Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨC THANH TRA VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.01 KB, 17 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨC THANH TRA VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA
NGÀNH TƯ PHÁP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công chức thanh tra ngành Tư pháp
1.1.1.1. Khái niệm công chức và công chức thanh tra ngành Tư pháp
Công chức là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia. Với những giai đoạn
lịch sử nhất định thuật ngữ công chức cũng mang những nội dung khác nhau. Theo kinh nhiệm của các quốc gia đã thực hiện chế độ
công chức, thì công chức được hiểu là những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công
sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước.
Theo Luật Công chức Cộng hoà Liên bang Đức năm 1977 quy định: các công chức Cộng hoà Liên bang Đức đều là những nhân
viên làm việc trong các cơ quan nhà nước, trong các cơ quan, tổ chức văn hoá, nghệ thuật, giáo dục và nghiên cứu khoa học quốc gia gồm
nhân viên các tổ chức công, nhân viên công tác trong các xí nghiệp nhà nước, các công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ, nhân viên
lao động công, giáo viên đại học, giáo viên trung học hay tiểu học, bác sĩ hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa... [2].
Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố ngày 14/8/1993, có hiệu lực kể từ
ngày 1/10/1993, công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh đạo. Để trở thành công chức mọi người đều phải thông
qua một chế độ tuyển dụng hết sức nghiêm ngặt.
Chức danh công chức không lãnh đạo gồm: Cán sự, chuyên viên, chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên tổ phó, trợ lý chuyên viên
nghiên cứu, chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên viên thanh tra, chuyên viên thanh tra.
Chức danh công chức lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, các thành viên quốc vụ viện; chức
trưởng, phó cấp bộ, cấp tỉnh, chức trưởng phó cấp vụ, cấp sở; Trưởng, phó phòng (trong các vụ, sở, huyện); Tổ trưởng, tổ phó; Trưởng,
phó cấp xã [40, tr.150].
Ở Pháp công chức gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công
quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không tính các công chức địa
phương thuộc các hội đồng địa phương quản lý [15].
Những thông tin trên cho thấy, phạm vi công chức ở các nước rất khác nhau. Tuy có những điểm khác nhau như vậy nhưng các
nước đều có những điểm chung về quan niệm công chức đó là:
Thứ nhất, công chức là người được tuyển dụng, bổ nhiệm thông qua các hình thức thi tuyển.
Thứ hai, các nước đều giới hạn công chức trong phạm vi bộ máy hành chính nhà nước, được xếp vào ngạch nhất định trong hệ
thống thang bậc, ngạch công chức (thể hiện tính thứ bậc, khác biệt của từng vị trí công việc mà công chức thực thi).
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành và phát triển liên tục theo tiến trình lịch sử, qua mỗi thời kỳ khác nhau có



quan niệm khác nhau về công chức. Điều đáng quan tâm là ngay từ những ngày đầu của chính quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà cũng đã quan tâm tới năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức. Đây là tiêu chí có tính chính trị xã hội định
hướng cho sự phát triển của nền công vụ và đồng thời là tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ, công chức. Trên cơ sở những quan điểm, tư
tưởng, nguyên tắc về một nền công vụ, công chức kiểu mới thể hiện trong Hiến pháp 1946, Quy chế công chức Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà được ban hành theo Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20.5.1950. Bản Quy chế này đặt ra những
nguyên tắc cơ bản và tổng hợp các vấn đề công chức. Lần đầu tiên khái niệm công chức đã được đưa vào Quy chế pháp lý của Nhà nước.
Tại Điều 1 Sắc lệnh số 76/SL ngày 20.5.1950 quy định công chức là “những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công chức”, theo Quy chế này, trừ những trường
hợp riêng biệt do Chính phủ định.
Như vậy theo Sắc lệnh 76 thì công chức Việt Nam thời kỳ này có những đặc điểm cơ bản sau:
- Công chức phải là công dânViệt Nam được chính quyền nhân dân tuyển chọn. Tức là một người muốn trở thành công chức thì phải
qua thi tuyển.
- Công chức là những người giữ chức vụ thường xuyên trong cơ quan của Chính Phủ, ở trong nước hay ngoài nước.
- Công chức được xếp vào ngạch nhất định và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Có thể khẳng định rằng quan niệm về công chức trong Sắc lệnh 76/SL có nhiều yếu tố hợp lý, phù hợp với quan niệm công chức
của nhiều nước trên thế giới: muốn trở thành công chức nhà nước thì phải qua thi tuyển; công chức là người làm việc thường xuyên trong
một công sở và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Do hoàn cảnh lịch sử nên Quy chế công chức này được thực hiện không lâu. Nhưng các quy định của Quy chế vẫn là khuôn mẫu
về sự điều chỉnh của pháp luật là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc xây dựng một đội ngũ công chức chính quy, hiện đại, mà ngày nay
chúng ta cần nghiên cứu vận dụng trong điều kiện mới, điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước. Những năm đầu thập kỷ 90, khái
niệm công chức được xác định lại theo Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991, tại Điều 1 quy định như sau: “Là công dân Việt Nam
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước
hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp”. Hiện nay, chúng ta thường dùng Cán bộ và Công
chức để chỉ những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, từ giữa năm
1993 công việc xây dựng dự án Pháp lệnh cán bộ công chức được tiến hành khẩn trương. Một trong những nội dung khó khăn và phức tạp nhất
là xác định phạm vi khái niệm công chức Việt Nam gồm những ai, họ phải hội tụ đủ những tiêu chí nào.
Khi cho ý kiến chỉ đạo về dự án Pháp lệnh Công chức do Ban cán sự Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị ngày 25 tháng 8 năm
1995, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ rõ:



Ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà
nước, Đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một pháp lệnh có
phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm: các công chức nhà nước (trong đó có công
chức làm việc ở các cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh,...), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan Đảng, đoàn thể
[15, tr.13].
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo trên của Bộ Chính trị, Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức 1998 được sửa đổi năm 2003 không đưa ra
định nghĩa riêng cho từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra một định nghĩa chung cho cả nhóm "cán bộ, công chức",
mà chỉ quy định:
1. Cán bộ, công chức được quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các
cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội;
đ) Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân;
Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Cán bộ, công chức quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g và h khoản 1 điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; cán bộ, công chức quy định tại điểm d khoản 1 điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự
nghiệp theo quy định của pháp luật [42].

Như vậy, Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức chưa đưa ra được căn cứ để phân biệt được rõ đâu là công chức và đâu là cán bộ.
Mặt khác, thuật ngữ "cán bộ" vốn có nội hàm rất rộng, không xác định theo ý nghĩa thông dụng từ ngôn từ tiếng Việt: Mọi người làm việc


công, hoặc người có thẩm quyền, hoặc người lãnh đạo ở một cương vị cao, thấp bất kỳ, không chỉ trong bộ máy nhà nước, mà cả trong các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác đều có thể được gọi là "cán bộ". Tuy nhiên, quy định trên cũng là cơ sở
pháp lý quan trọng tách viên chức sự nghiệp với công chức hành chính, nhưng dường như coi công chức bao hàm cả viên chức (xem
khoản 2).
Trên cơ sở quy định tại Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức, cũng như suy ra từ quan niệm về viên chức trước đây, thì cán bộ,
công chức, viên chức có ba đặc điểm chung: là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Điều 1 Pháp
lệnh cũng chỉ rõ mỗi cán bộ, công chức, viên chức có phương thức riêng để được vào làm việc trong cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội.
Căn cứ Pháp lệnh năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, ngày 10/10/2003, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 117/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Theo đó, Điều
2 của Nghị định quy định về công chức như sau:
Công chức nói tại nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại
điểm b, điểm c, điểm e khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau đây:
1. Văn phòng Quốc hội;
2. Văn phòng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
4. Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài;
6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;
7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn, lần đầu tiên trong pháp luật nước ta có quy định về công chức xã, phường, thị trấn. Theo quy định của Nghị định
này, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) được hiểu là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm các chức danh sau đây:
1. Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
2. Chỉ huy trưởng quân sự;

3. Văn phòng - Thống kê;
4. Địa chính - Xây dựng;
5. Tài chính - Kế toán;
6. Tư pháp - Hộ tịch;


7. Văn hóa - Xã hội.
Đối chiếu Điều 2 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP chúng ta thấy rằng, phạm vi khái niệm
công chức quy định tại Điều 2 Nghị định số 117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114 không bao gồm những người làm việc trong các đơn vị sự
nghiệp và bổ sung thêm những người làm việc trong bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện, những người giữ các chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công
chức trong các cơ quan nhà nước phân loại công chức cũng theo trình độ đào tạo, vị trí công tác. Điểm mới của Nghị định này còn phân
công chức theo ngạch công chức:
Theo trình độ đào tạo, công chức được phân thành ba loại: 1) Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình
độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; 2) Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn giáo dục nghề nghiệp; 3) Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn dưới
giáo dục nghề nghiệp. Theo Thông tư số 09/2004/TT-BNV ngày 19 tháng 2 năm 2004 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan
nhà nước, công chức loại A được hiểu là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và
sau đại học bao gồm: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.

Theo vị trí công tác, công chức được phân ra làm hai loại: 1) Công chức lãnh đạo, chỉ huy; 2) Công chức
chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo ngạch công chức, công chức được phân thành năm loại : 1) Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương
đương trở lên; 2) Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương; 3) Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;
4) Công chức ngạch cán sự và tương đương; 5) Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
Việc phân loại công chức theo Nghị định số 117 như đã trình bày, là việc làm có ý nghĩa thiết thực về mặt lý
luận và thực tiễn đối với việc cơ cấu, quy hoạch, quản lý công chức trong hoạt động công vụ. Trên cơ sở cách phân
loại này để có những tiêu chí khác nhau trong việc đánh giá, sử dụng, đề bạt, xử lý công chức vi phạm một cách thích

hợp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
Trên cơ sở những vấn đề đã nêu, kết hợp điểm b, c, e khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và khoản 1 Điều 2, Điều
4 Nghị định số 117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa đầy đủ hơn về công chức "theo tinh thần" của
Pháp lệnh hiện hành như sau: Công chức Việt Nam là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch hoặc được giao giữ một
công vụ (được giao nhiệm vụ thường xuyên), được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, vị trí công tác trong các cơ quan,


tổ chức của Nhà nước, bộ máy giúp việc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn
nghiệp vụ, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Qua định nghĩa trên, chúng ta rút ra ba yếu tố căn bản gắn liền với công chức nước ta đó là:
- Được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong công sở nhà nước, cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng
vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân làm theo nhiệm kỳ, còn công chức có thể thực
thi công vụ suốt đời.

- Được xếp vào ngạch của “tính nghề nghiệp” công chức, bậc hưởng lương do nhà nước quy định. Điều đó thể
hiện tính chất ổn định của công chức. Bởi vì, muốn xếp vào ngạch thì phải có tiêu chuẩn. Đây là yếu tố quan trọng
nhất để xác định công chức và không công chức - yếu tố chỉ phát sinh ở chế độ có bộ máy công quyền.
- Được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nghĩa là được bao cấp. Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt công chức với
viên chức. Vì lương của viên chức chỉ lấy một phần từ ngân sách nhà nước, còn lại là từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị.
Tóm lại, trên con đường hoàn thiện, phạm vi khái niệm công chức của nước ta trải qua nhiều bước phát triển, mỗi bước đều phải
phù hợp với đòi hỏi khách quan của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hay nói cách khác, bị quy định bởi những điều kiện khách quan
đó. Đồng thời cũng bị chi phối bởi nhận thức chủ quan của cơ quan lãnh đạo, nhà lập pháp trong từng thời kỳ, trong đó nhân tố chủ quan
vẫn là cơ bản, có ý nghĩa quyết định.
Khái niệm công chức thanh tra ngành Tư pháp:
Để hiểu rõ hơn về công chức thanh tra ngành Tư pháp trước tiên cần hiểu rõ “khái niệm thanh tra Tư pháp” với ý nghĩa chung
nhất. Khái niệm thanh tra Tư pháp cũng được hiểu trong khái niệm chung về thanh tra. Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc la tinh
(Inspecture) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên trong vào họat động của một đối tượng nhất định; “ là sự
kiểm soát, kiểm kê đối tượng bị thanh tra”. Theo từ điển tiếng Việt năm 2008 thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa phương, cơ
quan, xí nghiệp. Với nghĩa này, thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa phương, cơ quan, xí nghiệp. Với nghĩa này, thanh tra là

kiểm soát nhằm phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định. Thanh tra thường đi kèm với chủ thể nhất định như đoàn thanh tra,
người làm nhiệm vụ thanh tra, thanh tra viên và được đặt trong phạm vi hoạt động nhất định. Trong các văn bản pháp luật và thực tiễn
quản lý của nước ta, cụm từ “ thanh tra kiểm tra” được sử dụng để chỉ hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước nhằm hướng đối
tượng quản lý theo mục tiêu nhất định.
Thanh tra Tư pháp vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động thanh tra trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời
vừa là một khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp. Ở Việt Nam, ngành Tư pháp là các cơ quan thuộc thẩm quyền
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp. Điều này hoàn toàn khác với khái niệm “ tư pháp” để chỉ đến hệ thống các cơ quan toà
án và các hoạt động liên quan đến xét xử, tranh tụng tại toà án. Thanh tra Tư pháp được tổ chức và hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên
ngành Tư pháp. Thanh tra Tư pháp cũng có nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra Nhà nước, bên cạnh đó có nhiệm vụ,


quyền hạn và đặc thù riêng của nganh Tư pháp. Nghị định số 74/2007/NĐ – CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ đã quy định
chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của thanh tra Tư pháp trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra Bộ Tư pháp, nhiệm
vụ quyền hạn của thanh tra Sở Tư pháp.
Công chức thanh tra xác định rõ vị trí chức danh các ngạch công chức. Trong tổ chức thanh tra có chức danh thanh tra viên và các
chức danh công chức hành chính khác. Chức danh thanh tra viên đã được khẳng định trong hệ thống chức danh công chức nhà nước, đã
được xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ chung cho từng cấp thanh tra viên.
Theo quy định của Điều 31 Luật Thanh tra năm 2004 thì tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a) Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách
nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan;
b) Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến
thức chuyên môn về chuyên ngành đó;
c) Có nghiệp vụ thanh tra;
d) Có ít nhất hai năm làm công tác thanh tra đối với người mới được tuyển dụng vào ngành thanh tra (không kể thời gian tập sự);
nếu là cán bộ, công chức công tác ở cơ quan, tổ chức khác chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước thì phải có ít nhất một năm làm công
tác thanh tra.
Thanh tra viên Tư pháp ngoài việc tuân thủ các quy định chung theo tiêu chuẩn của luật Thanh tra còn có tiêu chuẩn riêng được
quy định theo Nghị định số 74/2007/NĐ – CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính Phủ được quy định như sau:
a) Thanh tra viên Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra viên) là công chức được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ
thanh tra.

b) Thanh tra viên phải là cử nhân luật hoặc tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác và có kiến thức pháp luật trong các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và đáp ứng tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên theo quy định tại Điều 31 của Luật Thanh
tra.
c) Thanh tra viên được hưởng chế độ, chính sách và được bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động thanh tra theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, công chức thanh tra Tư pháp làm việc trong cơ quan thanh tra ngành Tư pháp theo chức danh, công việc phù hợp với
những tiêu chuẩn cụ thể mà pháp luật quy định.
Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra viên Tư pháp có các quyền được sử dụng theo pháp luật quy định như NĐ số 76/2006/NĐ - CP
ngày 02/8/2006, Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp và Nghị định số 74/2007/NĐ - CP ngày 01 tháng
8 năm 2007 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp.
1.1.1.2. Đặc điểm công chức Thanh tra ngành Tư pháp


Đối với cán bộ công chức thanh tra trước hết phải có đầy đủ tiêu chuẩn chung của một cán bộ, công chức và tiêu chuẩn riêng do
đặc thù của hoạt động thanh tra Tư pháp.
Trong các tổ chức Thanh tra nhà nước, các chức danh cán bộ, công chức khác như chuyên viên, cán sự... áp dụng các tiêu chuẩn
nghiệp vụ của công chức đó. Xét về mặt lý luận và quá trình hình thành và phát triển công chức thanh tra ở nước ta và một số nước trên
thế giới, do tổ chức và hoạt động thanh tra nên hình thành những nét đặc thù của công chức thanh tra, công chức thanh tra ngành Tư pháp
cũng không nằm ngoài những đặc trưng này. Cụ thể những đặc trưng đó là: tính quyền lực, tính độc lập, tính tổng hợp chuyên sâu.
a) Đội ngũ công chức thanh tra ngành Tư pháp mang tính quyền lực
Nói chung công chức nhà nước đều thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi chức danh được giao. Riêng công chức được giao
nhiệm vụ xem xét, kiểm soát việc thi hành pháp luật của đối tượng quản lý, kết luận đúng sai, quy trách nhiệm, có biện pháp ngăn ngừa,
xử lý, kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý có vi phạm. Như vậy, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra viên khác với công chức
hành chính khác, nó kiểm soát việc thực thi công vụ của công chức hành chính và không làm thay chức trách của công chức chuyên môn. Trong
khi thi hành công vụ, công chức thanh tra Tư pháp được nhà nước giao một số quyền và chịu trách nhiệm cá nhân về sử dụng các quyền đó.
b) Đội ngũ công chức thanh tra Tư pháp được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên
tâm thực thi công vụ
Để thực hiện công vụ, người công chức nói chung và công chức thanh tra tư pháp nói riêng được nhà nước cung cấp các điều kiện
cần thiết để tiến hành thực thi công vụ, các điều kiện về cơ sở vật chất như: trụ sở, phương tiện, điều kiện làm việc... Họ được sử dụng các
quyền lợi vật chất và tinh thần như hưởng lương từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận các loại trợ cấp,

phụ cấp bằng tiền hoặc hiện vật và có lương hưu khi đủ thời gian cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng khi có công lao xứng
đáng. Sự bảo đảm quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính ổn định, lâu dài. Trong thực tế là suốt đời nếu như công chức thanh tra Tư
pháp không vi phạm kỷ luật hoặc bị thải hồi hoặc bị truy tố trước pháp luật.
c) Là lực lượng mang tính độc lập
Do chức trách, nhiệm vụ trong công tác thanh tra, kiểm tra, không chỉ xem xét, đánh giá sự việc đúng hay sai để kiến nghị, đề xuất
cách giải quyết, mà còn đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Cần kiên quyết
bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống mọi
biểu hiện tham nhũng, gây tổn hại tài sản xã hội chủ nghĩa và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân nên đòi hỏi thanh tra viên phải
chủ động quyết đoán, tự chịu trách nhiệm và lựa chọn hành động của mình một cách đúng đắn, không vi phạm pháp luật; trong hoạt động
thanh tra công chức thanh tra chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm tính khách quan, trung thực trong việc đánh giá hoạt động của đối tượng
thanh tra, từ đó hoạt động thanh tra và công chức thanh tra Tư pháp đòi hỏi phải có tính độc lập.
d) Đội ngũ công chức thanh tra Tư pháp mang tính tổng hợp và chuyên ngành sâu
Hoạt động thanh tra gắn liền với hoạt động của chủ thể quản lý, thanh tra đánh giá hiệu quả lao động của đối tượng quản lý. Nó
được tổ chức theo nguyên tắc quản lý theo ngành, lĩnh vực kết hợp theo địa phương. Do vậy, để thực hiện được chức trách, nhiệm vụ của


mình, đòi hỏi công chức thanh tra nói chung và công chức thanh tra Tư pháp nói riêng phải có kiến thức tổng hợp, đồng thời hiểu sâu về
chuyên môn, nghiệp vụ của ngành và lĩnh vực; chức năng, nhiệm vụ của cấp hành chính và chức trách, nhiệm vụ của công chức hành
chính.
Những đặc tính trên đây cũng là mực chính để phân biệt hoạt động của công chức thanh tra với hoạt động của các công chức hành
chính khác. Đồng thời, đó chính là yếu tố quan trọng khi nghiên cứu đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra cũng như việc nghiên cứu xây dựng
đội ngũ công chức, quy chế công vụ ngành Tư pháp phù hợp yêu cầu đổi mới chung của Đảng và nhà nước.
1.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp. Nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo
1.1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp
Khái niệm đào tạo:
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2008 trang 369 - Nhà xuất bản Đà Nẵng “đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu
chuẩn nhất định”. Do vậy, có thể hiểu rằng, đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để cán bộ thông qua đào tạo có văn bằng cao hơn
trình độ trước đó. Đào tạo có quan hệ mật thiết với giáo dục. Giáo dục là sự dạy dỗ đối với con người, nhằm cung cấp và chuyển giao một khối
lượng kiến thức nhất định, các giá trị văn hoá, chuẩn mực xã hội để làm cho người trở thành thành viên hợp cách của xã hội. Đào tạo là giáo dục
chuyên sâu, là quá trình học tập của con người để có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc trong lĩnh vực nhất định, ở một trình độ nhất

định.
Đào tạo có những đặc điểm sau:
- Là quá trình tổ chức học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một quy trình cụ thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có
nội dung, chương trình đào tạo và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài
kiểm tra, thi tốt nghiệp... các yếu tố trong quá trình đào tạo nói trên tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Tính thống nhất là đặc
điểm không thể thiếu được của đào tạo;
- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo cán bộ, công chức không những giúp cho cán bộ, công chức phát triển năng lực
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng cho cán bộ, công chức tiếp thu những kiến thức
mới, trí tuệ nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của xã hội. Một cách cụ thể hơn, đào tạo được xem như một quá trình làm cho người ta
“trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định” [41, tr.29].
Khái niệm bồi dưỡng:
Bồi dưỡng theo từ điển tiếng Việt năm 2008 trang 107 “Bồi dưỡng là tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Như vậy, bồi dưỡng là quá
trình làm tăng thêm về trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của con người. Bồi dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức,
thông qua quá trình bồi dưỡng sẽ giúp cho đối tượng được bồi dưỡng nâng dần trình độ, chất lượng công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao. Tuy nhiên, bồi dưỡng chưa tạo bước ngoặt căn bản trong trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cán bộ. Như vậy, khái niệm đào tạo và bồi dưỡng rất
gần nhau, trong đào tạo đã bao hàm nghĩa bồi dưỡng, nó khác với bồi dưỡng ở chỗ đào tạo chỉ quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới


mà trước đó người công chức chưa được đào tạo. Một cách cụ thể hơn, người ta cho rằng, bồi dưỡng là quá trình nâng cao trình độ chuyên môn,
kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách thường xuyên, quá trình tăng cường năng lực nói chung trên cơ sở kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo.
Thông thường, hoạt động công vụ, bồi dưỡng có nhiệm vụ cập nhật trang bị thêm, trang bị mới kiến thức, kỹ năng thái độ cho cán bộ, công
chức để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ được giao.
Việc tách bạch khái niệm đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ để tiện cho việc phân tích sự giống và khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng.
Thực tế xét theo khung cảnh đào tạo, bồi dưỡng công chức thì trong đào tạo đã bao hàm việc bồi dưỡng.
Xét về mặt thời gian, đào tạo thường có thời gian dài hơn, thường là từ một năm học trở lên. Về bằng cấp thì đào tạo có bằng cấp hoặc
chứng chỉ chứng nhận trình độ đã được đào tạo, còn bồi dưỡng thường chỉ có chứng chỉ chứng nhận đã học qua khoá bồi dưỡng.
Như vậy vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không chỉ được hiểu qua một khoá hay một vài khoá khác nhau của trường lớp nào đó, mà là
cả một quá trình bồi dưỡng của từng cán bộ, giữa những kiến thức được bổ sung từ cả lý luận và thực tiễn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải chú
ý cả các mặt chính trị và tư cách, kiến thức và khả năng sáng tạo vận dụng vào thực tiễn.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức thanh tra Tư pháp nói riêng được xác định là một quá trình có kế hoạch làm biến

đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong trong một loạt các
hoạt động nào đó.
Như vậy đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình
bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người, là cán bộ, công chức làm việc trong tổ
chức. Với quan niệm như vậy thì đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
- Phát triển năng lực công chức và nâng cao khả năng làm việc thực tiễn của họ;
- Giúp công chức phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức.
1.1.2.2. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
Là những dự kiến về kết quả của quá trình đào tạo trong một thời gian nhất định. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa chỉ đạo,
định hướng cho quá trình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phụ thuộc vào mục tiêu. Theo Quyết định
40/2006/QĐ - TTg ngày 15/02/2006 về phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 – 2010, mục tiêu là:
trang bị, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho đội ngũ công chức hành chính nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân. Đó là
mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước đã đề ra đối với công chức nói chung. Tuy nhiên, do đặc thù của Thanh tra Tư pháp ngoài việc
tuân thủ mục tiêu chung còn có mục tiêu đào tạo riêng căn cứ vào những tiêu chí sau:
- Thường xuyên chú trọng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho cán bộ, công chức thanh tra viên để phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ, trung thành với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tận tâm phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lợi ích quốc gia.
- Phấn đấu đến năm 2015, 100% công chức thanh tra ngành Tư pháp được trang bị kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ và có


khả năng hoàn thành có chất lượng nhiệm vụ được giao; trang bị kiến thức về văn hoá công sở; trách nhiệm và đạo đức công chức thanh
tra cho công chức các ngạch thanh tra.
- Xây dựng quy hoạch cán bộ, điều chỉnh cán bộ sao cho hợp lý, từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, thanh tra viên bảo đảm tính kế
thừa, tính liên tục, đổi mới công tác quản lý cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Coi trọng và khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thanh tra viên đương chức và kế cận; kết hợp việc học tập ở trường với việc
rèn luyện, học tập công tác thực tế theo quy trình chặt chẽ, mạnh dạn bố trí cán bộ vào những cương vị đòi hởi sự phấn đấu cao hơn trên
cơ sở thường xuyên kiểm tra, tạo điều kiện thuận lợi cho họ cống hiến và trưởng thành ngang tầm nhiệm vụ được giao.
Như vậy, căn cứ vào mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra Tư pháp phải đạt mục tiêu sau:
Thứ nhất, trang bị cho đội ngũ công chức thanh tra có năng lực để thực hiện công việc của họ
Thứ hai, đảm bảo trang bị đủ kiến thức theo quy định theo tiêu chuẩn cho thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao

cấp. Tạo điều kiện cho công chức thanh tra có khả năng triển khai và thực hiện công tác điều hành quản lý
Thứ ba, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng trong quá trình thực thi pháp luật. Ngày nay, đào tạo, bồi dưỡng không còn
được coi như là hoạt động giáo dục thuần tuý. Mà đào tạo được sử dụng như một công cụ chủ yếu để thực hiện triển khai trên thực tế cải
cách nền hành chính, nhằm đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Có thể nói rằng, xác định đúng đắn mục tiêu đào tạo công chức thanh tra ngành Tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng cả lý luận
và thực tiễn. Vì có đặt ra được mục tiêu đúng đắn mới đào tạo ra những công chức thanh tra tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, giúp cơ
quan lãnh đạo và quản lý vừa kiểm tra được công tác chấp hành pháp luật của các cơ quan thuộc quyền quản lý của Bộ Tư pháp
Dó đó, việc đặt ra mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở cho việc đặt ra các nguyên tắc, phạm trù, nội dung, phương tiện của quá
trình đào tạo, bồi dưỡng hướng tới tương lai. Việc xác định không chính xác hay phiến diện, sai lầm về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đều
ảnh hưởng, tác động tới chất lượng tốt hay xấu của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp.
1.1.2.3. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
Nội dung đào tạo là một yếu tố quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở mục tiêu và đồng thời xuất phát từ nhu cầu
đặc điểm của đối tượng. Xác định, phân loại đối tượng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra Tư pháp là một việc làm có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nó sẽ khắc phục tình trạng bồi dưỡng tràn
lan, làm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với địa chỉ cần sử dụng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tình hình
của ngành. Kiến thức cần đào tạo bồi dưỡng không phải là những nội dung đã được đào tạo đối với công chức khi được tuyển dụng. Do
đó phạm vi nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra thanh tra ngành Tư pháp nói riêng phải có quan điểm chung bao gồm:
- Về chính trị: đào tạo kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng. Những nội
dung này bảo đảm cho công chức thanh tra Tư pháp trở thành những người trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội


- Về nghiệp vụ công tác thanh tra: đây là nội dung quan trọng trong chương trình. Phần này chiếm tỷ lệ lớn, tập trung vào các vấn
đề nảy sinh thường xuyên trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm những vấn đề sau:
+ Quy trình tổ chức, triển khai một cuộc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo;
+ Công tác Trưởng đoàn thanh tra;
+ Quy trình tổ chức cuộc thanh tra trong phạm vi rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương;
+ Thu thập, thẩm tra, xác minh chứng cứ trong thanh tra kinh tế - xã hội;
+ Tiếp dân, nhận các khiếu nại, tố cáo trong giải quyết, tố cáo của công dân;
+ Kỹ thuật xây dựng các văn bản trong quá trình thanh tra (lập các loại biên bản, yêu cầu kết luận, kiến nghị, quyết định);

+ Sử dụng quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên;
+ Kinh nghiệm xử lý các tình huống trong thanh tra;
+ Tâm lý đối tượng thanh tra;
+ Các khoa học kinh tế vận dụng công tác thanh tra;
+ Các biện pháp bảo đảm thi hành kết luận, kiến nghị, quyết định của Đoàn thanh tra;
- Về pháp luật: xuất phát từ yêu cầu thực hiện trách nhiệm của mình, trong điều kiện hiện nay để có thể hoàn thành trách nhiệm
phát hiện những sai lệch trong quá trình tổ chức thực hiện và chấp hành chính sách, pháp luật. Công chức thanh tra nói chung và công
chức thanh tra ngành Tư pháp nói riêng không thể không trang bị những kiến thức của khoa học pháp luật. Đây là nội dung cơ bản nhất,
bắt buộc phải có và chiếm tỷ lệ đáng kể trong chương trình. Tuy nhiên, nội dung cần chọn, tập trung vào những vấn đề pháp lý cơ bản
nhất, bao gồm:
+ Khái quát những vấn đề chung về Nhà nước và pháp luật: lịch sử ra đời của Nhà nước, bản chất, đặc điểm của Nhà nước, bản
chất pháp luật, các kiểu nhà nước và các hệ thống pháp luật;
+ Khái quát những vấn đề chung về các ngành Luật ở nước ta như luật hành chính, luật hình sự, luật quốc tế, luật dân sự... (khái
niệm, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội dung cơ bản);
+ Nội dung cơ bản một số văn bản pháp luật hành chính: bộ luật hình sự, Luật dân sự, luật hành chính, Bộ luật tổ tụng hình sự, Bộ
luật lao động, luật đất đai, luật ngân sách, Pháp lệnh kế toán thống kế, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính;
- Hệ thống những văn bản pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, văn bản về chuyên ngành Tư pháp
+ Luật thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số quy định về thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực;
+ Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số quy định về quản lý khiếu nại, tố cáo;
+ Pháp lệnh chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành;
+ Có thể giới thiệu thêm một số nét về tố cáo và hoạt động của các tổ chức thanh tra, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại hành
chính ở một số nước trên thế giới;


+ Giới thiệu Nghị định số 76/2006/NĐ - CP ngày 02/8/200 quy định về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp”; Nghị
định số 74/2007/NĐ - CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định về “tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp”.
- Về quản lý nhà nước và kinh tế: nội dung bao gồm những vấn đề cơ bản về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, vai trò và một số chính sách trong quản lý kinh tế của nhà nước ta; vị trí vai trò của các đoàn thể quần chúng, tổ chức, hoạt động của
hệ thống thanh tra Nhà nước
+ Khái quát cơ cấu tổ chức, đặc điểm, tính chất và nguyên tắc của bộ máy nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

+ Vai trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta;
+ Khái quát tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;
+ Tính chất, chức năng, quyền hạn của Chính phủ và những cơ quan hành chính các cấp;
+ Khái quát vị trí, vai trò và tổ chức của các đoàn thể quần chúng;
+ Khái quát vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường nhiều thành phần;
+ Vai trò của Nhà nước và những vấn đề điều chỉnh bằng pháp luật trong hoạt động kinh tế, xã hội. Khái quát một số nội dung văn
bản pháp luật: luật ngân sách, luật công ty, luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, pháp lệnh kế toán thống
kê và một số vấn đề cụ thể khác trong quản lý.
- Một số vấn đề khác: chương trình cũng chú trọng tâm lý trong công tác thanh tra, kỹ thuật xây dựng văn bản trong công tác thanh
tra. Ngoài ra, cần xây dựng những nội dung về quản lý và hoạt động của các loại hình thanh tra chuyên ngành.
- Về đạo đức của công chức thanh tra ngành Tư pháp Tư pháp
Xây dựng nền giáo dục đạo đức (đạo đức cách mạng) không chỉ định ra nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực cơ bản nói chung của xã
hội mà đối với từng ngành cũng cần có những chuẩn mực đạo đức cơ bản của ngành đó, nhất là những ngành rất gần gũi với pháp luật như
ngành thanh tra. Bởi vậy cán bộ, công chức thanh tra cần có những phẩm chất đạo đức xã hội vừa phù hợp với yêu cầu của ngành thanh
tra Tư pháp, thanh tra viên cần có những phẩm chất đạo đức cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu chung của nền đạo đức, xã hội, vừa phù hợp với
yêu cầu của ngành trong tình hình mới. Công chức thanh tra phải có tính tổ chức kỷ luật, độc lập nghiêm túc thực hiện công việc vì lợi ích
chung, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí;
- Yêu cầu về tính trung thực, tính khiêm tốn của công chức thanh tra. Giáo dục cho công chức thanh tra về phẩm chất, đạo đức như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Thuấn nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hòi người
làm công tác thanh tra phải đạt đến sự hài hoà giữa năng lực và phẩm chất, thấm nhuần những nội dung đạo đức cách mạng, hiểu rõ
những giá trị cao đẹp như lời Bác Hồ căn dặn trước lúc đi xa “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Tri thức là sức mạnh, nhưng nếu được sử dụng phục vụ cho
chủ nghĩa cá nhân thì sức mạnh ấy càng lớn, tác dụng phá hoại càng lớn. Đó là lẽ vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo
dục đạo đức. Và người gọi đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Đối với người cán bộ thanh tra cũng không nằm ngoài cái


chung đó. Công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng phẩm chất đạo đức
cho người cán bộ thanh tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đòi hòi hiện nay.
1.1.2.4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
* Hiện nay có các hình thức đào tạo bồi dưỡng công chức thanh tra như sau:

- Đào tạo tại chức: là hình thức đào tạo cho công chức thanh tra vừa học, vừa công tác nhằm trang bị những kiến thức chuyên
môn cơ bản do điều kiện công việc mà công chức thanh tra không đi học tập trung được. Mục đích của việc đào tạo tại chức là nâng cao
bằng trình độ chuyên môn, áp dụng cho những công chức thanh tra chưa có trình độ chuyên môn theo yêu cầu đặt ra.
- Đào tạo tiền công vụ: đây là giai đoạn huấn luyện dự bị những công chức được tuyển dụng, vừa bước vào hệ thống công chức,
nhưng chưa được bổ nhiệm chính thức. Mục đích của việc đào tạo nhằm giúp cho người đó hiểu được nền hành chính, kỹ năng hoạt động
công vụ, công việc và trách nhiệm của bản thân, có tinh thần thái độ công tác, làm quen với môi trường công tác và trình tự công việc,
nắm sơ bộ các phương pháp làm việc nói chung, để bước vào nhậm chức chính thức những người sau khi trúng tuyển qua các kỳ thi tuyển
công chức phải được bồi dưỡng kiến thức về nền hành chính Nhà nước, pháp luật, kỹ năng hoạt động công vụ và đạo đức công chức trước
khi bổ nhiệm vào ngạch [39].
1.1.2.5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức Thanh tra Tư pháp
Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là hệ thống gồm một hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loạt hành động
cụ thể nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng được xác định trên cơ sở đặc điểm của đối tượng đào
tạo bồi dưỡng và nội dung bao gồm dung luợng, thời gian giảng dạy. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu dựa trên phương pháp thuyết
trình, truyền đạt các kiến thức lý luận từ giáo trình của các chương trình đã được quy định. Cách tiếp cận vấn đề, giải thích và làm rõ các khái
niệm, phạm trù, các quan điểm nguyên tắc của Đảng và nhà nước, về bộ máy nhà nước, các ngành luật, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế...
Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng khác như trao đổi, thảo luận thông qua các hội thảo, toạ đàm, hội nghị, tổng kết. Ngoài phương
pháp truyền thống như “dùng lời nói và chữ”, giảng viên còn áp dụng các phương pháp giảng dạy khác như sử dụng đèn chiếu, băng ghi
âm, ghi hình, thảo luật, tình huống cũng đã được áp dụng ở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra và thu được kết quả tốt. Tuy
nhiên, do điều kiện nguồn kinh phí còn hạn chế nên việc tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng theo phương pháp này còn gặp khó khăn chưa được
phổ biến rộng rãi.
Chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra nói chung và công chức thanh tra ngành Tư pháp nói riêng không
chỉ phụ thuộc vào nội dung chương trình, hình thức, phương pháp giảng dạy mà còn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Đội ngũ giảng viên (chủ thể đào tạo, bồi dưỡng):
Là người vận dụng các hình thức, phương pháp đào tạo bồi dưỡng để truyền tải các nội dung đào tạo, bồi dưỡng đến các đối
tượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ giảng viên (các thầy cô) là chủ thể trực tiếp truyền đạt những
kiến thức trong nội dung chương trình đến người học. Các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng phải xác định đúng đắn các chương trình, nội dung,


phương pháp đào tạo, phương pháp sư phạm.
Bởi vì đào tạo, bồi dưỡng không chỉ đơn thuần là truyền tải kiến thức mà là nâng cao năng lực, có kinh nghiệm trong công tác

thanh tra, công tác chỉ đạo, hướng dẫn thanh tra các chuyên đề diện rộng nhằm làm cho người công chức thanh tra Tư pháp nâng cao
trình độ, hoàn thiện kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề.
- Học viên (đối tượng đào tạo, bồi dưỡng) :
Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là công chức thanh tra Tư pháp (Công chức hành chính trong tổ chức thanh tra, thanh tra viên, thanh tra
viên chính, thanh tra viên cao cấp) là những nhân tố có ý nghĩa quyết định kết quả công tác thanh tra. Có thể nói cán bộ thanh tra nói chung và
cán bộ thanh tra ngành Tư pháp nói riêng là trọng tài, người cầm cân nảy mực trong việc đưa ra sự đánh giá chính xác về hoạt động của bộ máy
nhà nước ngành Tư pháp. Khi theo học là đối tượng đào tạo bồi dưỡng, khi ra trường họ là những công chức thanh tra mang trọng trách nặng
nề.
Theo Điều 13, Nghị định số 74/2006/NĐ- CP ngày 01/8/2006 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp thì thanh tra viên Thanh
tra Tư pháp chịu trách nhiệm như sau:
... Thanh tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về các quyết định và biện pháp xử lý
của mình. Thanh tra viên có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật [5].
Họ đóng vai trò chủ thể trong việc giải thích, hướng dẫn nội dung thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước. Do tổ chức đặc thù đó
nên mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đòi hỏi phải có những nét đặc riêng biệt, đặc thù so với đối tượng đào tạo
khác.
1.1.3. Tính đặc thù của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và công chức thanh tra Tư pháp nói riêng là một loại giáo dục những người
trưởng thành, không giống với việc giáo dục chính quy phổ thông, lấy phát triển toàn diện làm nội dung chính, khác với giáo dục đại
học, cao đẳng, lấy giáo dục chuyên ngành làm nôi dung chủ yếu. Bởi vậy, nội dung, phương thức, hệ thống chế độ cụ thể của việc
đào tạo công chức đều khác.
Thứ nhất, đào tạo công chức thanh tra nói chung và đào tạo công chức Thanh tra Tư pháp nói riêng là loại đào tạo về cương vị.
Việc phân loại cương vị, chức danh đòi hòi mỗi vị trí, chức vụ cần có một công chức phù hợp với quy định về cương vị, đào tạo công
chức thanh tra Tư pháp là căn cứ vào yêu cầu quy phạm về cương vị của các công chức thanh tra để tiến hành, nó nhằm vào yêu cầu cụ
thể của chức vụ và công việc của công chức thanh tra để giúp cho mỗi công chức thanh tra đều có tính chuyên môn hoá.
Thứ hai, đào tạo công chức thanh tra thực hiện tính chuẩn xác, kỹ năng nghề nghiệp, nghiệp vụ trong công tác thanh tra. Vì đặc
thù của công tác thanh tra là một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động thanh tra gắn liền với quá trình quản lý. Trong hoạt
động thanh tra, công chức thanh tra nói chung và công chức thanh tra ngành Tư pháp nói riêng có nhiệm vụ trực tiếp thực hiện quyền



thanh tra, tác động hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội các cấp hành chính, đơn vị sự nghiệp, các thành phần kinh tế và cá nhân có
trách nhiệm. Do đó phải thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp cho công chức thanh tra và công chức thanh tra ngành Tư pháp có đủ kiến thức,
năng lực hiểu biết vừa chuyên sâu, vừa tổng hợp để thực hiện quyền lực nhà nước giao.
Thứ ba, đào tạo công chức thanh tra là một loại giáo dục để nâng cao trình độ giúp họ có trình độ nhận thức đúng đắn, để sử dụng
đúng quyền, lợi ích, thực hiện nghĩa vụ của mình, có trách nhiệm tận tuỵ với chức trách, công bằng, liêm khiết khi thi hành công vụ
Thứ tư, quan điểm của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng đã được thực hiện trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI:
“đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ phải đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực lãnh đạo,
quản lý ngang tầm nhiệm vụ. Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ rõ: “phải xúc tiến đào tạo đội ngũ công chức nhà nước thành thạo
nghề nghiệp, trong sạch và được đãi ngộ thích đáng quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức là một nội dung quan trọng nhất để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống tổ chức
thanh tra Nhà nước và thanh tra các Bộ nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ đặc biệt là xem xét, đánh giá việc
thực hiện quyền quản lý nhà nước bằng pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các ngành trong hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì vậy nội dung, hình thức đào tạo công chức thanh tra phải tổng hợp, chuyên sâu, đa dạng phù hợp với sự phát triển của
kinh tế xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của Cách mạng khao học công nghệ bùng nổ. Ngoài việc xây dựng chương trình đào tạo bồi dưỡng thanh
tra giúp họ thường xuyên nắm bắt được những quan điểm của Đảng và Nhà nước, những chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước để vận dụng vào công tác thanh tra
Chính vì vậy mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: “phải đào tạo đồng bộ đội
ngũ các bộ các ngành, các cấp các lĩnh vực có đầy đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm nhiệm vụ to lớn và phức tạp hiện nay”.
Thứ năm, công chức hành chính nói chung và công chức thanh tra Tư pháp nói riêng là những người thực hiện chức năng quản lý
trực tiếp với nhân dân vì vậy giáo dục văn hóa quản lý là nội dung cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Văn hóa quản lý trong hoạt động quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi mỗi quá trình
quản lý của các cơ quan, công chức đều phải nhằm vào phục vụ dân - một nền hành chính vì dân - tức là phải hướng tới sự tiến bộ, hạnh
phúc cho cộng đồng và cho xã hội. Đó chính là sức mạnh của văn hóa quản lý nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ
quan nhà nước. Nó tạo ra sự đồng thuận giữa quản lý và bị quản lý, tức là sự đồng thuận trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước với nhau và sự đồng thuận giữa cơ quan nhà nước với xã hội. Do vậy mà các cơ quan, công chức nhà nước nói chung không những
phải có văn hóa quản lý mà còn phải không ngừng sáng tạo các giá trị văn hóa mới, trước hết là các giá trị nhân bản của tất cả các bên
tham gia vào quá trình quản lý: công chức lãnh đạo và chuyên viên, nhân viên hành chính; công chức hành chính và nhân dân. Đó là lý
tưởng quản lý dựa trên nền tảng quan điểm lấy dân làm gốc. Muốn đạt được những yêu cầu đó phải coi giáo dục, rèn luyện văn hóa quản
lý là một trong những nội dung của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ công chức.





×