PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài.
Cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội là sự ra đời của Nhà nước.
Nhà nước ra đời nhằm giải quyết những mâu thuẫn của xã hội đồng thời thực
hiện các chức năng khác mà xã hội giao phó. Để duy trì hoạt động của mình,
thì Nhà nước phải xây dựng một bộ máy riêng, đại diện cho Nhà nước, nắm
quyền lực để điều hành xã hội. Trong bộ máy đó, có các con người chính trị,
những con người này chính là chủ thể đại diện cho Nhà nước nắm giữ quyền
lực chính trị. Thực tế thì Nhà nước có quản lý tốt xã hội hay không? Thịnh
hay suy? thì suy cho cùng cũng là do con người chính trị mà ra.
Bất kỳ Nhà nước nào cũng muốn quản lý xã hội sao cho thật tốt, giữ
vững ổn định chính trị, đảm bảo quyền lực chính trị về tay giai cấp cầm
quyền. Để quản lý xã hội tốt cần có những con người chính trị tài giỏi và đào
tạo, bồi dưỡng chính là con đường, cách thức để tạo ra những con người chính
trị đáp ứng tiêu chuẩn Nhà nước đề ra.
Năm 1484, Tiến sĩ triều Lê Thân Nhân Trung đã soạn bài ký cho tấm bia
văn miếu tại Quốc Tử Giám với nội dung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì
thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc Vua tài giỏi đời xưa,
chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp
thêm nguyên khí” .Đó là tư tưởng hết sức tiến bộ và luôn đúng trong mọi thời
đại.
Vào nửa cuối thế kỷ XV, vương triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã
đạt được những thành tựu rực rỡ trong xây dựng và phát triển đất nước, được
xem là đỉnh cao sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong thời
gian trị vì 38 năm, Lê Thánh Tông đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc
gia hùng cường trong khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ cả về mặt kinh tế,
chính trị và văn hóa – xã hội. Gắn liền với việc xây dựng củng cố thể chế
chính trị quân chủ trung ương tập quyền tuyệt đối theo hệ tư tưởng Nho giáo,
Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm xây dựng con người chính trị, trọng tâm là
vấn đề đào tạo, bồi dưỡng quan lại. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại
dưới thời vua Lê Thánh Tông được xem là mẫu mực để xây dựng và tổ chức
bộ máy Nhà nước vững mạnh.
Trong thời đại ngày nay, đảng ta từ khi thành lập đã luôn chăm lo, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, với những con người chính trị kiên cường,
bất khuất, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta đi hết từ thắng lợi này tới thắng lợi
khác. Bước sang thời kỳ độc lập dân chủ, giai đoạn đầu còn nhiều khó khăn
thử thách do hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại, nhưng cũng với những
con người chính trị đầy bản lĩnh Đảng đã dẫn dắt Nhân dân ta kinh qua thời
điểm khó khăn đó. Ngày nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa là sự bùng nổ
của công nghệ thông tin – truyền thông và sự phát triển của nền kinh tế tri
thức, tuy nhiên bên cạnh những kết quả to lớn đạt được thì đội ngụ cán bộ,
công chức của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được
đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đội ngũ cán bộ, công chức muốn
quản lý xã hội được tốt và đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại phải
không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu chính sách đào tạo
quan lại dưới thời vua Lê Thánh Tông qua đó đúc rút những bài học kinh
nghiệm áp dụng vào và hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngày nay. Chính vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “ Chính sách đào
tạo, bồi dưỡng quan lại thời vua Lê Thánh Tông và bài học để lại đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay” làm
khóa luận tốt nghiệp.
2.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước tới nay, nhiều công trình nghiên cứu về sử học, văn học, triết
học, chính trị học, lịch sử tư tưởng, văn hoá, giáo dục Việt Nam của nhiều tác
giả trong nước được công bố. Trong đó một số tác giả đề cập đến vấn đề đào
tạo, bồi dưỡng quan lại của các nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử.
Có thể dẫn ra một số công trình nghiên cứu của các tác giả sau đây.
Bàn về con người chính trị Việt Nam, nổi bật là công trình nghiên cứu
Con người chính trị Việt Nam - Truyền thống và hiện đại của một nhóm tác
giả của Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh do GS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, năm 2009. Tác phẩm đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
con người chính trị cũng như thực tiễn con người chính trị Việt Nam trong
truyền thống và thời hiện đại, đồng thời xác định những yêu cầu mới đối với
con người chính trị Việt Nam hiện nay.
Trong cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 - 1945
do Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1996, các tác
giả đã phân tích cụ thể về nội dung, phương pháp và kết quả đạt được trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở nước ta từ thế kỷ X đến năm 1945, trong đó nhấn
mạnh những đóng góp tích cực của nền giáo dục Nho học vào việc đào tạo
đội ngũ quan lại cho các triều đại phong kiến dân tộc.
Năm 2002, trong cuốn Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ
Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn đã đi sâu phân
tích những đóng góp của Lê Thánh Tông trong việc vận dụng, phát triển Nho
giáo thành hệ tư tưởng chính trị chính thống, sử dụng nó trong việc cai trị đất
nước, đào tạo và xây dựng đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
đất nước nửa cuối thế kỷ XV.
Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập I do PGS.TS Nguyễn Tài Thư chủ
biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1993, đã dành riêng một chương
bàn về thế giới quan, tư tưởng chính trị - xã hội và đường lối trị nước của Lê
Thánh Tông
Năm 2011, trong cuốn Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính
dưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh, TS. Bùi Huy Khiên, Nhà
xuất bản Lao động, đã đi sâu phân tích về vấn đề cải cách hành chính của
triều đại vua Lê Thánh Tông trong đó có vấn đề cải cách quan chế, đào tạo
quan lại thời kỳ này.
Trong những năm gần đây, trên các tạp chí nghiên cứu cũng đã công bố
một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đào tạo, tuyển chọn
và sử dụng quan lại như Tuyển chọn quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông và
vua Minh Mệnh: Di sản kế thừa và tham khảo của Bùi Huy Khiên trên Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 144 năm 2008 ; Tuyển chọn và sử dụng quan lại ở nước ta
thời kỳ trung đại của TS. Đỗ Minh Cương trên Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9
năm 2006; Ông cha ta sử dụng hiền tài của Lê Văn Huân trên Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 2+3 năm 2008; Tuyển chọn và sử dụng quan chức: Cách làm của ông
cha ta của Bùi Xuân Đính trên Báo Tiền phong số 40 năm 2009 …
Các công trình ấn phẩm trên đây đề cập tới vấn đề con người chính trị Việt
Nam hoăc vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quan lại trong lịch sử phong kiến
Việt Nam nói chung trên một vài khía cạnh nhất định. Tuy nhiên việc nghiên
cứu chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại thời vua Lê Thánh Tông dưới góc
nhìn chính trị học và toàn diện nhất thì vẫn là một khoảng trống cần tìm hiểu.
3.
3.1
Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận.
Mục đích nghiên cứu.
Khóa luận tập trung làm rõ chính sách đào tạo và bồi dưỡng quan lại
dưới thời vua Lê Thánh Tông . Từ đó rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử thông
qua việc liên hệ thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngày
nay.
3.2
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau
- Nghiên cứu và làm rõ cơ sở hình thành chính sách đào tạo, bồi dưỡng
quan lại thời Lê Thánh Tông.
- Nghiên cứu và làm rõ nội dung chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại
thời Lê Thánh Tông thông qua việc làm rõ các chính sách, biện pháp thực
hiện, những kết quả thu được trong việc đào tạo và bồi dưỡng quan lại thời Lê
Thánh Tông.
- Rút ra ý nghĩa thực tiến, mối quan hệ biện chứng và bài học để lại đối
với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay.
4.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của khóa luận.
4.1
Đối tượng nghiên cứu.
- Khóa luận tập trung nghiên cứu chính sách đào tạo và bồi dưỡng quan
lại thời vua Lê Thánh Tông .
- Công tác đào tạo cán bộ, công chức ngày nay.
4.2
Phạm vi nghiên cứu.
- Khóa luận tập trung nghiên cứu giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỷ XV
dưới triều Lê Sơ, trong đó đi sâu vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV – thời kỳ
trị vì của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).
- Công tác đào đạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngày nay.
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận.
Cơ sở lý luận của khóa luận là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng
thời, khóa luận cũng dựa trên cơ sở các quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công
chức.
Trong quá trình nghiên cứu em sử dụng phương pháp phân tích và so
sánh chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại trước và sau triều đại của vua Lê
Thánh Tông, phân tích để thấy những mặt đã làm được và chưa làm được
trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại của vua Lê Thánh Tông. Đồng
thời khóa luận cũng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp hệ thống hóa; phương pháp
khái quát hóa.
6.
Đóng góp mới của đề tài
Là khóa luận nghiên cứu về chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại thời
vua Lê Thánh Tông, khóa luận góp phần trình bày một cách có hệ thống, đầy
đủ trên nhiều phương diện về chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại thời Lê
Thánh Tông đồng thời nêu lên những bài học để lại đối với chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngày nay.
7.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài các phần: Lời cảm ơn, Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Khóa luận
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và vấn
đề đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước.
Chương 2: Chính sách đào tạo bồi dưỡng quan lại dưới thời vua Lê
Thánh Tông.
Chương 3: Bài học để lại từ chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại
dưới thời vua Lê Thánh Tông đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức ngày nay.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC.
1.1.
Các khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm đào tạo
Đào tạo, theo từ điển tiếng việt, được hiểu là: “làm cho trở thành người
có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”.
Viện từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa “Đào tạo
là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và
nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công
lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh của loài người.
Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với
giáo dục đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học
vấn) của một người còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự
học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh
nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến
thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có
hiệu quả cao” [4].
Tại trang web của Amherst college ( Massachusetts) có định nghĩa: Đào
tạo là quá trình giáo dục. Con người có thể học được những thông tin mới;
học lại; nâng cao kiến thức và kỹ năng đang có; và đặc biệt có thời gian để
suy nghĩ và tập trung vào những cách thức, biện pháp mới có thể giúp họ
hoàn thiện một cách hiệu quả công việc của họ.
Theo khoản 1, Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi
dưỡng công chức, khái niệm đào tạo được hiểu là “quá trình truyền thụ, tiếp
nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học bậc
học” [5].
Đào tạo thường gắn với việc chuẩn bị cho người lao động những kỹ
năng, trình độ mới để đáp ứng với những yêu cầu công việc đề. Bên cạnh khái
niệm đào tạo, trong nhiều trường hợp, người ta cũng có thể sử dụng một vài
khái niệm như: đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn, đào
tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo.
1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng
Trong từ điển Việt Nam không định nghĩa cum từ “bồi dưỡng”, nhưng có
hai từ được sử dụng là “bổ túc và nâng cao”. Xét trên một nghĩa nào đó, hoạt
động này gọi là bồi dưỡng được thiết lập trên nền tảng một hệ thống thông
tin, kiến thức nhất định mà người lao động đã có. Vấn đề còn lại chính là
“thêm, bổ túc, nâng cao”.
Bồi dưỡng có thể được hiểu là một tập hợp các hoạt động nhằm “nâng
cao khả năng tư duy, tay nghề” làm việc cho người lao động nói chung và cán
bộ, công chức nói riêng nhằm làm cho họ đáp ứng được đòi hỏi của công
việc. Nếu hiểu theo nghĩa này, bồi dưỡng có thể được hiểu là quá trình trong
đó sự hệ thống, bổ sung, cập nhật và nâng cao năng lực cảu người lao động
trở thành nền tảng cơ bản. Như vậy có thể nhận ra, bồi dưỡng được sử dụng
trong trường hợp mong muốn phát triển những nền tảng sẵn có trong người
lao động, phát triển nó lên những nấc thang mới để đáp ứng yêu cầu về độ
khó của công việc.
Tại Khoản 2, Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi
dưỡng công chức, Khái niệm bồi dưỡng được hiểu được hiểu như sau: “là
hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [5].
Bên cạnh khái niệm bồi dưỡng, trên thực tế người ta còn sử dụng một số
khái niệm như:
- Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
động theo chương trình quy định cho ngạch công chức.
- Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang
bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho
từng chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng,
phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.
Bồi dưỡng là quá trình nhằm đổi mới, nâng cao kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp, trang bị thêm cho con người những tri thức mới và cập nhật với
thực tiễn.
Trên thực tế, nếu coi quá trình đào tạo cơ bản là quá trình thứ nhất thì bồi
dưỡng có thể hiểu là quá trình tiếp theo của quá trình thứ nhất đó. Thực tế thì
sau quá trình đào tạo cơ bản, người lao động nói chung và đội ngũ cán bộ,
công chức nói riêng phải thường xuyên cập nhật những kiến thức kỹ năng
kinh nghiệm mới để đáp ứng được những yêu cầu mới và những nhiệm vụ
mới trong công việc mà mình đảm nhận. Do vậy mà bồi dưỡng là hoạt động
không thể thiếu để nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ ,công chức.
1.1.3. Khái niệm chính sách đào tạo bồi dưỡng.
Chính sách được hiểu là tập hợp các chủ trương và hành động về phương
diện nào đó của Đảng và Nhà nước, nó bao gồm các mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước mong muốn đạt được và cách thức thực hiện để đạt được những
mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế, Văn hóa, Xã hội…
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng được hiểu là chủ trương, biện pháp của
Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát triển phẩm chất và năng lực cho
mỗi công dân. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cũng có thể được xem là những
mục tiêu, mong muốn của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
nó bao hàm mục tiêu đào tạo, kế hoạch để thực hiện sao cho đạt được mục
tiêu đó.
1.1.4. Khái niệm quan lại.
Khái niệm “quan lại” là do hai thuật ngữ “quan” và “ lại” hợp thành.
Trong thời kỳ quân chủ phong kiến, “quan” dùng để chỉ những người giữ một
chức vụ ít nhiều quan trọng của Nhà nước, có trách nhiệm quản lý một địa
phương hay một hoạt động nhất định, lớn hay nhỏ. Còn “lại” là thuật ngữ
dùng để chỉ các nhân viên phục dịch trong các cơ quan nhà nước như thư ký,
kế toán, giữ sổ sách, thu thuế, ghi chép…Như vậy, “quan lại” là thuật ngữ
dùng để chỉ những người làm việc công trong bộ máy chính quyền nhà nước
từ trung ương tới các địa phương ngày xưa và là những cán bộ, công chức
ngày nay [6,tr.17].
Đề cập tới thuật ngữ “quan lại” người ta thường nhắc đến một số thuật
ngữ khác như chức quan, phẩm hàm, tước vị. Chức quan được hiểu là chức vụ
của người làm quan, đi kèm với nó là nhiệm vụ, quyền hạn mà người đó thi
được phép thi hành. Thuật ngữ chức vụ ngày nay cũng có thể hiểu giống thuật
ngữ chức quan ngày xưa, đi kèm với chức vụ của người cán bộ, công chức
ngày nay là những nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm mà người cán bộ, công
chức có trong quá trình thực thi công vụ. Tước vị là danh hiệu khen thưởng
của triều đình, thường tương đương với chức quan nhưng cũng có khi tước
cao mà chức thấp hoặc ngược lại. Phẩm là cấp bậc để phân biệt triều ban được
xếp theo chín bậc từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mỗi phẩm lại chia ra làm trật
chánh và trật tòng, cộng thành 18 trật. Hàm thì có hàm Tản quan là loại chức
danh thời cổ được các triều đại sau sử dụng phong cho các quan làm danh
hiệu vinh dự, thực chất không có nhiệm vụ hay quyền gì, còn Huân hàm là
danh hiệu để phong cho những người có công lớn.
1.1.5. Khái niệm cán bộ, công chức.
1.1.5.1. Khái niệm cán bộ.
Theo từ điển Tiếng Việt, cán bộ được hiểu theo hai nghĩa là:
- Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước
như: cán bộ chính trị, cán bộ khoa học, cán bộ Nhà nước.
- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân
biệt với người thường không có chức vụ.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, sửa đổi bổ sung vào các năm
2000 và 2003 quy định, đội ngũ cán bộ công chức là công dân Việt Nam,
trong biên chế, bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ở quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
- Những người được tuyển dụng bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung
ương, tỉnh, huyện;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà
nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội;
- Thẩm phán Tòa án Nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan,
hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ
trong thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, phó Bí thư
Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xã,
phường, thị trấn;
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Như vậy pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, sửa đổi bổ sung vào các
năm 2000 và 2003 đã không bóc tách hai thuật ngữ cán bộ và công chức ra
mà gộp thành một thuật ngữ chung đó là: Đội ngũ cán bộ, công chức. Hạn chế
này đã được khắc phục trong luật cán bộ công chức năm 2008, theo đó tại
khoản 1, Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: Cán bộ là công
dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Khoản 3, Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
Cán bộ xã, phường, thị trấn: là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khoản 3, Điều 3, Nghị định 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, quy định:
Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn
có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam);
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam
1.1.5.2. Khái niệm công chức.
Khoản 2, Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: Công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Khoản 2, Điều 3, Nghị định 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, quy định:
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
- Trưởng Công an;
- Chỉ huy trưởng Quân sự;
- Văn phòng - thống kê;
- Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
- Tài chính - kế toán;
- Tư pháp - hộ tịch;
- Văn hoá - xã hội.
1.2.
Vai trò của đào tạo, bồi dưỡng.
Theo Naukurhu.com, đào tạo có tầm quan trọng trên một số lĩnh vực
như:
-
“ Tối ưu hóa việc sử dụng nguồn nhân lực;
Phát triển nguồn nhân lực;
Phát triển lỹ năng của người lao động trong tổ chức;
Tạo năng suất lao động;
Tạo ra một tập thể lao động có “linh hồn chung”;
Tạo ra văn hóa học tập tạo ra không khí làm việc hướng tới tương lai;
Hoàn thiện chất lượng lao động cũng như chất lượng cuộc sống người
lao động;
- Tạo ra môi trường làm việc tốt thông qua liên kết mục tiêu;
- Tạo ra điều kiện an toàn lao động;
- Đạo đức nghề nghiệp;
- Sáng tạo
- Cuối cùng là gia tăng lợi nhuận” [7, Tr.190].
Trong thời đại của công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức, cộng với
quá trình toàn cầu hòa đang diễn ra nhanh chóng, việc học tập để nắm vững
những tri thức tiến tiến của nhân loại trở thành chìa khóa để đi tới thành công
cho mỗi người vì lẽ đó, công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực nói chung
luôn được các quốc gia chú ý quan tâm phát triển.
Thực tế đã chỉ ra rằng, tri thức là vô hạn mà tầm hiểu biết của con người
thì có hạn, do đó giáo dục, đào tạo sẽ giúp chúng ta lấp được những lỗ hổng
kiến thức để từ đó nắm vững, vận dụng tri thức vào lao động sản xuất và sáng
tạo.
Mặt khác, đối với những nước đang phát triển mà điển hình là Việt
Nam thì công tác đào tạo, bồi dưỡng đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong sự phát triển đất nước, vai trò đó đã được thực tiễn ở nước ta chứng
minh. Trên thực tế, vai trò của đào tạo bồi dưỡng được thể hiện ở một số khía
cạnh như sau:
Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng giúp các quốc gia nâng cao trình độ dân
trí của người dân nước mình, tránh nguy cơ tụt hậu so với các quốc gia khác
trên thế giới. Đồng thời giúp cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước được
thuận lơị hơn, pháp luật vì thế mà được thực thi một cách rộng rãi và nghiêm
chỉnh.
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng giúp cho đội ngũ nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia có thể tiếp cận được những tri thức tiên tiến của nhân loại, từ đó vận
dụng nó vào hoạt động lao động sản xuất và sáng tạo, tạo ra nhiều của cải đáp
ứng đời sống vật chất, nâng cao đời sống tinh thần của xã hội.
Thứ ba, công tác đào tạo bồi dưỡng giúp kích thích, phát huy trí sáng
tạo của con người qua đó củng cố và tạo thêm nhiều tri thức mới. Những tri
thức này sẽ quay trở lại giúp các quốc gia có thể phát triển kinh tế, văn hóa và
xã hội.
Thứ tư, đào tạo bồi dưỡng bên cạnh việc trang bị những kiến thức kỹ
năng nghề nghiệp cho mỗi người lao động nói riêng và nguồn nhân lực nói
chung thì nó còn giúp hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức của mỗi con
người từ đó hình thành nên những nét văn hóa tốt đẹp của mỗi quốc gia.
Thứ năm, thông qua vai trò kích thích sự sáng tạo của con người, đào
tạo bồi dưỡng giúp các quốc gia tiết kiệm nguồn lực như tài nguyên thiên
nhiên, vốn, nguyên vật liệu bởi hoạt động sáng tạo sẽ giúp phát hiện và khai
thác những nguồn năng lượng, vật liệu mới cho xã hội.
Thứ sáu, trong thời đại của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới thì đào tạo, bồi dưỡng còn giúp các quốc gia giao lưu văn hóa,
trao đổi học hỏi tri thức, nâng cao tình đoàn kết hữu nghị thông qua các hoạt
động du học, giao lưu trao đổi văn hóa, hội thảo khoa học .v..v.
1.3.
Vai trò của đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của quản lý, hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước có đạt được hay không và đạt được ở mức độ nào
suy cho cùng cũng mộ phần là do yếu tố con người mà ra. Trong thời đại của
nền kinh tế tri thức cộng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ
thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức càng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng nhằm hình thành nên một nền công vụ phát triển phục vụ tốt
hơn nhu cầu của người dân.
Nhìn chung, vai trò của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được thể
hiện ở hai phương diện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là vai trò đối với bản thân người cán bộ, công chức. Đào tạo,
bồi dưỡng có một số vai trò như sau:
Một là, giúp hiểu biết thêm được nhiều kiến thức, kỹ năng làm việc, nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, giúp quá trình giải quyết công việc được
hiệu quả, nâng cao năng suất lao động.
Hai là, giúp thỏa mãn nhu cầu phát triển nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ,
công chức. Trong một nền hành chính dựa trên mô hình chức nghiệp thì việc
phát triển nghề nghiệp hay còn gọi là phát triển chức nghiệp đối với mỗi cán
bộ, công chức thực sự có ý nghĩa vô cùng lớn lao bởi đào tạo, bồi dưỡng
không chỉ trang bị cho cán bộ, công chức những kỹ năng, trình độ chuyên
môn mà còn giúp họ có được những văn bằng, chứng chỉ phù hợp và đáp ứng
yêu cầu của ngạch, bậc họ công tác, từ đó mà con đường chức nghiệp có thể
phát triển thuận lợi hơn
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng còn làm tăng cao mức độ hài lòng của người
cán bộ, công chức trong hoạt động thực thi công vụ, giúp họ gắn bó nhiều hơn
với công việc đang làm từ đó mà hiệu quả quản lý Nhà nước được đảm bảo.
Bốn là, giúp kích thích khả năng sáng tạo, thích ứng linh hoạt của cán bộ,
công chức với những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ quan hành chính
Nhà nước.
Năm là, đào tạo, bồi dưỡng cũng có vai trò quan trọng hình thành phẩm
chất đạo đức người cán bộ, công chức, giữ vững đạo đức trách nhiệm của họ
trong công việc, góp phần hình thành nếp sống, kỷ luật làm việc.
Thứ hai, đối với các tổ chức hành chính Nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức có một số vai trò như sau:
Một là, góp phần thực hiện một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng nguyện vọng của người dân. Cung cấp tốt hơn các dịch
vụ công.
Hai là, tạo cơ hội để các tổ chức hành chính Nhà nước ứng dụng khoa
học công nghệ tiên tiến vào giải quyết các công việc, từ đó hiện đại hóa nền
hành chính nước nhà.
Ba là, giúp tiết kiệm nguồn lực trong quá trình hoạt động.
Bốn là, xây dựng văn hóa tổ chức, tạo cho tổ chức nét văn hóa học tập,
cạnh tranh cùng tiến bộ giữa các thành viên.
Như vậy, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức đóng một vai trò hết sức
quan trọng, không chỉ đối với bản thân người cán bộ, công chức mà còn có ý
nghĩa trong sự phát triển tổ chức hành chính Nhà nước. Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu quả
đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức, có lối
sống lành mạnh, có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm đáp ứng những yêu cầu
công việc, và sự tiến bộ không ngừng của thời đại.
CHƯƠNG II. CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG QUAN LẠI
DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG.
2.1.
Khái quát về triều đại của vua Lê Thánh tông.
2.1.1. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XV.
Về kinh tế xã hội:
Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của Nhà Hồ nhanh chóng
bị thất bại, Đại Việt rơi vào ách đô hộ của quân Minh, đời sống nhân dân vô
cùng khổ cực, kinh tế đang gặp nhiều khó khăn nay càng trở nên kiệt quệ
nghiêm trọng, thiên tai, mất mùa liên tiếp sảy ra. Năm 1428, Lê Lợi đã đánh
thắng giặc Minh, lập lên vương triều Nhà Lê Sơ, từ dó Lê Thái Tổ - tức Lê
Lợi đã bắt tay ngay vào công cuộc tái thiết đất nước, vực dậy nền kinh tế và
đã đạt được những thành công nhất định. Đến đời vua Lê Thánh Tông và vua
Lê Nhân Tông vẫn tiếp tục phát triển những chính sách vực dậy nền kinh tế
Đại việt, cuộc sống của người dân được thanh bình, ấm no. Chẳng thế mà dân
gian ngày ấy truyền tụng nhau rằng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông. Thóc lúa
đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn” [8, tr.215].
Nông nghiệp, với vai trò nền tảng kinh tế của xã hội phong kiến, Nhà
nước Lê Sơ chủ trương “trọng nông”, nhất là thời Lê Thánh Tông với nhiều
biện pháp như khôi phục và mở rộng diện tích đất nông nghiệp, chăm lo đê
điều, xây dựng các công trình thuỷ lợi, bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức lao động
nông nghiệp, khai khẩn ruộng hoang vùng ven biển và đất trung du, lập đồn
điền, phát triển các nghề trồng dâu nuôi tằm… Điểm nổi bật trên lĩnh vực kinh tế
là thi hành chính sách mới về ruộng đất với chế độ lộc điền và chế độ quân điền
được Nhà nước xây dựng thành quy chế pháp lý chặt chẽ đã có tác dụng tích
cực làm phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy sức sản xuất của
xã hội, kích thích sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Mặt khác Nhà Lê còn thực hiện chính sách lộc điền và chế độ quân điền
khá tiến bộ giúp hạn chế và đi đến thủ tiêu nền kinh tế điền trang thái ấp, thúc
đẩy phát triển giai cấp địa chủ, đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình
thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam đồng thời góp phần củng cố
nền kinh tế tiểu nông, khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp. Đây là
yếu tố tương đối tiến bộ của chính sách kinh tế dưới thời Lê Sơ, góp phần giải
quyết những mâu thuẫn giữa các lợi ích trong xã hội, đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước. Nội dung chính sách lộc điền và chế độ quân điền như sau:
- Chính sách lộc điền: Đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước
ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Theo đó, người được cấp là “những
quan lại cao cấp từ thân vương đến tòng tứ phẩm và những người thân thuộc
gần gũi nhà Vua, các nữ quan thân cận trong triều” và “quan lại từ tứ phẩm
trở lên thường nắm giữ các trọng chức trong triều hay đứng đầu các khu vực
hành chính” [9, tr.20]. Chế độ lộc điền là đặc quyền của tầng lớp cao nhất
trong giai cấp thống trị, bao gồm hai phần: một phần nhỏ là Nhà nước cấp
vĩnh viễn, người được cấp có toàn quyền sở hữu gọi là ruộng đất thế nghiệp;
còn phần lớn lộc điền thuộc loại ban cấp tạm thời, người được cấp chỉ có
quyền chiếm hữu và sử dụng trong một đời, trong đó có quyền phát canh thu
tô, sau khi người được cấp lộc điền chết ba năm phải trả lại cho Nhà nước.
- Chế độ quân điền:. Đây là chế độ chia cấp định kỳ ruộng đất công của
làng xã cho các hộ nông dân cứ sáu năm một lần. Đối tượng được cấp quân
điền là “tất cả mọi người trong xã từ quan viên cho đến hạng thấp nhất của
bậc thang xã hội phong kiến như người cô quả, tàn tật, vợ con người bị tội
lưu, tội đồ đều được chia ruộng đất” [9, tr.35]. Phần ruộng đất chia cho mỗi
người nhiều hay ít phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ và phụ thuộc vào số
ruộng đất công của mỗi xã. Người được cấp quân điền phải nộp tô cho Nhà
nước với mức nhẹ hơn các loại ruộng đất khác.
Thủ công nghiệp: Đại Việt thế kỷ XV có nhiều nghề thủ công truyền
thống như dệt vải, tơ lụa, làm giấy, làm gốm, đan lát,…. khá phổ biến trong
các gia đình nông dân. Trong các làng xã ngày càng có nhiều làng thủ công
nổi tiếng như nghề gốm (Bát Tràng), nhuộm (Huê Cầu), nung vôi (Yên Thế)
… Ở thành thị, thợ thủ công được tổ chức thành từng phường chuyên môn
như Thăng Long có 36 phố phường với những cơ sở sản xuất thủ công nổi
tiếng (phường Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm, Thụy Chương dệt lụa, Hàng
Đào nhuộm điều…) Bộ phận thủ công của Nhà nước bao gồm những xưởng
thủ công chuyên đúc tiền, đóng thuyền, sản xuất vũ khí, làm đồ dùng cho các
vua quan. Các hoạt động khai thác mỏ sắt, đồng, vàng, bạc .. cũng được mở
rộng.
Thương nghiệp: cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công
nghiệp, thương nghiệp thời kỳ này cũng có những bước phát triển rực rỡ.
Các chợ địa phương phát triển, đặc biệt nhà Lê Sơ còn cho ban hành “lệ
họp chợ”, quy định việc chia chợ cũ thành các chợ mới và thống nhất các
đơn vị đo lường để tiện việc trao đổi hàng hóa trong vùng.
Ngoại thương: Thời Nhà Lê sơ, do thực hiện chính sách “bế quan tỏa
cảng” do sợ những âm mưu xâm lược từ các lực lượng thù địch, nên ngoại
thương thời kỳ này kém phát triển, hoạt động giao lưu buôn bán trên biển
diễn ra không nhiều.
Về văn hoá, tư tưởng:
Cùng với những bước phát triển về kinh tế - xã hội, nền văn hóa, tư
tưởng của nước Đại Việt thế kỷ XV cũng phát triển mạnh mẽ và giành được
nhiều thành tựu rực rỡ.
Nho giáo có vị trí quan trọng ngay từ thời Lý với việc bắt đầu thi cử Nho
học, lập Văn Miếu,... và đến thời Lê Sơ thì phát triển đến đỉnh cao. Các triều
đại phong kiến sử dụng triệt để Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính
trị có nội dung đề cao vai trò, quyền lực của vua, tuyệt đối hóa “trung quân”,
chủ trương “lễ trị”... làm vũ khí tư tưởng quan trọng nhất để thực hiện sự
thống trị giai cấp của mình.
Phật giáo và Đạo giáo: xâm nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc và cùng
tồn tại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV được gọi là hiện tượng “tam giáo đồng
nguyên”. Thời Lý - Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo
nhưng đến thế kỷ XV thì suy yếu. Sở dĩ Lê Thánh Tông hạn chế Phật giáo,
Đạo giáo vì ông cho rằng giáo lý của hai đạo này hết thảy đều “mê lừa dân”,
“che lấp nhân nghĩa”, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người rất ham,
rất tin, trong khi đạo của Thánh nhân (tức Nho giáo), lớn thì tam cương, ngũ
thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết dụng trong cuộc sống thường ngày.
Mặc dù bị hạn chế, nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn tồn tại ở mức đáng kể,
có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá tinh thần, không chỉ trong dân gian
mà cả trong một bộ phận quan lại, thậm chí cả trong đời sống cung đình.
Giáo dục Nho học do Nhà nước phong kiến quản lý bắt đầu xuất hiện từ
cuối thế kỷ XI khác hẳn nền giáo dục của nhà chùa đã tác động trực tiếp đến sinh
hoạt văn hóa, tư tưởng của nhân dân, đến sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc
và quan lại cũng như ảnh hưởng đến thế giới quan, phong cách tư duy và những
quy phạm chính trị và đạo đức của con người. Trong thế kỷ XV, giáo dục và thi
cử Nho học tiếp tục được mở rộng và không ngừng phát triển.
Văn hóa - nghệ thuật: Văn học thời kỳ này rất phong phú về thể loại với
nội dung xoay quanh những vấn đề của đạo Nho và đề cập đến đời sống hiện
thực, phản ánh tinh thần dân tộc. Các ngành nghệ thuật sân khấu ca vũ nhạc
cũng có nhiều bước tiến bộ, đã xuất hiện những loại hình ca kịch như hát ả
đào, hát chèo, hát tuồng,... Bên cạnh nền văn hóa cung đình còn tồn tại một
nền văn hóa dân gian rất đa dạng và phong phú, phục vụ đời sống tinh thần
của tầng lớp lao động. Ở các địa phương, các lễ hội truyền thống thể hiện tinh
thần thượng võ như bơi thuyền, đánh vật, đấu gậy, cướp cù... rất thịnh hành.
Các lễ hội thường xuyên gắn liền với việc nêu cao truyền thống đánh giặc giữ
nước và suy tôn các vị anh hùng dân tộc, những người đã hy sinh vì sự
nghiệp chống ngoại xâm.
Những thành tựu văn hóa rực rỡ luôn gắn liền với sự vận động và phát
triển của tư tưởng Việt Nam, nhất là tư tưởng chính trị. Thông qua hai đại
diện tiêu biểu là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, tư tưởng chính trị Việt Nam
thế kỷ XV đã tỏ ra phong phú và đạt tới một trình độ cao; nó không vượt ra
ngoài giới hạn của những vấn đề mà thực tiễn đất nước đòi hỏi và là một tấm
gương phản ánh khá rõ những nét cơ bản của sinh hoạt chính trị - xã hội trong
thời kỳ này.
2.1.2. Lê Thánh Tông lên ngôi.
Vào năm 1428, sau khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà
Minh thắng lợi,vương triều nhà Lê được thiết lập. Thời kỳ này, nhà Lê ra sức
khắc phục những hậu quả mà chiến tranh để lại đồng thời ra sức củng cố, giữ
vững ổn định chính trị, xã hội. Sau khi Lê Thái Tổ qua đời, Lê Thái Tông và
Lê Nhân Tông lần lượt kế nghiệp đều lên ngôi khi còn rất ít tuổi (10 và 2 tuổi)
nên mọi quyết sách trong triều đều nằm trong tay các đại thần và hoàng thái
hậu nhiếp chính. Tình hình chính trị - xã hội ngày càng rối ren, trong nước
liên tục đối mặt với thiên tai, nhiều nơi mất mùa, nạn đói kém xảy ra liên
miên. Tình trạng tham ô, tham nhũng, nhận hối lộ, hạch sách nhân dân ngày
càng diễn ra phổ biến, pháp luật không được thực thi nghiêm minh, nhân dân
bị nhiều oan sai, điêu đứng, tất cả những điều đó đã làm cho đất nước lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng.
Năm 1459, Lê Nghi Dân - con trưởng của vua Lê Thái Tông - tập hợp
băng đảng giết hại Lê Nhân Tông - người em cùng cha của mình và tự lập làm
vua, “tin dùng bọn gian nịnh, giết hại bề tôi cũ, pháp chế của tổ tông thay đổi
hết thảy, người oán trời giận” [10, tr.388]. Cuộc chính biến cung đình càng
làm cho những bất cập của chế độ bộc lộ sâu sắc. Triều đình nhà Lê tỏ ra lúng
túng, bất lực trước đòi hỏi của đời sống chính trị - xã hội đã có những chuyển
biến tích cực về nhiều mặt sau hơn 30 năm phát triển đất nước trong hoà bình.
Trước tình hình thực tiễn đó, năm 1460 một số quan đại thần trung thành
với nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã tiến hành một cuộc đảo
chính nổi binh giết bọn tay chân của Nghi Dân rồi “giáng Nghi Dân xuống
tước hầu” [4, tr.388]. Con thứ tư của Thái Tông là Bình Nguyên Vương Lê
Tư Thành được quần thần đưa lên làm vua tức vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông húy là Tư Thành sinh ngày 20 tháng 7 năm 1442, là con
thứ tư của vua Lê Thái Tông. Lê Thánh Tông lên ngôi khi vừa tròn mười tám
tuổi, ở ngôi được 38 năm với hai niên hiệu là Quang Thuận (1460 – 1469) và
Hồng Đức (1470 – 1497). Vua Lê Thánh Tông mất lúc 56 tuổi và là một trong
những vị vua trị vì lâu nhất trong số các vị vua nước Việt.
Lê Thánh Tông là vị vua đã góp phần quan trọng nhất trong việc củng cố
chế độ quân chủ quan liêu tập quyền trung ương. Trong thời Lê Thánh Tông,
bộ máy nhà nước quân chủ trung ương đã phát triển tới mức cao nhất của nó,
các chế độ, qui chế về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục đều được
hoàn chỉnh, làm mẫu mực cho các triều đại phong kiến sau này. Lê Thánh
Tông đã được các nhà sử gia phong kiến khen là “vua sáng lập chế độ, văn vật
khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài
lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được”
[10, tr.387].
Không chỉ là một nhà chính trị tài ba, vua Lê Thánh Tông còn được
người đời biết đến là một nhà văn hoá, nhà tư tưởng lỗi lạc. Ngoài việc hiểu
đường lối và phương pháp trị nước, ông còn am hiểu thiên văn, địa lý, lịch sử,
văn học. Một số tác phẩm của vua Lê Thánh Tông được tập hợp lại trong các
bộ Thiên nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập…
Tóm lại, với sự đức độ, tài ba của Vua Lê Thánh Tông, Đại Việt dưới thời
Ông trị vì đã có những bưới phát triển rực rỡ cả vể kinh tế - xã hội, văn hóa tư
tưỡng lẫn chính trị.
2.2.
Khái quát về chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại dưới
thời vua Lê Thánh Tông.
Đại Việt dưới thời vua Lê Thánh Tông đã đạt được những thành tựu hết
sức rực rỡ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng. Quan niệm về sự cần
thiết phải có một đội ngũ quan lại chuyên nghiệp, trung thành với triều đại
của mình thể hiện rất rất rõ trong các chiếu dụ của vua Lê Thánh Tông. Ông
đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết của mình để tạo dựng một đội ngũ quan
lại giúp việc đáp ứng được những tiêu chuẩn “hiền – tài”. Để hình thành đội
ngũ quan lại đáp ứng những yêu cầu đề ra, vua Lê Thánh Tông đã ban bố một
số các văn bản có tính chất làm cơ sở pháp lý như: Bản dụ Hiệu đính quan chế
(Hoàng triều quan chế); Lệ khỏa khóa (năm 1470); Sắc chỉ (năm 1480); Điều
lệnh (năm 1485); Chiếu chỉ (năm 1487); đặc biệt là Bộ luật hồng đức được
ban bố năm 1483, trong đó có nhiều điều khoản quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của quan lại.
Những chính sách mà vua Lê Thánh Tông ban hành nhằm tạo ra một đội
ngũ quan lại trung thành, đáp ứng tiêu chuẩn “hiền – tài” được đánh giá là rất
tiến bộ so với các chính sách ở các triều đại trước đó, trong đó phải kể đến
chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại. Hơn ai hết, vua Lê Thánh Tông hiểu
rõ và kiên trì thực hiện quan điểm: “trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn.
Người có đức, có tài nhậm chức thì trị. Người vô tài, thất đức nắm giữ quyền
hành thì loạn”. Chẳng thế mà vào tháng 12 năm 1463, sau 3 năm ở ngôi vua,
Lê Thánh Tông khi ấy mới 21 tuổi đã nói với thượng thư các bộ: “ Ta nghe
Tư Mã Quang có nói: “người quân tử là cội gốc để tiến lên trị, bình, kẻ tiểu
nhân là thềm bậc để đi đến họa, loạn”. Ta và các ngươi đã thề với trời đất
dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chăm không lơi, các
ngươi chớ có quên đấy” [10, Tr.237].
Mục đích của chính sách đào tạo, bồi dưỡng quan lại thời vua Lê Thánh
Tông là để chuẩn hóa đội ngũ quan lại về mặt tri thức, văn hóa và bằng cấp
bao gồm cả việc bổ sung bộ phận quan lại mới được đào tạo cơ bản và tri thức
hóa (Bồi dưỡng) những người đang giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước các
cấp nhưng chưa đảm bảo yêu cầu về mặt học vấn và bằng cấp. Ngoài ra, nó
cũng giúp triều đình thu hút, một đội ngũ nhân tài vào làm việc cho triều đình
thông qua con đường khoa cử.
2.3.
Nội dung chính sách đào tạo bồi dưỡng quan lại dưới thời
vua Lê Thánh Tông.
2.3.1. Đề ra tiêu chuẩn cụ thể đối với đội ngũ quan lại trong triều.
2.3.1.1. Thứ nhất, quan lại phải tuyệt đối đáp ứng tiêu chuẩn “hiền –
tài”.
Hai tiêu chuẩn “hiền” và “tài” được vua Lê Thánh Tông cụ thể hóa thành
những yêu cầu bắt buộc đỗi với người làm quan. Hiền là tiêu chuẩn về đạo
đức. Người muốn ra làm quan phải luôn học tập trau dồi về mặt đạo đức, theo
vua Lê Thánh Tông thì đạo đức của người lamd quan phải được thể hiện và
kiểm chứng trên ba phương diện:
- Một là, người làm quan phải tận trung với vua.
Không chỉ riêng vua Lê Thánh Tông mà các đời vua khác trong lịch sử
Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đều mong muốn và làm mọi cách để
xây dựng một đội ngũ quan lại tận trung với vua, tận tụy với công việc vua
giao. Là người sùng bái tư tưởng Nho giáo với thuyết “tam cương – ngũ
thường” vua Lê Thánh Tông cho rằng là bề tôi, quan lại phải tận trung với
vua, tận trung với triều đình trong mối quan hệ hàng đầu là “vua - tôi”. Vì thế,
ngay sau khi lên ngôi, nhằm “răn đe kẻ bất trung”, Lê Thánh Tông đã định tội
nặng đối với Lê Đắc Ninh vì “giữ cấm binh không biết bảo vệ xã tắc” lại giúp
kẻ phản nghịch giết vua Nhân Tông và Thái hậu; ba năm sau giết Thái uý Lê
Lăng vì tội “ngầm mưu làm phản” và đến năm 1485, Trần Phong bị kết tội
“mang lòng bất trung”, “phản quốc” [10, tr.389, 397, 498].
Trong Quốc triều hình luật đã thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo vệ và củng
cố vương quyền, chế độ quân chủ quan liêu, trật tự “đẳng cấp” phong kiến,
mọi hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn và sự “bình yên” của vua và
hoàng tộc, của thể chế đều bị trừng trị nghiêm khắc. Trong “thập ác” (mười
tội nặng phải chết) thì có 5 tội xâm phạm đến vua và hoàng tộc. Nguyên tắc
này cũng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ Bộ luật nhất là ở các chương
Vi chế, Vệ cấm.
Đối với quan lại, trung với vua không chỉ là “một lòng tôn kính thờ vua”,
không được bất kính, xâm phạm đến danh dự, quyền lợi của Triều đình, mà
còn thể hiện ở việc trung thành với đường lối trị nước của nhà vua, một lòng
một dạ dốc sức phò vua, giúp vua trị nước bằng những hành động cụ thể, thể
hiện ở sự chuyên cần, trung thực, “hết lòng trung tín, hết sức tận tâm” khi