Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.11 KB, 47 trang )

Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010

A. Phần Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong quá trình cải cách hành chính nhà nước, bộ máy hành chính đã từng
bước được hoàn thiện và nhờ đó, hệ thống văn bản quản lý hành chính nhà nước
dần được nâng cao về chất lượng, tăng cường về hiệu lực so với thời gian trước
đây và đã có tác dụng tích cực trong quá trình tác động vào đời sống xã hội, mang lại
những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều văn bản khiếm khuyết ở những
mức độ khác nhau như: được ban hành trái thẩm quyền, nội dung trái pháp luật,
các quy định tản mát, chồng chéo, mâu thuẫn nhau, không phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội nên đã không có khả năng thực thi hoặc khi thực hiện đã tạo ra
những kết quả rất thấp, thậm chí ngược lại so với dự định của chủ thể ban hành
văn bản. Bên cạnh đó, việc nhận diện, xác định văn bản khiếm khuyết, việc xử lý
các văn bản khiếm khuyết thường không được kịp thời, nhiều khi không đúng đắn
hoặc không thống nhất về quan điểm của các bên hữu quan. Đồng thời, việc tổng
kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn về công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý
văn bản cũng gặp nhiều khó khăn và có hiệu quả không cao. Toàn bộ những việc
đó một mặt đã làm chậm sự phát triển của kinh tế - xã hội, trực tiếp làm giảm sút
hiệu quả, hiệu lực của quản lý hành chính nhà nước; mặt khác, tạo ra tâm lý coi
thường pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và trong nhân dân, làm
tổn hại tới uy tín Nhà nước. Vì vậy, muốn tăng cường hiệu quả, hiệu lực của quản
lý hành chính nhà nước thì cần tiến hành đồng bộ nhiều hoạt động khác nhau,
trong đó việc phát hiện và xử lý các văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm
khuyết là một nhiệm vụ cấp bách, được đặc biệt quan tâm trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B


1


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Làm sáng tỏ về lý luận những nội dung cơ bản có liên quan đến hiệu lực
của văn bản quản lý hành chính nhà nước, một mặt sẽ góp phần tích cực vào việc
nâng cao chất lượng của hoạt động ban hành văn bản; kiểm tra, rà soát, xử lý các
văn bản đã ban hành nhằm tạo nên hệ thống pháp luật thống nhất, hoàn chỉnh và
thực thi có hiệu quả hệ thống đó; mặt khác, góp phần nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, như: xác định thẩm quyền, sắp xếp lại
bộ máy và đội ngũ công chức hành chính, cải tiến lề lối làm việc, đổi mới thủ tục
hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy dân chủ, tăng cường hiệu lực quản
lý hành chính nhà nước, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các lợi ích của Nhà nước,
tập thể và công dân.
Trong khi đó, việc nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về hiệu lực của văn
bản quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay chưa thực sự được chú trọng,
vì vậy việc nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc để thu hẹp, tiến tới loại bỏ khoảng trống
trong lý luận khoa học pháp lý về hiệu lực của văn bản quản lý hành chính nhà
nước không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn; phù hợp với đòi
hỏi cần được ưu tiên giải quyết, nhằm góp phần tăng cường hiệu lực của văn bản
quản lý hành chính nhà nước.

2. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu.
2.1 Đối tượng nghiên cứu.
Thực tiễn cải cách hành chính ở tỉnh Quảng Trị.
2.2 Phạm vi nghiên cứu.
Do thời gian thực hiện đề tài và việc thu thập số liệu gặp nhiều khó khăn
nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thực tiễn cải cách hành chính ở tỉnh
Quảng Trị từ năm 2005 đến 2010.


Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

2


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010

3. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Niên luận được hình thành trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, các vấn
đề có liên quan tới hiệu lực của văn bản quản lý hành chính nhà nước được nghiên
cứu, đánh giá trong mối liên hệ mật thiết giữa các văn bản trong hệ thống văn bản
quản lý hành chính nhà nước; giữa hiệu lực văn bản quản lý hành chính nhà nước
với hiệu lực các văn bản khác của Nhà nước; giữa lý luận và thực tiễn; giữa thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp tăng cường hiệu lực của hệ thống văn bản quản lý
hành chính nhà nước.
Niên luận được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ
bản là: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, đối chiếu thực tiễn. Nhờ đó, những
vấn đề có liên quan tới hiệu lực của văn bản quản lý hành chính nhà nước được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống và xác thực của những nội dung cụ thể trong luận án.

4. Muc đích nghiên cứu.
Mục đích của niên luận là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận
về hiệu lực của văn bản quản lý hành chính nhà nước, tạo cơ sở cho việc đánh giá
thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống
văn bản quản lý hành chính nhà nước.

5.Tình hình nghiên cứu.

Ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý hành chính nhà nước và văn bản quản lý
hành chính nhà nước đang được nhiều nhà khoa học (luật học, hành chính học…)
quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của
những vấn đề này, như về hiệu lực của quản lý hành chính nhà nước, về văn bản
quản lý hành chính nhà nước, về hiệu quả của văn bản quản lý hành chính nhà
nước… Có khá nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã được công bố,

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

3


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
như: "Quản lý và kỹ thuật quản lý" của Thomas J. Robbins; "Quản lý hành chính lý
thuyết và thực hành" của Michel Amiel; "Phân cấp quản lý hành chính chiến lược
cho các nước đang phát triển" của J.M. Cohen và S.B. Peterson; "Ngữ pháp văn bản"
của O.I. Moskalskaja; "Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học" của
I.R.Galperin; "Quyết định của các cơ quan quản lý địa phương của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam", luận án PTS Luật học của Nguyễn Cửu Việt; "Quy
trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật", Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp;
"Soạn thảo và xử lý văn bản đối với cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý" của
Nguyễn Văn Thâm; "Căn cứ để phân định quyền lập pháp và quyền lập quy" của
Đinh Văn Mậu; "Hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước" của Học viện
Hành chính Quốc gia; "Hiệu quả của pháp luật" của Viện Nghiên cứu Nhà nước
và pháp luật...
Tuy không hoàn toàn thống nhất với nhau về quan điểm đối với một số vấn
đề có liên quan tới những nội dung nói trên và còn có những hạn chế nhất định,
nhưng hệ thống lý luận đã được hình thành khá cơ bản và tương đối toàn diện về
văn bản quản lý hành chính nhà nước, còn về vấn đề hiệu lực nói chung và hiệu lực
của những văn bản này nói riêng thì việc nghiên cứu mới chỉ được tiến hành với một

mức độ rất hạn chế, chưa mang tính toàn diện, đầy đủ và hệ thống nên mới chỉ hình
thành được một số khái niệm về hiệu lực, như: hiệu lực của quản lý, hiệu lực của
quản lý hành chính nhà nước, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật… mà chưa có
khái niệm về hiệu lực của văn bản quản lý hành chính nhà nước, chưa xác định được
vai trò của hiệu lực đối với hiệu quả của văn bản, từ đó có sự lẫn lộn trong nhận thức,
lúng túng trong việc xác lập những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
văn bản quản lý hành chính nhà nước.

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Cải cách hành chính không phải là lần đầu thực hiện ở nước ta, song bên
cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy việc nghiên

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

4


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
cứu góp phần tìm giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác tổ chức, quản lý hành chính trong tình hình mới.

6. Cơ cấu của niên luận.
Niên luận gồm ba phần, mở đầu, nội dung và phần kết luận. Phần A mở đầu
nêu lên tính cấp thiết của đề tài. Cùng với sự phát triển của đât nước thì việc cải
cách hành chính rất quan trọng, quá trình cải cách hành chính đã đem lại nhiều
thành tựu đáng kể và bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề để làm rõ. Phần B nội
dung gồm hai chương. Chương một là một số lý luận về cải cách hành chính.
Chương này làm rõ thế nào là cải cách hành chính, với yêu cầu của xã hội cải cách
hành chính đóng vai trò như thế nào. Và kết thúc chương là nội dung cải cách
hành chính của nước ta giai đoạn 2001 – 2010. Chương hai là thực tiễn cải cách

hành chính của tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005 -2010. Từ những tài liệu thu được
trong quá trình tìm hiểu, và từ đó là những nhận xét đánh giá cùng với những ý
kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính cho những giai đoạn
tiếp theo. Cuối cùng là phần C kết luận, là nhận định tổng quan về cải cách hành
chính nói chung và thực tiễn cải cách hành chính ở tỉnh Quảng Trị nói riêng.

Chú thích: các cụm từ viết tắt dùng trong bài.
CCHC: Cải cách hành chính.
QPPL: Quy phạm pháp luật.
TTHC: Thủ tục hành chính.
HĐND: Hội đồng nhân dân.
UBND: Ủy ban nhân dân.
CBCC: Cán bộ công chức.
UBNN: Ủy ban nhà nước.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

5


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010

B. Nội Dung
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về cải cách hành chính.
1.1 Khái niệm cải cách hành chính.
Thuật ngữ "cải cách" được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ phương Tây và
phương Đông, được hiểu là một quá trình, một hoạt động có ý thức, mục đích làm
thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái
mới. Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ, mức độ khác nhau. Có những cuộc

cải cách có tính chất cách mạng, có những cuộc cải cách chỉ là sự đổi mới nhất
định như thay đổi ít nhiều so với ban đầu. Cải cách: là thay đổi những bộ phận cũ
không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách
bao gồm tập hợp của nhiều cải tiến, sáng kiến, biến đổi. Với ý nghĩa đó, cải cách
hiện diện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: Cải cách giáo dục, cải cách
hành chính, cải cách tư pháp...
Cải cách hành chính với tư cách là hành vi của con người nhằm cải biến
nền hành chính của một quốc gia theo hướng hoàn thiện hơn thì đã xuất hiện từ
lâu trên thế giới. Sử sách còn ghi lại những động thái đầu tiên về cải cách hành
chính ở Trung Hoa cổ đại của Vương Mông vào đời nhà Tần ở thế kỷ III trước
công nguyên, ở Nhật vào thời Minh Trị Thiên Hoàng 1852-1912, ở Việt Nam vào
thời Minh Mạng 1791-1841...Tuy nhiên, cải cách hành chính với tư cách là khái
niệm của hành chính học thì xuất hiện rất muộn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng:
khái niệm cải cách hành chính chỉ xuất hiện chính thức trong tác phẩm "Cải cách
hành chính" của nhà hành chính học người Mỹ G.E.Caiden năm 1969. Theo ông,
cải cách hành chính là "sự tác động nhân tạo của việc chuyển đổi hành chính
chống lại sự kháng cự".
Sau đó ít lâu, trong một Hội Nghị của Liên Hiệp Quốc tổ chức năm 1971,
cải cách hành chính được định nghĩa là: Những nỗ lực được thiết kế một cách đặc
biệt để tạo nên các thay đổi cơ bản trong hệ thống hành chính công thông qua các
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

6


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
cuộc cải cách rộng rãi trong hệ thống hay ít nhất là thông qua các biện pháp
nhằm cải tiến một vài yếu tố cơ bản như các cơ cấu hành chính, nhân sự và các
quá trình hành chính.
Theo giáo sư Trương Hoàng Lem, cố vấn của L.T - Asscoites,

Inc.Washinhton thì cải cách hành chính có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính là sự biến đổi với toàn bộ thể chế và cơ cấu
hành chính của Chính Phủ.Theo quan niệm của trương trình phát triển của Liên
hiệp quốc (UNDP) thì đây là phương tiện cải cách hành chính - kỹ thuật. Còn hiểu
cải cách hành chính theo nghĩa hẹp sẽ bao gồm cải cách phương pháp, cách thức
nguyên tắc hành chính trong cơ cấu thể chế hành chính. Theo quan niệm của Ngân
hàng Thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì cải cách hành chính là cải
cách dưới góc độ kinh tế - tài chính.
Nhiều người thừa nhận rằng, một trong những vấn đề khó khăn nhất của
khái niệm cải cách hành chính về ngữ nghĩa đó là việc sử dụng tuỳ tiện các từ "cải
cách" với "biến đổi" hoặc "cải tiến". Số đông đều không đồng tình với việc thay
thế lẫn nhau giữa ba từ này. Cải cách hành chính chỉ là "một nhân tố tương đối
nhỏ trong tổng thể những biến đổi xã hội" và biến đổi xã hội chỉ là "một bộ phận
của dòng tiến hoá không ngừng đặc trưng cho vũ trụ".
Mặt khác, cũng cần phân biệt cải cách hành chính với những biến đổi thông
thường, những việc làm cần thiết và thường được gọi là "cải tiến" trong nền hành
chính. Những cải tiến đó thường được tiến hành trên cơ sở một nền hành chính
tương đối ổn định, hợp lý và vận hành bình thường. Chúng là những đổi mới, cải
thiện ở một số bộ phận, quá trình nhất định để nền hành chính được hoàn thiện
thêm. Về quy mô và phạm vi, những "cải tiến" trong nền hành chính thường được
giới hạn ở một lĩnh vực hẹp của nền hành chính công, diễn ra trong thời gian ngắn
nhằm đáp ứng những cục bộ, phiến diện, cấp thiết của nền hành chính. Như vậy,
"cải tiến hành chính" được hiểu như là sự tự điều chỉnh của nền hành chính. Trong
khi đó, cải cách hành chính được nhìn nhận có tầm vóc và phức tạp hơn: nó là một
chủ trương tập trung vào nhiều nội dung, yêu cầu lớn chứ không chỉ là các vấn đề
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

7



Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
bình thường mang tính cải tiến. Nó đòi hỏi từ việc nghiên cứu toàn diện các quan
điểm, nguyên tắc cho cải cách hành chính, cho đến việc xây dựng một chiến lược
dài hạn với các chương trình trung hạn, ngắn hạn về những vấn đề và phương thức
cải cách.Về phạm vi, cải cách hành chính đụng chạm đến các phương diện thiết
chế tổ chức, pháp lý, nhân sự, tài chính dù chỉ là các bộ phận nhỏ của nền hành
chính. Như vậy, nếu cải tiến hành chính chủ yếu chỉ đem tới sự thay đổi về lượng
thì cải cách hành chính là sự thay đổi về chất, là một dạng (bộ phận) của biến đổi
xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Ý thức rõ về điều này sẽ có ý nghĩa rất
lớn không chỉ trong việc hoạch định chiến lược, nội dung cho cải cách hành chính
mà còn không đồng nhất cải cách hành chính với những thay đổi, bổ sung bình
thường trong nền hành chính.
Với những nhận định trên, chúng ta có thể hiểu: Cải cách hành chính là một

quá trình bằng việc cải biến có kế hoạch đồng bộ chế độ hành chính cũ, xây dựng
chế độ và phương pháp hành chính mới trên các phương diện: thể chế hành chính,
cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ công chức và tài chính công
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính Nhà nước.
1.2 Đặc điểm.

Từ việc tìm hiểu, phân tích để xác định khái niệm cải cách hành chính thì
việc nghiên cứu để tìm ra những nét đặc trưng của nền hành chính một nước là
hoạt động hết sức quan trọng giúp cho việc thực hiện cải cách hành chính có hiệu
quả. Cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách hành
chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập trung quan liêu, bao cấp sang quản lý
trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ. Điều này chưa từng có tiền
lệ. Do vậy, Nền hành chính Việt Nam có những nét đặc trưng chung của nền hành
chính như: Nền hành chính mang tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng, nền
hành chính mang tính chuyên môn hoá, kỹ năng hành chính và nghề nghiệp cao,
nền hành chính có tính hệ thống, thứ bậc chặt chẽ...Và bên cạnh đó, xuất phát từ

các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...nên nền hành chính Việt Nam có
những nét đặc trưng riêng.
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

8


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010


Thứ nhất: nền hành chính mang tính lệ thuộc vào chính trị và hệ

thống chính trị, phục vụ chính trị với một Đảng duy nhất lãnh đạo.
Để quản lý xã hội có hiệu lực và hiệu quả, nền hành chính Nhà nước hoạt
động có tính nghiệp vụ và kỹ năng, kỹ thuật hành chính đặc trưng, riêng biệt. Nền
hành chính Nhà nước phục vụ cho một mục tiêu chính trị và thực hiện những
nhiệm vụ chính trị do Đảng cầm quyền quyết định. Nền hành chính quốc gia là
trung tâm thực thi có hiệu lực của hệ thống quyền lực chính trị.
Nhà nước XHCN Việt Nam, tính lệ thuộc của nền hành chính vào chính trị
xuất phát từ bản chất nhà nước Việt Nam kiểu mới và cơ cấu tổ chức xây dựng hệ
thống thể chế chính trị tổng quát là "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ" đã tạo ra khuôn khổ chung lâu dài về chế độ dân chủ, kỷ cương. Từ đó,
nền hành chính ở Nhà Nước ta hoàn toàn lệ thuộc vào chính trị, hệ thống chính trị
và phục vụ chính trị bởi lẽ ở Nhà Nước ta mọi chính sách, pháp luật cũng như chủ
trương thực hiện Chương trình cải cách hành chính Nhà Nước đều trên cơ sở
đường lối lãnh đạo, cương lĩnh chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Với chế độ
duy nhất một Đảng cầm quyền và lãnh đạo, nền hành chính Việt Nam luôn phục
tùng tuyệt đối, toàn diện sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Điều này đã được khẳng định trong Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành

lập đến nay: "Đảng Cộng sản Việt nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân..." Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị
lãnh đạo Nhà nước và xã hội đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân
tộc. Đây là những vấn đề mang tính nguyên tắc có tính chính trị- xã hội định
hướng cho việc xây dựng hệ thống chính trị và nền hành chính của nước ta trên
thực tế. Mọi hoạt động của Nhà nước đều lệ thuộc vào thể chế một Đảng duy nhất
lãnh đạo - Đảng cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, nền hành chính nhà nước phải
mang đầy đủ bản chất của nhà nước ta, nhà nước dân chủ XHCN, có bản chất giai
cấp công nhân, tính chất nhân dân và truyền thống dân tộc, đó thực sự là một nền
hành chính phục vụ nhân dân, đầy tớ của dân, nền hành chính luôn chống chủ
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

9


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
nghĩa quan liêu. . song, Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước để thực
thi quyền lực hành chính. Đảng không đứng trên cùng một mặt bằng quyền lực
nhà nước, mà đứng ở tầm cao của Đảng lãnh đạo để lãnh đạo cả Nhà nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo chứ không chỉ đạo trực tiếp làm thay chức năng quyền lực
hành chính nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng phải được luật hoá, thể hiện ở trong
hệ thống pháp luật, thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên và thiết chế bộ máy của hệ
thống chính trị.


Thứ hai: Nền hành chính mang tính quyền lực Nhà nước.
Quyền lực nhà nước được phân công cho các cơ quan nhà nước nhằm để

phòng ngừa sự lạm dụng quyền lực, chuyển từ Vương quốc của một Ông Vua
sang Vương quốc của Nhân Dân, từ xã hội Thần Dân sang xã hội Công Dân. Đó là

tính ưu việt cực kỳ to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong việc phân công quyền lực nhà
nước, là một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại. Đối với nước ta, đây là
thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta đã giành được trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước ta không độc lập, càng không đối lập,
mà thống nhất với nhau trên cơ sở đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Về tính chất, mối quan hệ và hoạt động của ba quyền này là sự phân công,
phối hợp để thực hiện nhiệm vụ chung. Vì vậy, cần có sự phân định rành mạch,
khoa học để các cơ quan thực hiện các quyền phát huy tính năng động, sáng tạo,
hoạt động đúng thẩm quyền, và tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Đồng thời,
có sự phối hợp, kiểm tra lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện các quyền để phát
huy hiệu lực chung của quyền lực nhà nước thống nhất. Cải cách hành chính do đó
cần được tổ chức triển khai toàn diện, đồng bộ, gắn kết với cải cách lập pháp và
cải cách tư pháp.
Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên cơ sở bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm một cách hợp lý giữa ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến quyền hành pháp.
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

10


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Tính quyền lực nhà nước đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải
đảm bảo tính quyền uy, nghĩa là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng quyền
lực, đồng thời phải tạo dựng uy tín về chính trị, về phẩm chất đạo đức và năng lực
trí tuệ. Việc ban hành các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý để điều chỉnh mọi
quan hệ trong xã hội, thực hiện hoạt động quản lý Nhà Nước. Với tư cách là công
cụ quyền lực công, nền hành chính mang tính cưỡng chế, kết hợp với thuyết phục,

giáo dục của Nhà nước, hoạt động theo những quyết định của pháp luật. Vì vậy,
nền hành chính nhà nước ta đòi hỏi mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức xã hội,
mọi công chức và công dân phải tuân thủ tính chính quy, hiện đại của bộ máy, có
kỷ luật và kỷ cương.
Nền hành chính nhà nước ta hoạt động theo pháp luật và dựa vào pháp luật
để thể hiện quyền lực của mình trong quá trình quản lý. Nền hành chính mang tính
quyền lực Nhà Nước được biểu hiện bằng sự phục tùng mệnh lệnh, một bên chủ
thể có thẩm quyền đơn phương ra quyết định và bắt buộc chủ thể bên kia phải
phục tùng. Hành chính nhà nước mang tính cưỡng chế, yêu cầu mọi tổ chức xã
hội, cơ quan nhà nước và công dân phải tuân thủ các mệnh lệnh hành chính, đảm
bảo và giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội. Điều này đã được khẳng định trong điều
12 của hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001: "Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật".


Thứ ba: Nền hành chính mang tính nhân dân, phục vụ nhân dân và

không vụ lợi.
Xuất phát từ bản chất của Nhà Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xuất phát từ yêu cầu cuộc
sống, sát với hoàn cảnh thực tế của đất nước đồng thời phải thích ứng với xu thế
của thời đại, nhằm thu hút được kết quả thiết thực, tác động tích cực đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội là phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc tiếp
tục sự nghiệp đổi mới, phát triển theo đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

11



Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Do đó, nền hành chính Nhà nước chỉ có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ lợi
ích công và lợi ích công dân, không đòi hỏi người được phục vụ phải thù lao,
không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Nền hành chính Việt Nam với việc thực hiện
cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, hợp lý hoá trình tự
giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan công quyền với xã hội dân sự,
với công dân, với doanh nghiệp đã đơn giản hoá các thủ tục hành chính tạo điều
kiện thuận lợi tronh việc giải quyết công việc đã thể hiện rõ nét một Nhà nước với
vai trò làm chủ là nhân dân. Vì vậy, nền hành chính Việt Nam luôn mang tính
nhân dân, phục vụ nhân dân bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân. Đồng thời,
luôn đơn giản trong lề lối làm việc, trong sáng, tôn trọng con người, không độc
đoán, cửa quyền, phiền hà, tham nhũng đối với dân và thực sự vì lợi ích của nhân
dân, một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục
vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý toàn xã hội một
cách hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Yêu cầu
này đòi hỏi trước hết phải xây dựng một nền hành chính dân chủ, pháp quyền. Đó
là nền hành chính có tổ chức và hoạt động theo chuẩn mực pháp luật; bảo đảm,
bảo vệ các quyền công dân bằng pháp luật. Công dân là người chủ thực sự, có
quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Nền hành chính tạo mọi điều kiện để công dân tham gia tích cực vào quá trình xây
dựng luật pháp. Thông qua đó, các quyền tự do, dân chủ của công dân được thể
chế hoá và mở rộng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tiếp theo, nền hành
chính bảo đảm các quyền công dân theo luật định được tôn trọng trên thực tế
thông qua hệ thống lập quy và bằng các biện pháp cụ thể. Các chủ thể hành chính
tuyệt đối tuân thủ pháp luật, chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép.
Đồng thời, xây dựng một nền hành chính phát triển. Đó là nền hành chính vì dân,
coi công dân là trung tâm và đề cao chức năng phục vụ công. Nền hành chính
hướng tới sứ mệnh thoả mãn lợi ích chung của toàn xã hội và đáp ứng các nhu cầu

chính đáng của nhân dân một cách chất lượng, hiệu quả, kinh tế nhất. Nền hành
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

12


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
chính tạo mọi thuận lợi để công dân và các tổ chức của họ tham gia thực hiện các
công việc nhà nước. Bằng hành động thực tiễn, nền hành chính quan tâm đảm bảo
các quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm công bằng,
bình đẳng, tạo điều kiện cần thiết để mọi thành viên xã hội với những địa vị, điều
kiện, thể chất, ... khác nhau nhưng có cơ hội như nhau để phát triển; quan tâm giúp
đỡ, cung cấp dịch vụ cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn
và những nhóm đối tượng yếu thế, có vị thế bất lợi trong nền kinh tế thị trường.
Nền hành chính nhà nước dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật
tự kỷ cương xã hội theo pháp luật, đó là nền hành chính không có mục đích tự
thân mà phải vì nhân dân phục vụ. Cơ quan công vụ là các thiết chế phục vụ xã
hội, phục vụ nhân dân. Cán bộ công chức gương mẫu chấp hành pháp luật, thực
thi công vụ một cách phi vụ lợi, đặt lợi ích của xã hội, của công dân lên trên hết.
Nhân dân là đối tác chính trong xây dựng và triển khai chính sách, được tạo mọi
điều kiện để chủ động tham gia vào quá trình quản lý, cung ứng dịch vụ công;
giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, và có thể thông qua các đại biểu
của mình bãi miễn chức vụ của cán bộ công chức không đủ uy tín, năng lực, với
cơ chế thuận tiện, khả thi.
Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan
điểm xây dựng nhà nước pháp quyền. Điều 2 ghi nhận: "Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân , vì nhân dân".



Thứ tư: Nền hành chính mang tính nhân đạo.
Nhà nước với tư cách là nhà hoạch định chiến lược, hoạch định chính sách

và nhà cung ứng các dịch vụ công trong bối cảnh cụ thể của quốc gia và Bộ máy
quản lý nhà nước tổ chức thực hiện những nhiệm vụ của nó như thế nào để với
một chi phí thấp nhất có thể đạt được kết quả cao nhất.
Nền hành chính Nhà nước Việt Nam thể hiện tính nhân đạo cao, do bản
chất của Nhà nước dân chủ XHCN được Đảng và nhà nước ta đã dầy công xây
dựng, điều đó được thấm nhuần và thể hiện đúng đắn từ trong những quy định của
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

13


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
luật pháp, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam - trực tiếp là luật pháp
hành chính, phải vừa xuất phát từ lợi ích của nhân dân, vừa chặt chẽ theo đúng các
quy định của pháp luật, để bảo đảm trật tự công, thúc đẩy xã hội phát triển theo
định hướng XHCN.
Biểu hiện cụ thể, từ dân chủ XHCN Các cơ quan hành chính nhà nước phải
chủ động xây dựng những kênh phù hợp cho mọi tầng lớp nhân dân tiếp cận và
phản hồi thông tin về hoạt động quản lý của mình nhằm phát huy vai trò phản biện
chính sách của xã hội và nâng cao trách nhiệm giải trình của bộ máy hành chính.
Tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp; qua đó, động viên được nhân dân
tham gia sâu rộng, thực chất hơn vào các hoạt động chính trị - xã hội. Khi hoạch
định thể chế, pháp luật, Các văn bản, đề án phải phản ánh được ý nguyện của nhân
dân, lợi ích chung của đất nước, quy luật tự nhiên của xã hội, bảo đảm quyền và
lợi ích của công dân, ngăn chặn những nguy cơ vi phạm đến quyền con người từ
bất kỳ chủ thể nào, kể cả từ phía Nhà nước, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ
những hành vi công vụ đúng pháp luật, giúp người dân tham gia kiểm soát quyền

lực hành pháp, quyền lực hành chính nhà nước. Chúng tôi thiết nghĩ trên đây là
một số nét hết sức đặc thù của nền hành chính Việt Nam trong giai đoạn quá độ
lên CNXH.
Như vậy, khi xem xét về tổng thể, trong giai đoạn hiện nay Việt Nam chúng
ta là một quốc gia đang tiến hành đổi mới toàn diện, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế,
thực hiện từng bước đổi mới hệ thống chính trị để ổn định và phát triển đất nước
bền vững. Do đó, nền hành chính quốc gia là một bộ phận hết sức quan trọng của
bộ máy Nhà nước, có vai trò trong việc thực thi quyền hành pháp để làm cho mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc
sống, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có thể nói, năng lực,
quyền lực, hiệu quả của Nhà nước xét đến cùng đều thể hiện ở hiệu quả hoạt động
của nền hành chính quốc gia.

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

14


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
1.3 Yêu cầu của xã hội đối với vấn đề cải cách hành chính:
Phát triển và hội nhập toàn cầu là xu thế tất yếu và không thể đảo ngược
của đất nước ta. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN, APEC, WTO. Trong tiến trình phát triển và hội nhập vào thế giới và khu
vực nhiều vấn đề mang tầm chiến lược đang đặt ra (vừa là thời cơ, vừa là thách
thức) đối với đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị văn hoá - xã hội - quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Trong rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết - Vấn đề đẩy mạnh cải cách
hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về kinh tế-xã hội đang là
vấn đề cấp thiết nhất. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:“Chính
phủ tập trung vào việc hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng giải pháp, cải

cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế, xã hội, nâng cao năng lực và hiệu quả của chỉ đạo thực hiện, kiểm tra,
thanh tra thực hiện thể chế. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý Nhà nước về
kinh tế-xã hội của cơ quan công quyền các cấp”.
Đẩy mạnh cải cách hành chính công là nội dung lớn, trong phạm vi bài viết
này chỉ đề cập đến việc đánh giá tầm quan trọng của cải cách thủ tục hành chính
trong tiến trình phát triển và hội nhập.
Trước hết cần làm rõ khái niệm thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành
chính.
Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về
thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà
nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan Nhà nước trong mối quan
hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân.
Hiện nay thủ tục hành chính ở nước ta còn những nhược điểm: Hình thức
đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân; nặng nề, nhiều cửa, nhiều
cấp trung gian, rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm; không phù hợp với yêu cầu
của thời kỳ mở cửa và hội nhập. Thủ tục hành chính thiếu thống nhất, thường bị
thay đổi một cách tuỳ tiện, thiếu công khai, minh bạch.
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

15


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Hiệu quả của nhược điểm trên là gây phiền hà cho việc thực hiện quyền tự
do, lợi ích và công việc chung của cơ quan, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp
tác giữa nước ta với nước ngoài, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ trong hệ thống
cơ quan hành chính, là nơi thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng phí phát sinh,
hoành hành.
Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính là yêu cầu bức xúc của nhân dân,

doanh nghiệp, của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của tiến
trình cải cách hành chính Nhà nước. Trong tiến trình phát triển và hội nhập, cải
cách thủ tục hành chính có một vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thủ tục hành chính
nói riêng, nền hành chính nói chung không được hay chậm cải cách thì sẽ là một
rào cản kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta. Nghị quyết 38/CP
ngày 1/5/1994 của Chính phủ “Về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc
giải quyết công việc của công dân và tổ chức” là khâu đột phá trong cải cách hành
chính Nhà nước đã phát huy tác dụng và đạt được những kết quả nhất định trong
thời gian qua. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, thủ tục hành
chính cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa.
Theo nghĩa chung nhất, cải cách là một biện pháp được thực hiện để giải
quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu
cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định.
Cải cách hành chính có thể được hiểu như là một quá trình thay đổi nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp
hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực
quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính là điều
kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân,
tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của nhân dân. Cải cách thủ tục được coi
là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính Nhà nước, nghĩa là để tạo sự chuyển
động của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia; thủ tục hành chính là khâu
được chọn đầu tiên, cải cách thủ tục hành chính sẽ gây ra sự chuyển động của
toàn bộ hệ thống khi bị tác động.
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

16


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Quản lý hành chính của nước ta trong giai đoạn hiện nay đang chịu sự tác

động bởi hai xu thế lớn của thế giới hiện nay: Đa cực hoá và toàn cầu hoá: Trong
xu hướng đó nền hành chính công mới có nhiều điểm khác biệt với nền hành chính
truyền thống. Những yếu tố khoa học quản lý, những nhân tố thị trường, những
mối quan hệ ngày càng đa dạng phức tạp giữa chính trị - hành chính - kinh tế,
những bước nhảy vọt của khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hoá đời sống xã hội,
trình độ dân trí được nâng cao mọi mặt đã đề ra yêu cầu mới đối với các Nhà
nước, các Chính phủ và các nền hành chính công. Những yêu cầu của quá trình cải
cách thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện nay của nước ta là:
• Phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính.
• Bảo đảm sự chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính.
• Bảo đảm tính hợp lý của thủ tục hành chính.
• Bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành chính
đã ban hành.
• Bảo đảm tính rõ ràng và công khai của các thủ tục hành chính.
• Dễ hiểu, dễ tiếp cận.
• Có tính khả thi.
• Bảo đảm tính ổn định cần thiết của quy trình thủ tục hành chính.
Để đáp ứng yêu cầu trên (cũng là yêu cầu của hành chính phát triển và hội
nhập) cần phải xây dựng những cơ chế thích hợp cho việc thực hiện các thủ tục
hành chính đã ban hành.
Những cơ chế đã, đang được nghiên cứu, xây dựng và đưa vào áp dụng;
trong tiến trình phát triển và hội nhập hiện nay là:
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” tiến tới “một
dấu”.
• Giao dịch điện tử.
• Chính phủ điện tử.
• Áp dụng ISO.

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B


17


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
Xây dựng cơ chế đã khó, làm cho cơ chế đó vận hành trên thực tế càng khó
hơn. Đề án 112 đã đưa vào thực hiện nhưng chưa đạt được những kết quả như
mong muốn, cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính trong thời
gian tới để hoàn thành chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001 - 2010.
Ngày 07/11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Hậu WTO sẽ có rất nhiều việc phải làm. Trước hết là
vận hành hệ thống pháp luật phải thế nào để tương thích với những cam kết trong
nghị định thư WTO.
Ví dụ: Để đưa luật Doanh nghiệp và luật Đầu tư vào cuộc sống, Chính phủ
phải khẩn trương ban hành các Nghị định để hướng dẫn thi hành hai luật đó. Các
nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư mong đợi hai luật sớm phát huy hiệu lực thực tế,
đồng thời sẽ được tổ chức thực hiện một cách thống nhất, hợp lý, ăn khớp với
nhau, từ đó giảm thiểu những thủ tục, trình tự trùng lặp, phức tạp, tốn thời gian và
công sức, của cả nhà đầu tư lẫn Nhà nước.
Cải cách hành chính là vấn đề được quan tâm chủ yếu hiện nay ở hầu hết
các nước trên thế giới. Việt Nam cũng đang đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục
hành chính và đó là khâu đột phá trong thời gian qua. Trong tiến trình phát triển và
hội nhập, vai trò của cải cách thủ tục hành chính ngày càng được khẳng định và
hơn thế nữa, những yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập sẽ tiếp tục đặt ra cho cải
cách thủ tục hành chính những thách thức mới cần phải vượt qua – Đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn, vượt qua những thách thức đó, cải cách hành chính sẽ góp phần
tích cực để đất nước phát triển và hội nhập thành công.
1.4 Chủ trương của đảng và nhà nước với vấn đề cải cách hành chính
nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều
kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ

mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình
thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành
chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

18


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là
một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu
từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986.
Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội
trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ
chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các
cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã
được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn
chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề.
Đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra
những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền
địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này
đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta
bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII
thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà
nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng
định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa
đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan

lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược
cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là
xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có
đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980.
Hiến pháp 1992 thể hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về phân công, phối hợp giữa 3

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

19


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của
Nhà nước.
Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy,
quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành
chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đánh dấu bước phát triển mới về
xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành
chính nhà nước được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ
năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu
lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh,
đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc
theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành
chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8,
đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII đã mở ra một giai đoạn

mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Có thể nói
Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình cải
cách hành chính của 20 năm đổi mới vừa qua.
Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính
đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các
nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 19962000.
Với tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính được đề ra trong Nghị quyết
Trung ương 8 (khoá VII) một cách tích cực theo chương trình, kế hoạch, Nghị
quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với
cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

20


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ
máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý
chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản
lý nhà nước của các bộ, ngành. Theo đó, 4 điểm bổ sung quan trọng trong định
hướng cải cách được Nghị quyết đề ra là:


Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính.



Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa


các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.


Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi

tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử
lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp
lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ
máy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước).


Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số

hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công.
Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) họp tháng 6
năm 1997 ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây
dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương
và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan
trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ
vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành
các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 đặc
biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và
năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ
Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B


21


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động
theo nhu cầu và lợi ích của đất nước.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã
biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành cải cách hành
chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã đi đến
khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ
chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính
trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự
đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính
một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của
các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.
Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương
tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị
gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ
thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương.
Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền
hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã
đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành
chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động
của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp;
tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục
cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương,
chống quan liêu, tham nhũng…

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

22


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
1.5 Nội dung công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong giai đoạn
2001 – 2010.
1.5.1 Bối cảnh ra đời:
Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX (tháng 4/2001) bên
cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp
có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức
năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách quản lý nhà nước với hoạt động sản
xuất kinh doanh, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch
vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục cải cách thủ tục hành
chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật
tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ
đạo phải nhanh chóng xây dựng cho được một chương trình cải cách hành chính
có tính chiến lược, dài hạn của Chính phủ. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày
17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
1.5.2 Ý nghĩa của chương trình tổng thể:
Với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20012010, lần đầu tiên trong quá trình cải cách, Chính phủ có một chương trình có tính

chiến lược, dài hạn, xác định rõ 4 lĩnh vực cải cách là cải cách thể chế, cải cách tổ
chức bộ máy hành chính, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức và cải
cách tài chính công, định rõ các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách và xác định các giải
pháp thực hiện nhằm bảo đảm thắng lợi công cuộc cải cách. Chương trình tổng thể
sẽ là công cụ quan trọng để Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và chính
quyền địa phương các cấp đẩy mạnh cải cách hành chính.
1.5.3 Chính mục tiêu cụ thể:

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

23


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
1. Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế,
về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao
trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế, phát huy dân chủ,
huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật.
2. Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà,
gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính
mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
3. Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ
không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức phi Chính phủ đảm nhận.
4. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản

lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội
bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
Bộ máy của các bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức
năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách,
cung cấp dịch vụ công.
5. Đến năm 2005, về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định
mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương,
giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được
tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và
thẩm quyền được xác định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân

Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

24


Thực Tiễn Cải Cách Hành Chính Ở Tỉnh Quảng Trị Giai Đoạn 2005 - 2010
dân (sửa đổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính
quyền cấp xã.
6. Đến năm 2010, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý,
chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và
đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và
phục vụ nhân dân.
7. Đến năm 2005, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản,
trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và
gia đình.
8. Đến năm 2005, cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất của
cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.

9. Nền hành chính nhà nước được hiện đại hoá một bước rõ rệt. Các cơ
quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại phục vụ yêu cầu quản lý nhà
nước kịp thời và thông suốt. Hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ được đưa
vào hoạt động.
1.5.4 Bốn nội dung cải cách:
1.5.4.1 Cải cách thể chế:


Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt
động của hệ thống hành chính nhà nước.


Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.



Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà

nước, của cán bộ, công chức.


Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính.
1.5.4.2 Cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu
cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.


Hoàng Ngọc Ái - Luật K33B

25


×