Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI CẢM ƠN
Sau 21 tháng học tập và nghiên cứu thị trường và 3 tháng thực tập tại
Xã Chí Đám huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ, em đã trang bị cho mình khá
đầy đủ những kiến thức về mặt lý luận và thực tiễn để hoàn thành Chuyên đề
tốt nghiệp với đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn Huyện Đoan Hùng tỉnh Phú
Thọ”.
Để hoàn thành chuyên đề này trước hết cho phép em xin chân thành
cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam,
những người đã nhiệt tình chỉ bảo dạy dỗ, đã truyền thụ nhiều kiến thức, kinh
nghiệm, dìu dắt em trong thời gian học tập tại Học viện.
Em xin được chân thành cảm ơn sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ tận tình
của các đồng chí trong BTV xã Đoàn Chí Đảm, huyện Đoàn Đoan Hùng, các
cơ sở Đoàn trong xã, trong huyện đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong
việc thâm nhập thực tế cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến để em có thể hoàn
thành tốt chuyên đề của mình.
Và đặc biệt cho em gửi tới thầy giáo, Tiến Sỹ Phạm Bá Khoa – Phó
Trưởng Khoa Lý luận Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, người đã
trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này lòng biết ơn sâu sắc, lời
cảm ơn chân thành nhất.
Do thời gian có hạn và bước đầu tập nghiên cứu khoa học nên không
tránh khỏi những thiếu sót trong chuyên đề. Em rất mong sự đóng góp ý kiến,
sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thanh Trang
NguyÔn Thanh Trang – K43C
1
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
MỤC LỤC
Trang
NỘI DUNG
LỜI CẢM ƠN
1
MỞ ĐẦU
4
PHẦN NỘI DUNG
8
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác tổ chức cán
8
bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung và cơ sở Đoàn nói
riêng
1.1. Cơ sở lý luận về công tác Đoàn thanh niên và cán bộ Đoàn
8
làm công tác Đoàn – Hội - Đội
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức
16
Đoàn cơ sở
1.3. Những đặc trưng, tiêu chuẩn của người cán bộ Đoàn TNCS
19
Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng về công tác tổ chức cán bộ làm công
21
tác thanh niên trên địa bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú
Thọ
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế chính trị của Huyện Đoan Hùng –
21
tỉnh Phú Thọ
2.2. Thực trạng phong trào thanh thiếu niên và công tác bộ máy
24
đội ngũ cán bộ làm công tác Đoàn – Hội - Đội trên địa bàn huyện
Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ
2.3. Thực trạng về công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
29
làm công tác Đoàn – Hội - Đội trên địa bàn Huyện Đoan Hùng –
Tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Những kiến nghị và một số giải pháp nhằm đổi
mới công tác tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Đoàn cơ sở trên địa bàn Huyện Đoan Hùng –Tỉnh Phú Thọ
NguyÔn Thanh Trang – K43C
2
38
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
3.1. Những kiến nghị đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền và
38
các cấp bộ Đoàn
3.2. Một số giải pháp nhằm đổi mới công tác tổ chức và nâng cao
41
chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trên địa bàn Huyện Đoan
Hùng – Tỉnh Phú Thọ
KẾT LUẬN
46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
48
NguyÔn Thanh Trang – K43C
3
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của công tác vận động nhân dân, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác vận động thanh niên, coi thanh
niên là lực lượng “Giường cột của nước nhà” và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
là đội dự bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích cách mạng, là trường học
XHCN của thanh niên. Và cho tới ngày nay, trong công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, thanh niên và công tác thanh niên không có vị trí,
vai trò quan trọng đối với sự phát triển đi lên của cả dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng khoá VII
đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam
có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực
lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006)tiếp tục khẳng định: “Đối với
thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết
việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bác Hồ nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của phong trào, phong trào
mạnh hay yếu phụ thuộc vào cán bộ tốt hay kém”.
Như vậy, chúng ta thấy rằng việc: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vị trí
rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cán bộ Đoàn, phong trào Đoàn
hay trong việc nâng cao chất lượng đoàn viên.
Trước sự nghiệp đổi mới đất nước chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, đòi hỏi tổ chức Đoàn nói chung và công tác cán bộ nói
riêng phải có những đổi mới về phương hướng hoạt động. Phải có những tiêu
NguyÔn Thanh Trang – K43C
4
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
chí, tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, kỹ
năng công tác của đội ngũ cán bộ Đoàn nhằm đáp ứng những yêu cầu hoạt
động mới của thanh niên trong cơ chế thị trường.
Ngoài việc chịu sự tác động chung như trên, đội ngũ cán bộ Đoàn còn
chịu một “sức ép” lớn khác, đó là sự luân chuyển thường xuyên và rất nhanh
chóng. Trong khi các cấp bộ Đoàn còn chưa chủ động được việc quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ thay thế, dẫn đến cán bộ Đoàn còn bất cập
về trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và chỉ đạo kỹ năng nghiệp vụ về công
tác thanh vận dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao.
Sự ra đời của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức mới đang đặt ra cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng quy hoạch và sử dụng cán bộ đoàn cơ sở về bằng cấp
và chuyên môn nghiệp vụ nhằm tiêu chuẩn hoá cán bộ hiện nay.
Nghiên cứu về quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn cấp huyện và
cơ sở không phải là lĩnh vực mới hoàn toàn mà là vấn đề đã được nhiều tổ
chức trong và ngoài Đoàn nghiên cứu. Và trên địa bàn Huyện Đoan Hùng Tỉnh Phú Thọ thì vấn đề này còn gặp nhiều bất cập hay nói cách khác còn rất
yếu kém và chưa được nghiên cứu triệt để.
Với tất cả lý do trên được soi sáng bởi quan điểm đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam: “Giáo dục - Đào tạo là quốc sách hàng đầu” “Cán bộ
là tiền vốn của cách mạng” (Hồ Chí Minh) em đã lựa chọn nghiên cứu
chuyên đề “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trên địa bàn Huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, công tác tổ chức trên
địa bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, nhằm đổi mới
công tác tổ chức, nâng cao chất lượng công tác đoàn đạt hiệu quả, chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
5
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tổng quan cơ sở lý luận bao gồm quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên
và công tác thanh niên.
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ Đoàn
cơ sở.
Xác định phương hướng, mục tiêu và những giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện nay và đề xuất những phương án,
nội dung làm rõ một số vấn đề liên quan đến việc nâng cao chất lượng, đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
3. Khách thế, đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu.
- Công tác tổ chức và cán bộ cơ sở của Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú
Thọ.
- Công tác Đoàn – Hội - Đội của phong trào thanh, thiếu nhi trên địa
bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền
Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
- Nhân dân địa phương
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
- Thực trạng công tác tổ chức và công tác cán bộ Đoàn cơ sở trên địa
bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
- Những giải pháp nhằm đổi mới công tác tổ chức và nâng cao công tác
cán bộ đoàn cơ sở trên địa bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
4. Phạm vi nghiên cứu.
4.1. Không gian nghiên cứu.
Trên địa bàn Huyện Đoan Hùng – Tỉnh Phú Thọ.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
6
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
4.2. Thời gian nghiên cứu.
Từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu dựa trên phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích, đánh giá thực
trạng nghiên cứu vấn đề.
- Nghiên cứu các quan điểm của Đảng, đường lối chủ trương và chính
sách liên quan đến công tác cán bộ Đoàn – Hội - Đội.
- Tiến hành toạ đàm, phỏng vấn đến các đối tượng có liên quan, tìm ra
thực trạng về công tác tổ chức và công tác tổ chức cán bộ Đoàn cơ sở. Qua
đó, biết được mới quan tâm cũng như tâm tư nguyện vọng của cấp cơ sở.
- Cùng sinh hoạt, tham gia hoạt động trực tiếp với cán bộ Đoàn cơ sở,
chi đoàn cơ sở để thấy được ưu, khuyết điểm mang tính thực tiễn.
- Phân tích tổng hợp mang tính thực tiễn.
6. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác tổ chức cán bộ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung và cơ sở Đoàn nói riêng.
- Chương 2: Thực trạng về công tác tổ chức cán bộ làm công tác thanh
thiếu niên trên địa bàn huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ.
- Chương 3: Những kiến nghị và một số giải pháp nhằm đổi mới công
tác tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trên địa bàn
Huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
7
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ
ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH NÓI CHUNG VÀ CƠ SỞ ĐOÀN NÓI RIÊNG.
1.1. Cơ sở lý luận về công tác thanh niên và cán bộ làm công tác
Đoàn - Hội - Đội.
1.1.1. Hệ thống các khái niệm
a. Cán bộ: Theo từ điển tiếng Việt thì cán bộ là người làm công tác có
nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước. Chẳng hạn cán bộ Nhà nước,
cán bộ chính trị. Khái niệm cán bộ còn được dùng để phân biệt người làm
công tác có chức vụ trong một cơ quan, đoàn thể, một tổ chức chính trị – xã
hội và những người khác không có chức vụ. Ví dụ: trong lực lượng vũ trang
có cán bộ và chiến sĩ, trong tổ chức Đoàn có cán bộ đoàn và đoàn viên...
b. Cán bộ công tác quần chúng: Được hiểu là cán bộ hoạt động chính
trị – xã hội trong tầng lớp quần chúng nhân dân cụ thể: Đó là cán bộ mặt trận
tổ quốc, cán bộ công đoàn, cán bộ phụ nữ, cán bộ Đoàn thanh niên, các hội
quần chúng. Làm công tác quần chúng không chỉ dừng lại ở vận động, thuyết
phục, giáo dục một chiều mà thể hiện vai trò chủ thể, chủ động, tích cực của
quần chúng trong việc giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến lợi ích,
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của mình.
c. Cán bộ Đoàn:
Là cán bộ chính trị – xã hội, hoạt động trong quần chúng trẻ tuổi, được
Đảng tập hợp, tổ chức, giáo dục thanh thiếu nhi.
Là những thanh niên ưu tú, có giác ngộ chính trị, hiểu biết thanh niên
và thành thạo trong việc tổ chức hoạt động thanh thiếu niên, có uy tín, có sức
thu hút quần chúng trẻ tuổi, biết nói, biết việc và biết tổ chức, chỉ đạo các hoạt
động thanh, thiếu niên.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
8
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
d. Tổ chức Đoàn cơ sở:
Là tổ chức được thành lập theo địa bàn dân cư, theo ngành nghề, theo
đơn vị học tập, công tác, lao động, nơi cư trú và đơn vị cơ sở trong lực lượng
vũ trang nhân dân.
e. Khái niệm đào tạo:
Trong các chuyên khảo khoa học và trong thực tiễn sự nghiệp giáo dục
đào tạo, thuật ngữ “đào tạo” được sử dụng để chỉ quá trình dạy học cho một
loại đối tượng cụ thể nào đó nhằm đạt tới một trình độ học vấn nhất định, một
trình độ chuyên môn nhất định.
f. Khái niệm bồi dưỡng, tập huấn:
Thuật ngữ “bồi dưỡng” thường được sử dụng để chỉ quá trình hoàn
thiện, bổ sung về kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị của bộ máy nhà nước, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội.
Thuật ngữ “tập huấn” thường được dùng để chỉ quá trình rèn luyện kỹ
năng, thực hành tay nghề hoặc để triển khai một chủ trương công tác nào đó
theo chuyên đề, triển khai được một công việc cụ thể nào đó.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác thanh niên
và cán bộ làm công tác thanh niên.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên
được tất cả các quốc gia, các thời đại coi là một vấn đề có tầm quan trọng đặc
biệt. Trong kho tàng tri thức của loài người đã lưu giữ lại những tư tưởng,
quan điểm, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà sư phạm, các
danh nhân văn hoá về thanh niên.
Trong kho tàng tri thức đó, học thuyết Mác – Lênin với bản chất cách
mạng đã có những quan điểm lý luận mẫu mực về nhiều vấn đề của thanh
niên.
Một trong những phát hiện vĩ đại nhất của Các Mác – Lênin là học
thuyết về sứ mệnh lịch của giai cấp công nhân, một giai cấp đại biểu cho lực
NguyÔn Thanh Trang – K43C
9
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
lượng sản xuất tiên tiến và luôn luôn phát triển cùng với cuộc cách mạng khoa
học – kỹ thuật. Theo Mác: giai cấp vô sản chỉ được hình thành với tư cách
một giai cấp khi nó ý thức được địa vị và tương lai của nó: “...Những công
nhân tiên tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân
và do đó tương lai của các loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục
thế hệ công nhân trẻ đang lớn lên”.
Trong bối cảnh của xã hội tư bản đương thời (cuối thế kỷ XIX), Mác
cho rằng: “Cần phải giải thoát cho thanh thiếu niên, coi sự tác động có tính
chất phá hoại của hệ thống hiện đại”.
Chính Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc và giai
cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc.
Ăng – Ghen đã đề xướng tư tưởng: thanh niên không thể đứng ngoài
chính trị, chính hiện thực của cuộc sống đã đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào
đời sống chính trị. Ngay khi 19, 20 tuổi trong thư gửi bạn bè Ăng Ghen đã
chế nhạo cái nguyện vọng của những chàng trai, cô gái muốn sống bình lặng,
muốn giam mình với thái độ “mũ ni che tai”, bàng quang trước thời cuộc.
Với lòng hứng khởi với niềm tin vô hạn vào tiềm năng của thế hệ trẻ ở Đức,
ông nhấn mạnh rằng: Thanh niên không bao giờ thoả mãn với lý tưởng trước
đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khát khao được lập chiến
công và vì sự đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình.
Mác và Ăng Ghen luôn gắn thanh niên luôn gắn thanh niên với giai cấp
công nhân và đội tiên phong chiến đấu của nó là Đảng Cộng sản. Ăng – Ghen
là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: “Đội quân xung kích quyết định
của đạo quân vô sản quốc tế”, “đội quân dự bị của Đảng” để nói về thanh
niên. Vào năm 1853 tuy: “Đảng của Mác” đã khẳng định vị trí của mình trên
vũ đài lịch sử trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại những đạo luật đặc
biệt của Bit – Xmắc, Ăng Ghen đã viết: “Chính thế hệ trẻ sẽ là nguồn bổ
sung dồi dào nhất cho Đảng”.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
10
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Phát triển những sáng tạo những luận điểm của Mác - Ăngghen trong
điều kiện lịch sử mới, V.I Lênin đã coi thanh niên là: “Nguồn sinh lực chiến
đấu của cách mạng”. Ông đã luận giải những nguyên nhân xuất hiện phong
trào thanh niên, phát hiện ra những đặc điểm của nó xác định mối quan hệ, sự
tác động qua lại giữa các tổ chức thanh niên với các Đảng cộng sản . Đánh giá
rất cao tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ, Lênin không nghi ngờ về khả năng
hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ của cách mạng và các thế hệ trước chưa
kịp hoàn thành. Ngay cuối thế kỷ XIX Người đã viết: “người ta quan sát thấy
trong thanh niên, công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm
được tới lý tưởng của dân chủ và chủ nghĩa xã hội (CNXH)” và: “Thanh niên
sớm muộn sẽ đến với CNXH... hưng bằng những cách thức, con đường khác
với cha anh họ”.
Lênin sớm nhìn thấy vai trò cách mạng to lớn của học sinh, sinh viên.
Ông thường khuyên những người bạn chiến đấu của mình rằng phải kiên trì
đấu tranh để hợp nhất phong trào công nhân với phong trào học sinh, sinh
viên thành trào lưu chung theo tinh thần của chủ nghĩa Mác, Ông cho rằng:
Thành công của phong trào thanh niên chính là ở chỗ biết gắn liền nhận thức
khoa học với sự tham gia trực tiếp của giai cấp vô sản.
Học thuyết Mác – Lênin là một khoa học đúng đắn và sáng tạo có tính
chất soi đường cho nhân loại trong quá trình đấu tranh, xây dựng và phát triển
xã hội loài người để tiến tới một xã hội văn minh, tốt đẹp. Với bản chất cách
mạng và khoa học của nó, học thuyết Mác – Lênin đã có những quan điểm hết
sức đúng đắn về thanh niên và công tác tổ chức cán bộ. Thậm chí nó còn có
giá trị dự báo nhiều vấn đề trong tương lai.
Lênin đã coi trọng thanh niên trong phong trào cộng sản. Ngay từ cuối
thế kỷ XIX, trước khi có những hoạt động mạnh mẽ mang tính giai cấp của
giai cấp vô sản Nga. Lênin đã chỉ rõ: “Trong thanh niên bộc lộ rõ nguyện
vọng tha thiết không thể kìm lại được. Nguyện vọng vươn tới dân chủ và chủ
nghĩa xã hội”. Trong bức thư gửi Gu Xép, Lênin đã viết “Tôi đảm bảo với
NguyÔn Thanh Trang – K43C
11
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
đồng chí rằng, trong chúng ta có một sự e ngại đối với thanh niên, một sự e
ngại ngu ngốc, tầm thường và lệch lạc. Tôi đề nghị phải tập trung sức đấu
tranh chống lại sự e ngại đó”. Và người nhấn mạnh vai trò cán bộ “phải
nhanh chóng đề bạt những người giúp việc trẻ tuổi vào các chức vụ cao hơn
và các đồng chí hãy tin tưởng rằng, nhìn chung và nhìn toàn bộ, công việc sẽ
có lợi rất nhiều khi đảm nhiệm công việc nặng nề hơn”.
1.1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục
thanh niên và vai trò của người cán bộ làm công tác thanh niên.
Kế thừa những di sản tư tưởng quý báu của C.Mác, Ăng – ghen, V.I
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một cách sáng tạo các luận điểm
Mác xít về vai trò, vị trí của thanh niên xã hội về nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ
về Đoàn thanh niên Cộng sản trong những điều kiện lịch sử cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Người khẳng định lý tưởng của thanh niên Việt Nam là phải
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội rằng: Hồi sinh dân tộc trước hết
cần phải hồi sinh thanh niên.
Như vậy, vai trò của thanh niên là rất hết sức to lớn đối với vận mệnh
của dân tộc, Hồ Chí Minh đã luận giải một cách giản dị nhưng đầy thuyết
phục: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”, “nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên, thanh niên muốn làm
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình phải làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai tươi sáng đó”.
Bởi vậy “phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
thanh niên”. Tổ chức Đoàn phải tổ chức được nhiều phong trào hành động
cách mạng nhằm thu hút thanh niên tham gia để từ đó giáo dục lý tưởng cho
họ. Điều này có thực hiện được hay không phần lớn phụ thuộc vào công tác
tổ chức cán bộ. Vì: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”. “Muốn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm rất nhiều đến công tác lựa chọn cán
bộ, Người coi đây là vấn đề hết sức quan trọng phải được chú trọng làm
NguyÔn Thanh Trang – K43C
12
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
thường xuyên, phải thông qua quần chúng, thông qua hành động cách mạng
để lựa chọn cán bộ, cán bộ được lựa chọn phải thông qua thử thách. Việc làm
đó phải thực sự khách quan vì công việc và lợi ích chung mà lựa chọn, đồng
thời việc định ra những tiêu chuẩn phải xuất phát từ những yêu cầu của quần
chúng và những yêu cầu của công việc. Tuy vậy, cũng nên có những tiêu
chuẩn cơ bản nhất, dễ dàng được chấp nhận trong mọi hoàn cảnh. Người đã
đưa ra bốn tiêu chuẩn để lựa chọn và đào tạo cán bộ mà cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị.
Thứ nhất: “Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong
công việc, trong lúc đấu tranh tức là những người có lập trường tư tưởng
vững vàng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, không dao động trước
mọi thử thách, khó khăn, là những người tích cực, hăng hái, nhiệt tình, luôn
cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao”.
Thứ hai: “Những người liên hệ mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân
chúng, luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng như thế thì dân chúng mới tin
cậy cán bộ đó là người lãnh đạo của họ”.
Thứ ba: “Những người có thể giải quyết tốt mọi vấn đề trong những
hoàn cảnh khó khăn”.
Thứ tư: “Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.
Những tiêu chuẩn mà Hồ Chí Minh đã nêu ra ở trên chính là những tiêu
chuẩn mà người cán bộ đoàn cần hướng tới để phấn đấu và rèn luyện. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề lựa chọn cán bộ hiện nay, Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh rất chú trọng thông qua phong trào thanh niên tìm chọn
ra những cán bộ thực sự tâm huyết với công việc, nhiệt tình, hăng hái đi đầu
trong các hoạt động. Những người trong công việc biết xuất phát từ lợi ích
của quần chúng, biết kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích, biết làm giàu một cách
chính đáng cho bản thân, cho xã hội, giúp quần chúng thanh niên tiến bộ,
trưởng thành để lập thân, lập nghiệp.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
13
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Đối với cán bộ làm công tác thanh niên người còn nhắc nhở “Cán bộ
lãnh đạo cần phải tránh quan liêu, chống lãnh đạo chung chung, cần phải đi
sâu, đi sát điều tra nghiên cứu, cần phải khuyến khích quyên góp bổ sung và
phổ biến rộng rãi những ý kiến hay, những kinh nghiệm tốt của quần chúng,
cần phải lãnh đạo toàn diện, cụ thể. Cần phải đi sâu đi sát với đời sống của
thanh niên, hiểu rõ tâm lý thanh niên và giúp họ giải quyết mọi vấn đề một
cách thiết thực nhất”.
1.1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và cán
bộ làm công tác thanh niên.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn coi trọng công tác
cán bộ là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ
sự nghiệp cách mạng. Vai trò, vị trí công tác cán bộ là một bộ phận quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, là
khâu then chốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng.
Căn cứ vào bối cảnh trong nước và quốc tế cũng như yêu cầu nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ mới đặc biệt xuất phát từ thực trạng đội
ngũ và công tác cán bộ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3
khoá VIII đã vạch ra Chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nước và nhiệm vụ nhu cầu hết sức cấp bách trong giai
đoạn hiện nay. Đảng đã chỉ ra một số điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán
bộ trong chiến lược cán bộ.
Một là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị
của Đảng, từ yêu cầu của nhiệm vụ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh” vững bước đi lên CNXH.
Hai là: phải quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng để phát
huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc trong xây dựng đội ngũ cán
bộ. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân là vấn đề thuộc bản
chất giai cấp một Đảng kiểu mới phải được quán triệt trong công tác xây dựng
NguyÔn Thanh Trang – K43C
14
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Đảng mà trước hết là công tác cán bộ. Đảng phải kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng đồng thời phải thường xuyên
quan tâm trẻ hoá đội ngũ cán bộ và tập hợp được những trí thức giỏi có tâm
đức, bổ sung họ vào đội ngũ cán bộ của Đảng.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với việc xây dựng tổ chức đổi
mới cơ chế chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức với
những phương thức, lề lối làm việc có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại
lẫn nhau.
Bốn là: Thông qua những hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng
quần chúng để nâng cao dân trí tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng
cán bộ: “Cán bộ và phong trào cách mạng của quần chúng có mối liên hệ
mật thiết với nhau”. Phong trào cách mạng của quần chúng sản sinh ra những
cán bộ tốt, là môi trường để rèn luyện, thử thách và sàng lọc cán bộ. Mặt
khác cán bộ là người tuyên truyền và tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng,
có vai trò tác động tích cực trở lại phong trào quần chúng. Đặc biệt là cán bộ
đoàn, những người làm công tác thanh vận, cần phải thông qua phong trào
cách mạng của đoàn viên thanh niên mà thử thách, rèn luyện lựa chọn cán bộ.
Năm là: Công tác lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc
tập trung dân chủ để phát huy năng lực, trách nhiệm của cán bộ. Tất cả các
quyết định của công tác cán bộ nhất thiết phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết
định theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của
cơ quan tham mưu. Đảng đề ra quan điểm, đường lối chính sách cán bộ, cụ
thể hoá thành quy hoạch, kế hoạch, quy chế, quy trình đào tạo, bồi dưỡng
đánh giá, đề bạt, sử dụng cán bộ, lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra các cấp, các
ngành thực hiện, quyết định phân công, phân cấp, quản lý cán bộ.
Theo quan điểm của Đảng, người cán bộ Đoàn trong thời kỳ đổi mới
có những tiêu chuẩn sau:
NguyÔn Thanh Trang – K43C
15
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phấn đấu thực hiện có hiệu quả mọi
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có ý thức kỷ luật, trung thực,
không cơ hội, gắn bó mật thiết với đoàn viên, thanh niên và được đoàn viên,
thanh niên tín nhiệm. Có trình độ kiến thức về lý luận chính trị, nắm vững
những quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có
trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu
quả, nhằm đáp ứng mọi yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
1.2.Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạnh của tổ chức
đoàn cơ sở.
1.2.1. Khái niệm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và vị trí, vai trò của tổ
chức Đoàn cơ sở.
a. Khái niệm:
Điều lệ hiện hành của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục
tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
b. Vị trí:
Là một thành viên trong hệ thống chính trị, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của
Đảng và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đoàn thanh niên đặt dưới sự lãnh đạo, định hướng chính trị của Đảng,
tổ chức các hoạt động nằm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà
NguyÔn Thanh Trang – K43C
16
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
nước, bình đẳng trước pháp luật và trước xã hội với các thành viên khác của
hệ thống chính trị. Đoàn có hai tính chất cơ bản đó là tính tiên tiến và tính
quần chúng.
c.Vai trò:
Tổ chức Đoàn có vai trò vô cùng quan trọng:
- Đối với Đảng: Đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là
đội dự bị tin cậy của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ
chính trị của Đảng.
- Đối với Nhà nước: Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội
chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi.
- Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào thanh niên:
Đoàn giữ vai trò làm nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt
động của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các
thành viên khác của hội.
- Đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh: Đoàn giữ vai trò là
người phụ trách Đội và có trách nhiệm xây dựng tổ chức đội, lựa chọn, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, tạo điều kiện về cơ sở vật chất
và tài chính cho hoạt động đội.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn.
a.Chức năng.
Một là: Là đội dự bị tin cậy của Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh là đội ngũ, là tổ chức của những người thanh niên cộng sản trẻ tuổi
luôn trung thành và là lực lượng kế thừa sự nghiệp của Đảng. Đoàn là nguồn
cung cấp sinh lực cho Đảng, nhà nước và các tổ chức quần chúng khác. Là tổ
chức được Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ: là người trực tiếp giúp đỡ hướng
dẫn và phụ trách thiếu niên, nhi đồng. Đoàn Thanh niên được coi là tổ chức
quần chúng gần Đảng nhất. Đoàn tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
17
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Hai là: Là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên. Tổ chức Đoàn
là cái nôi để qua đó tuổi trẻ được kiểm nghiệm, hiểu biết, cống hiến khả năng,
năng lực của mình vào những công việc chung. Là môi trường học tập, môi
trường văn hóa có tính tập thể cao để giao lưu, học hỏi và trưởng thành.
Ba là: Là người đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của
tuổi trẻ.
b. Nhiệm vụ:
- Đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn viên,
thanh thiếu nhi.
- Tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục rèn luyện đoàn viên,
thanh thiếu nhi nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hoá - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương, đơn vị.
- Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế, xã hội
làm tốt công tác thanh niên, chăm lo xây dựng Đoàn, tích cực xây dựng cơ sở
Đoàn, Hội, Đội ở địa bàn dân cư, tham gia xây dựng bảo vệ Đảng và chính
quyền.
1.2.3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động của tổ chức Đoàn và quyền hạn
của tổ chức Đoàn cơ sở.
a. Nguyên tắc tổ chức hoạt động:
Tổ chức Đoàn hoạt động theo nguyên tắc:
- Tự nguyện, tự quản.
- Hiệp thương dân chủ.
- Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau.
- Hợp tác bình đẳng, phối hợp và thống nhất hành động.
b. Quyền hành và tổ chức Đoàn cơ sở:
- Kết nạp đoàn viên mới, quản lý đoàn viên, tiếp nhận, chuyển sinh
hoạt Đoàn, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, bồi dưỡng kết nạp, giới thiệu
cán bộ đoàn viên vào quy hoạch đào tạo sử dụng cán bộ của Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể và tổ chức kinh tế, xã hội.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
18
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Tổ chức các hoạt động, các phong trào nhằm đoàn kết, tập hợp thanh
niên đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tuổi trẻ, liên kết, phối
hợp với các ngành, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội tạo sức mạnh
đồng bộ trong công tác thanh niên.
- Tổ chức các hoạt động, tạo thêm việc làm và thu nhập cho cán bộ
đoàn viên, thanh niên, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động của Đoàn được sử
dụng con dấu hợp pháp.
1.3. Những đặc trưng, tiêu chuẩn của người cán bộ Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh.
1.3.1. Những đặc trưng cơ bản.
Về những đặc trưng của đội ngũ cán bộ Đoàn, chúng ta có thể hiểu: đặc
trưng là những nét riêng về phẩm chất và năng lực của người cán bộ Đoàn,
đảm bảo tiến hành những hoạt động nghiệp vụ được thuận lợi, là những đặc
điểm cần thiết để phân biệt giữa cán bộ Đoàn với cán bộ của các tổ chức
khác.Những đặc trưng của cán bộ Đoàn là:
1. Tự nguyện, nhiệt tình và ham thích hoạt động thanh thiếu niên.
2. Gần gũi, hoà nhập, nắm vững những đặc điểm tâm lý của thanh thiếu
niên.
3. Nhạy cảm ủng hộ cái mới.
4. Có quan hệ rộng, biết tham mưu với cấp uỷ chính quyền, phối hợp
với các ban ngành đoàn thể khác.
5. Được giới trẻ tín nhiệm, suy tôn thủ lĩnh.
6.Có năng khiếu văn hoá, văn nghệ, thể thao.
7. Có dũng khí bảo vệ lẽ phải, hướng mạnh tới dân chủ bình đẳng xã
hội, công bằng xã hội và nhân đạo chân chính.
8. Có khả năng đoàn kết, thuyết phục, tập hợp, giáo dục và tổ chức các
hoạt động thanh thiếu niên.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
19
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
9. Có nghề chuyên môn.
10. Có trình độ học vấn phù hợp với trình độ chung của thanh thiếu
niên.
11. Phong cách sống, làm việc năng động, trung thực, nhân ái.
1.3.2. Tiêu chuẩn của người cán bộ Đoàn.
Tiêu chuẩn là những chỉ số chuẩn mực, làm thước đo đánh giá sự vật,
phản ánh chất lượng cần đạt tới của sự vật, vậy thì ta thấy rằng một người cán
bộ Đoàn cần có những tiêu chuẩn sau:
a. Có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với đường lối của
Đảng, có thái độ và việc làm tích cực đối với công cuộc của đất nước.
b. Có năng lực công tác xã hội và có khả năng vận động thanh thiếu
niên.
c. Có khả năng tiếp thu cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, của Đoàn
cấp trên và tổ chức thực hiện tốt các công việc của Đoàn trong lĩnh vực công
tác mình phụ trách.
d. Nhiệt tình, có trách nhiệm đối với công tác thanh thiếu niên, được
đoàn viên, thanh niên trong địa phương, đơn vị tín nhiệm.
e. Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, sống trung thực,
lành mạnh.
Như vậy, về mặt khách quan, giới trẻ đang cần đến một đội ngũ cán bộ
Đoàn có phẩm chất và năng lực rất cụ thể để hướng dẫn, giúp đỡ họ vững
vàng bước vào cuộc sống. Tuy nhiên đó cũng là những đòi hỏi rất cao, rất lý
tưởng và không dễ gì một con người cụ thể có thể hội tụ những đặc trưng nêu
trên, song đó lại là căn cứ khách quan khoa học để các cấp bộ Đoàn xác định
tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại cán bộ Đoàn để lựa chọn đào tạo bồi dưỡng
một đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
20
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC
THANH THIẾU NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐOAN HÙNG
TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế chính trị của Huyện Đoan Hùng –
Tỉnh Phú Thọ.
2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên.
Đoan Hùng là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ. Là vùng đất được
thiên nhiên ưu đãi – có núi, rừng, đồng ruộng với những vùng chè bát ngát,
những khu vườn trĩu quả. Bưởi Đoan Hùng thơm ngon nổi tiếng – là đặc sản
được nhiều nơi ưa chuộng. Dòng sông Lô, sông Chảy như hai dải lụa uốn
lượn ôm ấp lấy Đoan Hùng, cần mẫn bồi đắp phù sa cho đôi bờ, tạo nên
những cánh đồng lúa, ngô xanh tốt. Cũng chính trên dòng sông Lô lịch sử
năm xưa đã từng nhấn chìm tàu chiến giặc, ghi đậm dấu ấn trong lịch sử dân
tộc.
Với lợi thế của một vùng đất còn nhiều tiềm năng chưa khai phá, nên
đã thu hút cư dân của nhiều địa phương về tụ hội. Đến nay có 14 dân tộc anh
em cùng chung sống trên đất Đoan Hùng.
Nằm ở phía Bắc tỉnh Phú Thọ, Đoan Hùng như chiếc cầu nối giữa
vùng núi các tỉnh phía Bắc với các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc
giáp với Tuyên Quang và Yên Bái; phía Đông giáp với Tuyên Quang; phía
Tây giáp với Thanh Ba và Hạ Hoà; phía Nam giáp với Phong Châu. Đoan
Hùng có địa hình thuộc vùng núi thấp, đồi cao. Đồi núi ở đây cũng giống như
địa hình các huyện xung quanh, sắp xếp không theo từng dãy mà phát triển tự
nhiên theo hình bát úp, phần lớn cao trên dưới 100m. Xen giữa các đồi núi ấy
là những thung lũng hẹp. Toàn huyện chỉ có một số núi cao đến 300m như núi
Đẫu, núi Sất, núi Nghè. Diện tích tự nhiên toàn huyện trên 30 nghìn ha. Trong
đó đất nông nghiệp: 12.754ha; đất lâm nghiệp: 9.321h, đất chuyên dùng:
NguyÔn Thanh Trang – K43C
21
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
1.969 ha; đất ở 300ha; đất chưa sử dụng còn 5.985ha. Nơi đây là địa bàn sinh
tụ của nhiều dân tộc nhưng đông nhất là dân tộc Kinh, Cao Lan, còn lại là dân
tộc Mường, Thái, Tày, Nùng, Hoa v.v...
2.1.2. Tình hình kinh tế – chính trị – văn hoá - xã hội.
Đoan Hùng thuộc vùng miền núi phía Bắc nhưng đất đai rất màu mỡ,
lao động dồi dào, nhân dân cần cù và có nhiều kinh nghiệm thâm canh trong
nông nghiệp, các ngành nghề sản xuất của nhân dân cũng rất phong phú.
Ngoài làm ruộng, kinh tế đồi rừng là nghề sản xuất chính, từ lâu đời Đoan
Hùng có nhiều nghề thủ công truyền thống như: nghề gốm, dệt vải, nuôi tằm,
trồng bông v.v... Nghề làm nón nổi tiếng ở xã Quế Lâm, nghề mành cọ ở thị
trấn Thọ Sơn, Tiêu Sơn, Chân Mộng và nghề chài lưới ở xã Hữu Đô.
Ở Đoan Hùng, ngoài những nông sản chính như: lúa ngô, khoai, sắn...
còn là nơi tập trung nhiều đặc sản quý, nổi tiếng ở Đoan Hùng là bưởi, ngon
nhất là bưởi Chí Đám, ngoài ra còn có chè, cọ, trám, mít, dứa, cam, quýt, vải,
nhãn, mơ... Đặc biệt từ khi giao đất, giao rừng cho từng hộ nông dân quản lý
thì kinh tế đồi rừng ở Đoan Hùng ngày càng phát triển.
Đoan Hùng nằm trên các trục đường giao thông thủy bộ quan trọng, nối
thủ đô Hà Nội với các tỉnh biên giới phía Bắc. Đó là quốc lộ số 2 – Hà Nội đi
Tuyên Quang, Hà Giang qua Đoan Hùng; Hà Nội đi Yên Bái, Lào Cai. Hai
dòng sông Lô, sông Chảy qua đất Đoan Hùng tạo thành 2 tuyến đường thủy
có thể giao lưu với Vĩnh Phúc, Hà Nội, Tuyên Quang và Yên Bái. Đoan Hùng
còn rất nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã. Tất cả các hệ thống đường xá,
sông ngòi của huyện tạo thành điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển sản
xuất, giao lưu kinh tế và có vị trí quan trọng về mặt quân sự.
Cũng như nhân dân cả nước, nhân dân Đoan Hùng vốn có truyền thống
cần cù, thông minh và sáng tạo trong lao động sản xuất, cải tạo thiên nhiên,
chống trọi với hạn hán, lũ lụt và dịch hạch, không chỉ bền bỉ đấu tranh chống
trọi với thiên nhiên để bảo tồn sự sống, nhân dân Đoan Hùng còn tạo nên
những công trình văn hoá có ý nghĩa lịch sử và giá trị nghệ thuật: Đình Cả,
NguyÔn Thanh Trang – K43C
22
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Chí Đám thờ: “Cao Sơn Đại Vương”, vị anh hùng dân tộc có công giúp Vua
Hùng Vương thứ 18 chống lại sự xâm lược của kẻ thù đã được nhà nước công
nhận là di tích lịch sử, tượng đài chiến thắng sông Lô một công trình văn hoá
mới được xây dựng tương xứng với ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của chiến công
chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoài ra, ở hầu hết các làng xã trong huyện
đều có đình, chùa, miếu mạo mà sự tích đều gắn với những vị anh hùng có
công đánh giặc cứu nước, hoặc có công xây dựng quê hương.
Về văn hoá xã hội có bước phát triển khá, đã hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học năm 2002, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi
năm 2005, đẩy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá phát triển sâu rộng và đạt kết quả cao,
đến nay toàn huyện có 71,5% số hộ đạt gia đình văn hoá, 55 đơn vị đạt chuẩn
văn hoá và 81% khu dân cư tiên tiến.
Nhiều mặt về xã hội có tiến bộ. Một số vấn đề bức xúc của xã hội được
quan tâm giải quyết, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và
giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Đoan Hùng không
ngừng được cải thiện.
Bên cạnh những mặt đã đạt được thực trạng của Đoan Hùng còn mắc
phải những yếu kém, tồn tại cần phải tập trung khắc phục đó là: do tác động
mặt trái của cơ chế thị trường và nạn thất nghiệp do không có việc làm đã làm
tác động đến lối sống, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của một bộ phận người dân
mà phần lớn là thanh niên. Rất nhiều thanh niên bị lôi kéo vào các tệ nạn xã
hội làm cho công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên gặp nhiều khó khăn nhất là
trong giai đoạn đất nước đang chuyển sang thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Một
số vụ việc phức tạp nảy sinh chậm được giải quyết dứt điểm gây khiếu kiện
kéo dài, vượt cấp, có vụ việc lôi cuốn nhiều người tham gia. Chính vì vậy
công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn còn gặp rất nhiều khó khăn. Mặt
khác, tình trạng ô nhiễm môi trường còn nhiều bức xúc chưa được giải quyết
triệt để. Kỷ cương xã hội có lúc còn bị vi phạm.
NguyÔn Thanh Trang – K43C
23
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Để giải quyết những khó khăn trên Huyện Đoàn Đoan Hùng cần có sự
quan tâm sát sao đối với thanh niên. Đồng thời, có sự phối hợp đồng bộ của
Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan đoàn thể trong xã hội. Đặc biệt là sự quan
tâm của Đảng uỷ, chính quyền chỉ đạo sát sao tạo điều kiện về cơ sở vật chất,
luôn quan tâm phối hợp để thực hiện tốt công tác tập hợp thanh niên, đưa
thanh niên vào tổ chức Đoàn để giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ. Mặt khác, tạo
cho thanh niên nhận thức được tầm quan trọng của tổ chức Đoàn để từ đó
đào tạo, rèn luyện nên những đoàn viên gương mẫu, tiêu biểu sau này phục vụ
cho Đảng. Có được như vậy thì điều quan trọng hơn cả là công tác đào tạo
bồi dưỡng cán bộ Đoàn phải được quan tâm sâu và rộng hơn nữa.
2.2. Thực trạng phong trào thanh thiếu niên (TTN) và công tác tổ
chức và đội ngũ cán bộ làm công tác Đoàn - Hội - Đội trên địa bàn Huyện
Đoan Hùng - Tỉnh Phú Thọ.
2.2.1. Thực trạng phong trào TTN trên địa bàn Huyện Đoan Hùng –
Tỉnh Phú Thọ.
Thanh niên Huyện Đoan Hùng mang đặc điểm là thanh niên miền núi,
có thế lực và sức khoẻ dồi dào với con số 13.230 thanh niên trong độ tuổi từ
14 – 35, trong đó có 3.730 đoàn viên. Họ là lực lượng đông đảo, là nguồn lực
chính cho sự phát triển kinh tế của địa phương, họ là tầng lớp trẻ kế thừa
xứng đáng của thế hệ cha anh lớp người đi trước trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Với chí tiến thủ của thanh niên trong toàn huyện không cam
chịu nghèo đói, họ đã nỗ lực phấn đấu lao động sản xuất để làm giàu cho bản
thân, gia đình và xã hội. Tuy họ phát triển bằng những động cơ khác nhau
nhưng thanh niên trong huyện luôn ham muốn tự do, công bằng, bình đẳng,
bác ái, luôn trung thành với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng và ủng hộ đường lối
đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Trình độ của thanh niên trong huyện ngày một cao được thống kê theo
các con số cụ thể sau:
- Học sinh tốt nghiệp THCS là 4.340 người
NguyÔn Thanh Trang – K43C
24
Häc viÖn Thanh thiÕu niªn ViÖt Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Tốt nghiệp THPT là 3.740 người
- Tốt nghiệp TH chuyên nghiệp là 420 người
-Trình độ cao đẳng, đại học là 230 người.
- Sau đại học có 10 người.
Thanh niên trong huyện luôn mong muốn có ngành nghề và việc làm
ổn định. Được sự quan tâm giúp đỡ của các ban ngành đoàn thể của huyện,
cũng như các công ty tư nhân trên địa bàn huyện đã giải quyết công ăn việc
làm cho thanh niên trong huyện.
- Thanh niên được dạy nghề là 512 người (theo điều tra năm 2007).
- Thanh niên có việc làm là 11.760 người
- Thanh niên được giới thiệu đi làm là 320 người.
Tuy nhiên trước nền kinh tế thị trường sự hoà nhập của thanh niên chưa
được nhanh, một phần do ảnh hưởng của thanh niên nông thôn kém linh hoạt
năng động, phần nữa là do trình độ còn thấp nên số thanh niên thiếu việc làm
vẫn chiếm một tỷ lệ cao: 850 thanh niên chưa có việc làm, thanh niên thất
nghiệp nhiều lại do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường với sức hút của đồng
tiền nên không ít thanh niên đã mắc vào các tệ nạn xã hội: Thanh niên nghiện
hút là 217 người (năm 2007); thanh niên phạm tội là 36 người, thanh niên
nhiễm HIV là 07 người, đã gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị của huyện.
Qua sự phân tích trên ta có thể thấy được tổ chức Đoàn có vai trò to lớn
trong việc tập hợp đoàn kết thanh niên để đưa họ về với tổ chức, giáo dục để
họ thực sự là nguồn lực chính để phát triển kinh tế của địa phương, là những
con người ưu tú của huyện.
Bên cạnh đó huyện Đoàn còn là cơ quan phụ trách công tác Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh của huyện, những năm qua công tác Đội và
phong trào thiếu nhi được tiến hành trong điều kiện thuận lợi. Cấp ủy Đảng,
chính quyền từ huyện đến cơ sở tiếp tục có sự quan tâm, đầu tư cho công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Thường xuyên mở các lớp
tập huấn cho giáo viên Tổng Phụ trách, phụ trách Đội trong trường học. Đến
NguyÔn Thanh Trang – K43C
25