nghề lĩnh vực đó.
- DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà nước, tài sản của
DNNN là một bộ phận của tài sản Nhà nước. DNNN sau khi được thành lập là một
chủ thể kinh doanh, tuy nhiên chủ thể kinh doanh này không có quyền sở hữu đối với
tài sản trong doanh nghiệp mà chỉ là người quản lý tài sản và kinh doanh trên cơ sở sở
hữu của Nhà nước. Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển vốn mà Nhà nước giao.
- DNNN do Nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo mục tiêu kinh tế xã
hội do Nhà nước giao. Đây là một đặc điểm khác biệt so với các doanh nghiệp nói
chung. Nếu đa phần các doanh nghiệp thành lập với mục đích thuần túy là kinh doanh
để kiếm lợi nhuận thì DNNN có khi được thành lập nhằm mục đích thực hiện các
nhiệm vụ công ích, phục vụ lợi ích công cộng, cung ứng dịch vụ công cộng theo các


5

chính sách của Nhà nước để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ
quốc phòng an ninh. Có thể thấy rằng hoạt động của doanh nghiệp chịu sự chi phối
của nhà nước về mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Nếu Nhà nước giao cho
DNNN nào thực hiện hoạt động kinh doanh thì DNNN đó phải kinh doanh có hiệu
quả, DNNN nào được giao thực hiện hoạt động công ích thì DNNN đó phải thực hiện
hoạt động công ích nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
- Nhà nước quản lý DNNN thông qua cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền theo phân cấp của Chính phủ. Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản
lý trong từng loại DNNN phù hợp với quy mô của nó; quy định chức năng nhiệm vụ
quyền hạn của các cơ cấu tổ chức trong DNNN như Hội đồng thành viên, Hội đồng
quản trị, Tổng giám đốc... cũng như quy định thẩm quyền trình tự thủ tục của việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp
như Chủ tịch Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị.

Như vậy, DNNN là một pháp nhân chịu trách nhiệm hữu hạn về mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh trong phạm vi số vốn Nhà nước giao.
1.1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
DNNN hoạt động theo hai mục tiêu xác định là mục tiêu kinh doanh và mục
tiêu công ích. Với hai mục tiêu cơ bản này, DNNN đóng vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế của đất nước, nhất là trong việc tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP),
góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng ngân sách. Bên cạnh đó, DNNN cũng có vai trò rất
quan trọng trong việc thực hiện trách nhiệm với xã hội thông qua các hoạt động công
ích, hoạt động mang tính xã hội, xóa đói giảm nghèo và lợi ích quốc gia. Gần như
DNNN hiện diện trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và nền kinh tế quốc
gia. Trong bất cứ lĩnh vực nào, DNNN cũng đóng một vai trò cốt lõi.
Vai trò chủ đạo và chiến lược của DNNN trong các thành phần kinh tế
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 51, Hiến pháp 2013 thì nền kinh tế Việt Nam
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Với tư cách là một bộ
phận cấu thành của kinh tế nhà nước, DNNN đóng vai trò quyết định trong cơ cấu các


6

thành phần kinh tế, thực hiện nhiệm vụ mà nhà nước và xã hội giao phó. Chủ đạo ở
đây được hiểu là chủ đạo về vốn sở hữu, chủ đạo về ngành kinh tế, chủ đạo về hiệu
quả sử dụng vốn, chủ đạo về quy mô GDP tạo ra, chủ đạo về an sinh xã hội và lợi ích
cộng đồng, chủ đạo về khoa học kỹ thuật và nghiên cứu, chủ đạo về chính trị và an
ninh quốc phòng[64]. Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện ở các mặt như tạo ra của cải
cho xã hội cũng như tạo động lực phát triển kinh tế; mở đường và hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác, bảo đảm tăng trưởng đồng bộ nền kinh tế; vai trò xung kích trong
việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[20].
Trong thời gian qua, DNNN cơ bản đã hoàn thành được vai trò, nhiệm vụ chủ
sở hữu giao, đã tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy việc hình thành, phát triển nền hạ tầng kinh

tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội; thúc đẩy cạnh tranh, hội
nhập kinh tế thế giới. Hiện nay, hệ thống DNNN đã và đang được sắp xếp lại, góp
phần phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh khu vực. Mặc dù, tỷ trọng GDP giảm
dần (từ mức 34,72% năm 2009 còn 31,87% năm 2015) nhưng vị trí của DNNN vẫn
bảo đảm vai trò chủ đạo của nền kinh tế do ngành nghề, lĩnh vực hoạt động chính,
then chốt, thiết yếu của DNNN đã góp phần tạo ra vị trí chủ đạo của nền kinh tế nhà
nước.
Ngoài tính chất chủ đạo, các DNNN còn thực hiện vai trò mang tính chiến
lược. DNNN được xác định là đi đầu trong các chính sách phát triển kinh tế và xã hội
của đất nước. Với tính ưu thế trong vai trò chủ đạo, DNNN ngoài việc mang tính
chiến lược trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội còn mang tính chiến lược
trong chuyển giao công nghệ, điều tiết vốn, phân phối sản phẩm và phân bố lao động.
DNNN đã và đang tái cơ cấu có hiệu quả để giữ vững vai trò chủ đạo và chiến
lược: tổng tài sản của các DNNN năm 2013 là 2.869.120 tỷ đồng; vốn chủ sở hữu của
DNNN năm 2013 là 1.145.564 tỷ đồng, tăng 12,36% so với năm 2012; nộp ngân sách
nhà nước năm 2013 đạt 276.063 tỷ đồng, tăng 23% so với thực hiện 2012; lợi nhuận
trước thuế của DNNN năm 2013 đạt 181.530 tỷ đồng; đóng góp 33% GDP, đóng góp
khoảng 22% thu ngân sách nhà nước; trên 80% DNNN có lãi, tỷ suất lợi nhuận/vốn
chủ sở hữu là 15,85%.


7

Vai trò trong việc điều tiết nền kinh tế
Có thể thấy rằng DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước điều tiết nền kinh tế một
cách chủ động để nền kinh tế đó vận hành theo định hướng nhất định phù hợp với ý
chí nhà nước. (Điều này trong nền kinh tế mà các thành phần kinh tế tự do vận hành sẽ
không thể có được). Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách để các
doanh nghiệp thực hiện, đặc biệt là DNNN, như chương trình phát triển kinh tế ngắn

hạn và dài hạn, định hướng cho toàn bộ nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, nhà nước còn điều tiết thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm ổn
định thị trường vốn; chính sách đầu tư vào các lĩnh vực then chốt, thiết thực cho nền
kinh tế quốc dân; bảo vệ sản xuất trong nước, chống độc quyền và bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách đó, DNNN được xem như là một công
cụ điều tiết quan trọng. Thứ nhất, các DNNN có lợi thế kinh tế so với các loại hình
doanh nghiệp khác hoạt động trong những lĩnh vực then chốt, đi đầu trong hoạt động
đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp nhằm điều tiết thu nhập và thực
hiện chính sách phúc lợi công cộng. Thứ hai, DNNN là nhân tố quyết định trong sự
tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách đầu tư mang tính quyết định của nhà nước.
Thứ ba, DNNN là công cụ để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường như
độc quyền hay lũng đoạn. Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra tình trạng mất cân đối và
nguy cơ rối loạn thị trường (cả về sản phẩm và giá cả). Có sự can thiệp của nhà nước
thông qua các hoạt động của DNNN sẽ tạo một hiệu ứng rất lớn đối với sự ổn định
kinh tế và khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế (nếu có). Thứ tư, DNNN góp phần
cân đối phân phối phúc lợi xã hội như tạo công ăn việc làm hay phát triển cân bằng
kinh tế giữa các vùng[21].
Vai trò xã hội của doanh nghiệp nhà nước
Xét về mặt bản chất, nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển kinh tế và
xã hội một cách toàn diện, trong đó bao gồm cả mục tiêu xóa dần những cách biệt về
mọi mặt giữa thành thị và nông thôn, vùng đồng bằng và vùng cao, giữa dân tộc đa số


8

và các dân tộc thiểu số… DNNN xét từ khía cạnh vai trò xã hội, đã đóng vai trò rất
đặc biệt trong việc thực hiện những mục tiêu phát triển và cân bằng xã hội. Mục tiêu
kinh tế Việt Nam là phát triển nền kinh tế thị trường nhưng phải giải quyết được
những bất cập của nền kinh tế thị trường cũng như những xung đột về lợi ích xuất phát

từ tự do hóa thương mại, bảo đảm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cân bằng
các giá trị kinh tế - văn hóa và xã hội cũng như cân bằng trong phân phối sản phẩm và
bảo đảm công bằng xã hội.
Vai trò xã hội của DNNN còn thể hiện qua việc giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động; tích cực trong việc giải quyết các vấn
đề xã hội. Theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2013 do Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm
2012, so với lao động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, lao động
trong các DNNN có thu nhập cao nhất. Tính đến năm 2013, khu vực DNNN bình
quân sử dụng 14% việc làm của nền kinh tế, có năng suất đạt 216.5 triệu
đồng/người/năm; bằng 3,1 lần năng suất lao động chung.
Việc thực hiện an sinh xã hội cũng là trách nhiệm của DNNN trong việc phát
triển kinh doanh phù hợp với đạo lý và góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống. Đó là
trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường, trách nhiệm với người lao động, trách
nhiệm đối với người tiêu dùng và trách nhiệm đối với cộng đồng. Các DNNN luôn đi
đầu trong việc thực hiện các chương trình như: hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với các huyện nghèo bằng việc tập trung vào các mục tiêu phát triển sản xuất, đào
tạo dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập; trang thiết bị y tế; xây dựng, xóa nhà tạm,
nhà dột nát cho người nghèo...; và các chương trình an sinh xã hội khác của Trung
ương cũng như địa phương trên địa bàn cả nước. Bên cạnh đó, một số công trình, dự
án phục vụ quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa IX) về
Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 đã được nghiên cứu, triển khai thực hiện,
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội ở các địa phương và bảo vệ chủ
quyền biên giới, hải đảo của tổ quốc. Như vậy, các DNNN luôn xem việc thực hiện
trách nhiệm an sinh xã hội là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội
của DNNN.


9


Vai trò quan trọng trong việc nộp thuế
Một trong những chức năng của DNNN kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Trong trường hợp này, lợi nhuận là thước đo tính hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Lợi nhuận ngoài việc giúp nhà nước thu hồi vốn đầu tư, nó còn giúp cho
doanh nghiệp tái sản xuất, phát triển, mở rộng và nộp ngân sách dưới dạng thuế và các
khoản thu khác. Đây không chỉ là nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước mà còn
là biểu hiện cho sự hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả của DNNN.
DNNN đóng góp một nguồn tài chính hết sức to lớn cho ngân sách nhà nước.
Điều này đã được minh chứng thông qua việc đóng thuế thu nhập doanh nghiệp của
các DNNN. Ví dụ, theo Vietnam Report (Công ty cổ phần báo cáo đánh giá Việt
Nam) và Tạp chí Thuế (Tổng cục thuế), tổng thuế thu nhập doanh nghiệp của 1000
doanh nghiệp trong bảng xếp hạng V1000 năm 2013 là 77 nghìn tỷ đồng, trong đó
DNNN chiếm 52,6%[71].
Nhìn chung, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng. DNNN không
những là một đơn vị kinh doanh mà vai trò của nó còn phải được thể hiện trong nhiều
lĩnh vực văn hóa, xã hội và phát triển con người. Đây là điều khác biệt rất cơ bản giữa
loại hình DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.1.2. Vốn và phân loại vốn của doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm vốn của Doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm về vốn
Vốn là điều kiện cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh
nghiệp, nhưng mục đích cao nhất của doanh nghiệp chính là lợi nhuận. Điều đó đồng
nghĩa với doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có của
mình, trong đó sử dụng hiệu quả nguồn vốn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh
mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào
tận dụng tối đa năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả quản lý vốn thì sẽ có điều kiện



10

đứng vững trên thị trường. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu hàng đầu của
mọi doanh nghiệp vì đây là yếu tố không những bảo đảm cho doanh nghiệp an toàn về
mặt tài chính, hạn chế rủi ro, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận mà còn
giúp doanh nghiệp tăng uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường. Có thể nói rằng hiệu quả sử dụng vốn thực chất là thước
đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực, tài chính của doanh nghiệp, tạo những lợi thế
nhất định để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển[41].
Khái niệm vốn đã được đề cập nhiều trong các lĩnh vực quản trị học, kinh tế
học, luật học... Tuy nhiên, khái niệm vốn có nhiều quan điểm khác nhau. Điều này
phát sinh là do cách tiếp cận cũng như góc nhìn không giống nhau giữa các nhà quản
lý, nhà nghiên cứu và nhà kinh doanh.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, “Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó
được đưa vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình
muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người
lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục
đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Còn “nguồn vốn” chính là nơi cung cấp vốn
cho các hoạt động trên”[28]. Theo quan điểm này, vốn là tiền tệ đưa vào kinh doanh
(hay đầu tư) để kiếm lời. Nói cách khác, vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
sinh lợi[61].
Cùng với quan điểm trên, từ góc độ tài chính cũng đưa ra khái niệm gần như
tương tự. Vốn, theo quan niệm này chính là tất cả các tài sản bỏ ra ban đầu (thường là
tiền) để phục vụ cho mục đích kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi [61].
Vốn là điều kiện tiên quyết cho doanh nghiệp bởi lẽ nó là điều kiện cần cho
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, vốn luôn vận động và thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm cuối
cùng là giá trị tiền nên đối với các doanh nghiệp, vốn là toàn bộ tài sản mà doanh

nghiệp thiết lập ban đầu và vận dụng vào kinh doanh để tăng giá trị khối tài sản đó ở
mức độ cao nhất có thể được[61].


×