Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các yếu tố xây dựng nhân cách con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.25 KB, 12 trang )

Lời Mở Đầu
Nghiên cứu tâm lý con người được xem là trong những vấn đề khó khăn và phức tạp
nhất đối với trí thức con người đặc biệt là nhân cách và những yếu tố góp phần nên sự
hình thành và phát triển của nhân cách. Bắt nguồn từ các bậc Tiên Nho, trong thiên
Dương Hóa, sách Luận Ngữ, Khổng tử nói “Tính tương cận, tập tương viễn” có nghĩa là :
bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau. Trong Tam tự kinh câu
đầu tiên là "Nhân chi sơ, tính bản thiện" nghĩa là con người khi mới sinh ra đã mang tình
thiện. Mạnh Tử quan niệm ai cũng có mầm thiện trong lòng. Nhưng đối lập với nó là câu
nói của Tuân Tử ,một trong những người chủ trương pháp trị, nghĩa là cai trị bằng pháp
luật. : “ nhân chi sơ tính bản ác” con người có trong mình tính ác từ khi mới lọt lòng.
Cùng bàn về tính thiện ác trong con người, một nhà triết học phương Tây là Honbach
cũng đưa ra quan điểm : “con người khi sinh ra vốn không thiện cũng không ác. Thiện
hay ác là do hoàn cảnh tạo nên”
Vậy thì thực chất vấn đề là như thế nào? Con người ta là thiện hay là ác? tính thiện, ác
do đâu mà có? Và vấn đề này có ý nghĩa như thế nào đến đời sống của sinh viên hiện nay.

A . Nội dung:
1|Page


Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, như triết
học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo dục học…
Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người, về cơ bản, có những khác
biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể. Triết học Mác - Lênin xem nhân cách
là "những cá nhân con người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ
thể của lao động, của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện
lịch sử - cụ thể của đời sống xã hội". Theo đó, nhân cách trước hết là đặc trưng xã
hội của con người, là "phẩm chất xã hội" của con người. Khi nghiên cứu về nhân
cách, một trong những vấn đề đầu tiên và cũng là then chốt, là vấn đề sự hình thành
nhân cách. Giải quyết vấn đề này theo những cách khác nhau sẽ dẫn tới quan niệm
khác nhau về bản chất của nhân cách. Chính vì thế, sự tranh luận giữa các trường


phái triết học bàn về nhân cách thường xoay quanh chủ đề này. Trong bài viết này,
chúng tôi không có tham vọng trình bày mọi quan điểm của các trường phái triết học
trong lịch sử, mà chỉ tập trung vào quan điểm mácxít về sự hình thành nhân cách.
Các yếu tố xây dựng nhân cách con người :

I.

1. Yếu tố bẩm sinh di truyền

Có cơ sở vững vàng khẳng định rằng nhiều đặc điểm nhân cách được di truyền
trong đó có thể kể đến: Những khía cạnh về tâm thần, thần kinh và hướng ngoại của
Eysenck (riêng về sự hướng ngoại bắt nguồn từ công trình của Jung).

Năm yếu tố thần

kinh, hướng ngoại, sự cởi mở trước cái mới, tính dễ thích nghi và sự tận tâm của McCrae
và Costa. Ba tính cách gồm tính đa cảm, tính năng động và tính hoà đồng. Hơn nữa nét
tiêu biểu về sự tìm kiếm cảm giác của Zuckerman trước tiên bị ảnh hưởng bởi yếu tố di
truyền. Như vậy cách tiếp cận nét tiêu biểu tập trung vào sự ảnh hưởng của tính di truyền
vẫn rất quan trọng ngày nay và có thể trở thành phạm vi phát triển nhanh nhất trong
nghiên cứu nhân cách. Cái còn lại cần được xác định chính xác là có bao nhiêu yếu tố di
truyền, đặc điểm hay tính cách. 16 theo Cattell, 3 theo Eysenck, 5 theo McCrae và Costa,
3 theo Plomin và Buss hay chưa được xác định như một số nhà lý luận khác? Nghiên cứu
trong tương lai về di truyền học hành vi có thể cung cấp them nhiều khía cạnh nữa về
2|Page


nhân cách được hình thành bởi các yếu tố di truyền. Không quan trọng có bao nhiêu đặc
điểm, cũng không quan trọng khi đề xuất mạnh mẽ nhất về cách tiếp cận di truyền học lập
luận rằng nhân cách có thể được giải thích đầy đủ và trọn vẹn bởi tính di truyền. Cái

chúng ta thừa hưởng là những cái có, không phải số phận, xu hướng hay điều chắc chắn.
Liệu khuynh hướng di truyền từng được nhận thức rõ phụ thuộc vào những điều kiện môi
trường sống và xã hội đặc biệt là của thời kỳ thơ ấu.
2 . Yếu tố hoàn cảnh
Tất cả các nhà lý luận về nhân cách mà chúng ta đã thảo luận thừa nhận tầm quan
trọng của môi trường xã hội. Alder nói về tác động của trật tự sinh, lập luận rằng nhân
cách bị ảnh hưởng bởi vị trí của chúng ta trong gia định trong quan hệ với anh chị em
ruột. Chúng ta được thấy nhiều hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau tuỳ theo độ chênh
lệch tuổi giữa các anh chị em ruột hoặc việc có anh chị em ruột hay không. Theo quan
điểm của Adler, những môi trường gia đình khác nhau này có thể tạo ra nhiều nhân cách
khác nhau.
Horney tin rằng văn hoá và thời đại mà chúng ta được nuôi nấng cho thấy tác động
của nó chẳng hạn như tác động mà bà ghi chép được trong chứng loạn thần kinh chức
năng được di truyền bởi những bệnh nhân Đức và Mỹ. Bà cũng chỉ ra các môi trường xã
hội khác nhau rõ nét mà những cậu bé và cô bé bộc lộ. Bà đã nói về sự lép vế của những
cô bé lớn lên trong những nền văn hoá đàn ông chi phối. Bà gợi ý rằng phụ nữ được nuôi
dưỡng trong nền văn hoá mẫu hệ có thể có lòng tự trọng cao hơn và các đặc điểm nhân
cách khác. Fromm tán thành ảnh hưởng của những sức mạnh và sự kiện lịch sử loan hơn
như là hình thái xã hội mà một dân tộc xây dựng. Mỗi thời đại trong lịch sử - dù là Trung
Cổ hay Khai sang, Phong trào cải cách tin lành hoặc Cách mạng công nghiệp chẳng hạn –
đóng góp cho việc hình thành nhân cách khác nhau hoặc các đặc điểm tính cách thích hợp
với nhu cầu của thời đại đó. Ngay cả Allport và Cattell những người mở đầu cách tiếp cận
đặc tính cho nghiên cứu nhân cách cũng đồng ý về tầm quan trọng của môi trường.
Allport nhận thấy rằng mặc dù di truyền học cung cấp nguyên liệu thô cơ sở cho nhân
cách chính môi trường xã hội nhào nặn nguyên liệu ấy thành sản phẩm cuối cùng. Cattell
3|Page


lập luận rằng tính di truyền quan trọng hơn cho một số yếu tố nhân cách so với những yếu
tố khác nhưng những yếu tố môi trường có ảnh hưởng cuối cùng tới tất cả mọi yếu tố ở

một mức độ nhất định. Tám giai đoạn của Erikson về sự phát triển tâm lý mang mang tính
bẩm sinh nhưng môi trường xác định những cách thức trong đó các giai đoạn có cơ sở di
truyền được thực hiện. Ông tin rằng những sức mạnh lịch sử và xã hội ảnh hưởng sự hình
thành cái tôi cá nhân. Maslow và Rogers cho rằng sự tự thực hiện mang tính bẩm sinh
nhưng thừa nhận rằng yếu tố môi trường có thể kiềm chế hoặc thúc đẩy nhu cầu tự thực
hiện. Các sự kiện xã hội quy mô lớn như là chiến tranh và suy thoái kinh tế có thể hạn chế
sự lựa chọn cuộc sống và ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức về cá tính. Những thay đổi
về cuộc sống bình thường hơn (bị bệnh, ly dị và thay đổi nghề nghiệp) cũng có thể ảnh
hưởng đến nhân cách. Cuối cùng, nguồn gốc dân tộc và điều chúng ta thuộc dân tộc đa số
hay thiểu số cũng góp phần xác định nhân cách. Chúng ta thấy những ví dụ về sự khác
nhau dân tộc trong những biến số như sự tìm kiếm cảm giác, nơi kiểm soát, và nhu cầu
thành đạt. Chúng ta cũng biết rằng thành viên của các nhóm thiểu số phát triển tính đồng
nhất dân tộc cũng như cái tôi cá nhân và phải thích nghi với cả hai nền văn hoá. Thành
công của sự thích nghi này ảnh hưởng nhân cách và thể chất tâm lý. Vì tất cả những lý do
này không thể chối bỏ tác động của những sức mạnh xã hội và môi trường khác nhau tới
nhân cách. Cách thức đáng kể nhất mà tác động này được thể hiện đó là thông qua học
tập.
3 . Yếu tố giáo dục
Chứng cứ rất rõ ràng về việc học tập đóng vai trò chủ yếu ảnh hưởng đến hầu như
mọi khía cạnh của hành vi. Tất cả những ảnh hưởng môi trường và xã hội hình thành
nhân cách tác động tới hành vi thông qua việc học tập. Ngay cả những khía cạnh nhân
cách được thừa hưởng cũng có thể bị thay đổi, phá vỡ, ngăn chặn hoặc để cho phát triển
bởi quá trình học tập. Skinner (trên cơ sở công trình của Watson và Pavlov trước đó) đã
cho chúng ta biết giá trị của sự củng cố tích cực, sự tiếp cận liên tục, hành vi siêu việt và
nhiều biến số học tập khác như là sự tích luỹ những câu trả lời được học. Bandura đưa ý
tưởng rằng chúng ta học hỏi từ những mô hình quan sát (học tập quan sát) và thông qua
nhiều việc trao thưởng khác nhau. Đối với Rotter, việc trao thưởng là chìa khoá. Ông lập
4|Page



luận rằng động cơ chính của chúng ta là tối đa hoá việc củng cố tích cực. Bandura và
Rotter đồng ý với Skinner rằng đa số các hành vi là được học và di truyền chỉ đóng vai
trò hạn chế. Chúng ta đã bàn nhiều khía cạnh của nhân cách có bằng chứng khoa học để
chỉ ra rằng chúng được học tập chẳng hạn như nhu cầu của McClelland về thành đạt (vốn
được đề xuất bởi Murray). Hơn nữa, nghiên cứu đã chứng minh bằng tài liệu rằng việc
học tập ảnh hưởng đến tính hiệu quả của bản thân (Bandura), trọng tâm kiểm soát
(Rotter), và sự không tự lực được học (Seligman). Những quan niệm này dường như có
liên quan đến một khái niệm rộng hơn: mức độ kiểm soát. Những người tin rằng họ kiểm
soát cuộc sống của mình thường có mức độ hiệu quả cao, có điểm nội tại về kiểm soát và
không đặc trưng cho sự không tự lực (bao hàm việc thiếu kiểm soát). Trong thuật ngữ của
Seligman những người tin rằng họ trong trạng thái kiểm soát thường lạc quan hơn là bi
quan. Kiểm soát là có ích cho nhiều khía cạnh của cuộc sống và đại diện cho một trong
những phát triển lý thú nhất về nghiên cứu nhân cách trong những năm gần đây. Một mức
độ kiểm soát cao có liên quan đến những cơ chế đối phó tốt hơn, ít tác động áp lực hơn,
có sức khoẻ thể chất và tinh thần tốt hơn và kỹ năng xã hội và tính đại chúng lớn hơn. Dù
với bất cứ cái tên nào – tính tự hiệu quả, điểm nội tại về kiểm soát hay tính lạc quan kiểm soát được xác định bởi những yếu tố môi trường và xã hội. Điều này được học trong
thời kỳ thơ ấu và trưởng thành mặc dù nó có thể thay đổi trong cuộc sống sau này. Chúng
ta thấy rằng các hành vi cha mẹ đặc thù có thể giúp cho sự trưởng thành cảm giác trong
tình trạng kiểm soát của trẻ. Như vậy khái niệm kiểm soát mang khía cạnh học tập của
nhân cách và cách cư xử của cha mẹ là hết sức quan trọng đối với nó.
4. Yếu tố hoạt động :
Freud tin rằng nhân cách được hình thành và xác định vào lúc 5 tuổi và khó có thể
thay đổi bất cứ khía cạnh nào của nhân cách sau đó. Chúng ta chấp nhận rằng những năm
thời thơ ấu là rất quan trọng cho sự hình thành nhân cách, nhưng cũng rất tõ ràng rằng
nhân cách tiếp tục phát triển sau thời kỳ thơ ấu, có thể suốt cả quãng đời. Những nhà lý
luận như Cattell, Allport, Erikson và Murray cho rằng thời thơ ấu quan trọng nhưng đồng
ý rằng nhân cách có thể được thay đổi trong những năm sau. Một số nhà lý luận cho rằng
sự phát triển nhân cách tiếp tục được duy trì trong thời kỳ niên thiếu. Jung, Maslow,
5|Page



Erikson và Cattell lưu ý rằng thời trung niên là thời kỳ thay đổi nhân cách rõ nét. Vấn đề
là nhân cách của chúng ta tiếp tục thay đổi và phát triển bao lâu? Liệu cái tôi của bạn vào
tuổi 20 cho biết bạn sẽ như thế nào vào tuổi 40? Như với tất cả những câu hỏi liên quan
đến nhân cách, câu hỏi này đã trở thành một câu hỏi đặc biệt phức tạp. Có lẽ đó thậm chí
không phải là một câu hỏi đáng đặt ra. Có thể không làm bạn ngạc nhiên khi biết rằng
bằng chứng thực nghiệm chứng minh nhiều quan điểm khác nhau (xem Matthews và
Deary, 1998). Vậy nhân cách có thay đổi không? Có. Nhân cách có bền vững không? Có
thể có. Nhưng nếu chúng ta phải trau chuốt câu hỏi và hỏi liệu một số đặc điểm nhân cách
ổn định trong một khoảng thời gian trong khi những đặc điểm khác thay đổi, và rồi chúng
ta có thể sẽ trả lời được với từ có tuyệt đối. Cái xuất hiện rõ nét từ nghiên cứu là cơ sở
của chúng ta về sự kéo dài những thiên hướng nhân cách (chẳng hạn như những đặc tính
được mô tả bởi mô hình năm yếu tố của McCrae và Costa) được giữ ổn định nhiều năm.
Có chứng cứ rằng những đặc tính cơ bản này và khả năng dường như được kéo dài từ tuổi
30. Nghiên cứu chỉ ra rằng những yếu tố về chứng loạn thần kinh chức năng, sự hướng
ngoại và cởi mở suy giảm dần từ tuổi học đường cho tới tuổi trung niên, trong khi đó
những yếu tố như tính dễ mến và sự tận tâm tăng dần với tuổi tác. Những so sánh chéo về
văn hoá đã cho thấy tính ổn định trong một số nước như Hoa Kỳ, Đức, Ý, Bồ Đào Nha,
Croatia, và Hàn Quốc (Costa và McCrae, 1997; McCrae và al., 1999). Cái gì gây ra sự
thay đổi nhân cách tuổi trưởng thành? Những nhà lý luận ủng hộ ảnh hưởng quan trọng
hơn của các yếu tố di truyền đưa ra giả thuyết rằng mọi thay đổi nhân cách đều độc lập
với những yếu tố môi trường. Những nhà lý luận khác tin rằng câu trả lời được bắt nguồn
từ những ảnh hưởng môi trường và xã hội và trong những thích nghi chúng ta có trước
những ảnh hưởng ấy. Những thay đổi trong hoàn cảnh kinh tế, việc rời bỏ trường học, xây
dựng gia đình và đảm nhận vai trò cha mẹ, ly di, mất việc hoặc việc thăng chức, khủng
hoảng tuổi trung niên, cha mẹ cao tuổi tất cả mang lại những vấn đề mà người lớn phải
điều chỉnh. Hai nghiên cứu theo chiều dọc về phụ nữ xem xét yếu tố xã hội của phong
trào giải phóng phụ nữ vào những năm 70 và tác động của nó từ những năm trung học
cho tới tuổi trung niên. Nhiều điểm tăng quan trọng đã được nhận thấy trong khoảng thời
gian này liên quan đến những đặc tính nhân cách về tính ưu thế, tự công nhận, sự thấu

6|Page


cảm, sự thành đạt và sự tự lập. Trong khi đó việc tôn trọng nguyên tắc hay chuẩn mực
được nhận thấy giảm (Agronick và Duncan, 1998; Robert và Helson, 1997). Tất cả những
thách thức cá nhân và văn hoá như vậy để lại dấu vết cho nhân cách. Một nhà lý luận
đương đại đã đưa ra ý kiến rằng nhân cách có thể được mô tả theo ba cấp độ để giải thích
sự phát triển liên tục trong tuổi trưởng thành. Các cấp độ này bao gồm những đặc điểm
tâm tính, những mối quan tâm cá nhân và quá trình sống (McAdams, 1994). Những đặc
điểm tâm tính là những đặc tính di truyền như theo kiểu được McCrae và Costa nói tới,
những đặc tính điểm nhân cách này được nhận thấy ổn định và tương đối không thay đổi
từ tuổi 30 trở đi. Những mối quan tâm cá nhân bao gồm cảm giác ý thức, kế hoạch và
mục tiêu chẳng hạn cái mà chúng ta muốn, làm thế nào để chúng ta đạt được điều đó và
chúng ta cảm nhận như thế nào về những người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống. Những
cảm giác, kế hoạch và mục đích này thường thay đổi trong quãng đời như là kết quả của
những ảnh hưởng khác nhau mà chúng ta phải đối mặt như những ví dụ đã được nêu trên.
Tất cả những tình huống này có thể muốn nói đến những thay đổi trong cảm giác và ý
định của chúng ta, tuy nhiên những đặc điểm tâm tính cơ bản (chẳng hạn như cấp độ cơ
sở về tính dễ bị kích thích hay hướng ngoại) mà chúng ta sử dụng chúng để đối mặt với
những tình huống trong cuộc sống này thì tương đối không thay đổi. Cấp độ thứ ba, quá
trình sống, bao hàm việc hình thành cái tôi, có được cái riêng và tìm được một mục tiêu
thống nhất trong cuộc sống. Chúng ta liên tục viết lên câu chuyện cuộc sống của mình,
làm chúng ta trở thành ai và chungs ta phù hợp với thế giới như thế nào. Cũng như những
mối quan tâm cá nhân, quá trình sống thay đổi tuỷ theo những đòi hỏi của môi trường và
xã hội. Khi là người lớn chúng ta thêm vào và viết lại quá trình sống với từng giai đoạn
của cuộc sống với những nhu cầu, thách thức và cơ hội khác nhau. Tóm lại quan điểm
này cho rằng những đặc điểm tâm tính cơ bản phân chia nhân cách là bất biến trong khi
đó những phán xét có ý thức của chúng ta về chúng ta là ai và chúng ta mong muốn là
như thế nào thay đổi. Ý tưởng này dẫn đến một yế tố khác mà những nhà lý luận đã xem
xét đó là sự ý thức.

5. Yếu tố giao tiếp :
Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người con người mà qua
7|Page


đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở quá trình thông tin hiểu biết rung động
ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Vai trò của nó trong việc hình thành nhân cách
được thể hiện qua các mặt như :
-

Giao tiếp có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của XH cũng như

của cá nhân. Nó là con đường quan trọng nhất của sự phát triển tâm lý con người trong
quá trình hình thành đạo đức và nhân cách .
Ví dụ: Trong gia đình những lời hỏi thăm ân cần của bố mẹ đối với con cái những
câu chuyện về cuộc sống xung quanh mâm cơm là cách giao tiếp điển hình giúp ta có
được những tri thức cần thiết. Từ đó ta trưởng thành hơn, có cái nhìn sâu sắc hơn đúng
đắn hơn hình thành những phẩm chất đáng quý, hay những cuộc bàn luộn giữa bạn bè
với nhua về HIV ma túy học đường hay an toàn giao thông sẽ cho ta nhận ra điều gì tốt
hay xấu có lợi hay hại từ đó hướng ta đến những điều thiện nhũng điều tốt đẹp.
-

Giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản nhất và xuất hiện sớm nhất hay

có thể nói là nhu cầu bẩm sinh của con người. Nếu như nhu cầu này không được thỏa
mãn thì sẽ có thể gây ra hậu qủa nghiêm trọng.
Ví dụ: Những bệnh nhân mắc bệnh Hospitalism hay còn gọi là bệnh do nằm viện
thường có những biểu hiện chậm phát triển về mặt thể chất , thiếu cảm nhận về mặt kỹ
năng vận động , ngôn ngữ . Sau này người ta mới hiểu rằng nguyên nhân của bệnh là do
trẻ không có được những liên hệ xã hội cần thiết .

-

Qua con đường giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội lĩnh hội nền văn

hóa xã hội chuẩn mực xã . Ở đây con người học được cách đánh giá hành vi thái độ lĩnh
hội được một cách trực tiếp từ cuộc sống vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn dần
dần hình thành nguyên tắc đạo đức trong cuộc sống của mình. Như vậy những phẩm chất
nhân cách như tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc trung thực…được biểu
hiện và hình thành trong quá trình giao tiếp, cũng nhờ có giao tiếp con người mới có thể
đóng góp sức lực và tài năng của mình cho sự phát triển của xã hội.
-

Qua tiếp xúc con ng nhận thực được người khác đồng thời cũng qua giao tiếp con

người cũng nhận thức được về chính mình. Khi tiếp xúc con người thấy được những cái
có ở người khác tự so sánh đối chiếu với cái mình có với các chuẩn mực xã hội nên đã
8|Page


thu được những thông tin về sự hình thành đánh giá bản thân. Ví dụ một người thường
được khen ngợi, được đánh giá quá cao dễ trở nên tự cao tự coi mình là thiên tài.
Các yếu tố sinh thể môi trường xã hội giáo dục hoạt động và giao lưu đều tác động
đến sự hình thành nhân cách nhưng có vai trò không giống nhau. Theo quan điểm tâm lí
học Macxit thì yếu tố sinh thể giữ vai trò là tiền đề yếu tố môi trường thì giữ vai trò quyết
định yếu tố giáo dục tự giáo dục giữ vai trò chủ đạo hoạt động và giao tiếp của cá nhân
giữ vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển của nhân cánh.
2. Ý nghĩa thực tiễn với sinh viên hiện nay
Sinh viên người chủ tương lai của đất nước người đang được đào tạo để trở thành
nguồn lao động chính của xã hội, có nghĩa là chúng ta một mặt cần phải nâng cao kiến
thức mặt khác quan trọng hơn là rèn luyện đạo dức hoàn thiện nhân cách bởi “có tài mà

không có đức cũng là kẻ vô dụng”. Theo những thông tin “ hội thỏa giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp” do hội khoa học tâm lí
giáp dục Việt Nam vừa tổ chứ tại Đồng Nai. Tỉ lên quay cop ở bậc đại học cao đẳng lên
tới 69%; 80% sinh viên sẵn sàng nói dối để qua mặt bố mẹ. Tỉ lệ người thành niên phạm
tội ngày càng cao. Theo thống kê của viện kiểm soát nhân dân tối cao nếu năm 1986 có
3607 người thì năm 1996 con số này là 11726, trung bình mỗi năm cả nước có 4764
người chưa thành niên phạm tội bị phát hiện.
Nhận thức sâu sắc về sự tác động của hoàn cảnh tới nhân cách con người nên hơn
ai hết sinh viên chúng ta phải tự mình rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân ,
hoàn thiện nhân cách bằng cách học tập , trau dồi thêm kiến thức theo đề xướng của
UNESCO :
1.học để biết: học là công việc mà mỗi chúng ta phải làm hằng ngày hằng giờ thậm chí cả
đời , học là một quá trình tìm hiểu quan sát thu nhận rèn luyện tích lũy kiến thức cho bản
thân mình từ thấy cô giáo từ bạn bè người thân và từ cuộc sống , ngày nay khoa học tiến
bộ đời sống xã hội ngày cáng phát triển , những gì chúng ta biết chỉ như giọt nước trong
đại dương kiến thức mênh mông của nhân loại , cho nên mục đích đầu tiên cũng là bước
đầu trong quá trình hình thành nhân cách của con người đặc biệt sinh viên là nắm bắt và
làm phong phú thêm vốn kiến thức của bản thân .
9|Page


2. học để làm: “Học đi đôi với hành”. Học lí thuyết mà không biết vận dụng vào thực tiễn
không biết biến những kiến thức trên sách vào đời sống thì học cũng không mang lại hiệu
quả cao. như vậy mục đích tiếp theo của unesco như một bước nữa cao hơn để hoàn thiện
con người. học lí thuyết vốn hiểu biết rộng nhưng khi áp dụng vào thực tế thì lúng túng
thì liệu chúng ta học để làm gì. Học và biết áp dụng mới là cách học đúng đắn , muốn vậy
chúng ta phải học lí thuyết thật chắc chắc,học và áp dụng thực tế phải luôn luôn song
song với nhau , có như vậy thì việc học mới thức sự là hiệu quả.Có thể nói đây vừa là
phương pháp vừa là mục đích học tập . Khi biết vận dụng sáng tạo và linh hoạt những
kiến thức khô khốc trên sách vở vào từng điều kiện cụ thể của hoàn cảnh con người đã

học được cách tự hoàn thiện bản thân và mang lại lợi ích không chỉ cho bản thân mà còn
cho xã hội .
3. học để chung sống : Như bác hồ đã nói" có tài mà không có đức thì thành ng vô
dụng" , bởi vậy cùng song song với việc được trang bị đầy đủ tri thức là sự hiểu biết đối
nhân xử thế là đạo lí làm người." sống trong đời sống cần có một tấm lòng . Trong quá
trình học tập rèn luyện chúng ta biết đến vô vàn những bài học đạo lí tốt đẹp của các dân
tộc trên thế giới nói chung và của dân tộc Vn nói riêng . Qua đó chúng ta ý thức được cái
hay cái đẹp trong nhân cách con người do đó sẽ cũng không ngừng rèn luyện để hoàn
thiện nhân cách của bản thân .
Một khi đã ý thức được bản thân mình một cách sâu sắc thì con người sẽ học tập được
nhiều đức tính tốt của cộng đồng và sống hòa đồng với xã hội hơn , qua đó tạo nên một
cộng đồng đoàn kết tương thân tương ái biết đồng cam cộng khổ dựa vào nhau cùng xây
dựng và phát triển ngày cáng tốt đẹp .
4. học để tự khẳng định mình: Một khi chúng ta đã có kiến thức sâu rộng có ý thức sâu
sắc về bản thân thì tất yếu là mong muốn được người khác công nhận và muốn tự khẳng
định chính mình . Bởi vậy unesco đưa ra mục đích này nhằm khuyến khích và tạo động
lực cho con người càng ngày càng cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân hoàn thiện nhân
cách của chính mình .

10 | P a g e


Danh sách tài liệu tham khảo
1.Giáo trình tâm lí học đại cương - đại học luật Hà Nội - NXB Công an nhân dân
2.từ điển tâm lý học - Trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia viện Tâm lý học ( Vũ Dũng
)
11 | P a g e


3. Giáo trình tâm lý học đại cương - NXB ĐHSP ( Nguyễn Quang Uẩn )

4.Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lí học, Nxb. Quốc gia HN 2000
5.Nguyễn Ngọc Bích,, tâm lí học nhân cách,NXB Hà Nội, 2001
6. http: tamlyhoc.net
7. http: tamly.com.vn
8. http: vietbao.com.vn
9. A.N.Leonchev, hoạt động - ý thức- nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000

12 | P a g e



×