Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

câu hỏi ôn tập luật ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.43 KB, 21 trang )

TỔNG HỢP CÂU HỎI ÔN TẬP LUẬT NGÂN HÀNG
Câu 1: So sánh Sec thanh toán và ủy nhiệm chi? Giải thích tại sao Sec thanh toán sử dụng hạn chế ở
Việt Nam?
- Séc: là một mệnh lệnh thanh toán do người ký phát ra lệnh cho ngân hàng để trả cho người được chỉ
định trên tờ séc hoặc trả theo lệnh của người này hoặc trả cho người cầm séc.
- Ủy nhiệm chi (UNC): là lệnh chi do chủ tài khoản lập (bên mua) theo mẫu in sẵn của ngân hàng phục
vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để chi trả cho
người thụ hưởng.
- GIỐNG NHAU:
• Séc và UNC là những phương tiện thanh toán.
• Đều thanh toán qua ngân hàng
• Thực hiện mệnh lệnh theo yêu cầu
• Thực hiện trên cơ sở ghi nợ cho khách hàng và ghi có cho người thụ hưởng.
• Mẫu giấy séc và UNC do ngân hàng cung cấp.
• Séc và UNC là mệnh lệnh do chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng thực hiện.
• Tiết kiệm các chi phí lưu thông xã hội liên quan đến: in ấn, phát hành, kiểm đếm và vận chuyển
tiền mặt.
• Thuận tiện trong việc sử dụng, hạn chế sử dụng nhiều bằng tiền mặt.
• Tiện lợi, đơn giản, dễ mang theo.
- KHÁC NHAU:
SÉC
Ủy Nhiệm Chi
- Thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển - Chỉ thanh toán bằng chuyển khoản.
khoản.
- Buộc người thụ hưởng phải có tài khoản
- Không nhất thiết người thụ hưởng phải mở tại ngân hàng này.
có tài khoản mở tại ngân hàng.
- Tờ Séc được thanh toán thì không - Tờ Ủy nhiệm chi có thể chỉnh sửa theo
chỉnh sửa.
mục đích của người ký phát.
- Đảm bảo có sự rõ ràng, nếu có sự sai - khi chỉnh sửa thì phải ký thêm một chữ


lệch sẽ không thanh toán.
ký nữa để xác nhận.
- Bản chất
Mệnh lệnh thanh toán Vô điều kiện ra Một yêu cầu của khách hàng đối với ngân
lệnh ngân hang thanh toán theo nội dung hàng.
của tờ Séc.
Không nhất thiết ghi đầy đủ nội dung thanh
Phải ghi đầy đủ nội dung yêu cầu.
toán
Nếu không đủ tiền thanh toán sẽ bị phạt Nếu không đủ tiền thanh toán thì không
phạt nhưng cũng không thanh toán cho đến
khi nạp thêm tài khoản.
- Quy trình
Giao cho người thụ hưởng
Chủ tài khoản trực tiếp nộp tiền vào NH và
yêu cầu NH thanh toán.
- Thời hạn
Thanh toán đương nhiên 30 ngày sau Ngay trong ngày làm việc.
khi phát
- Tính chuyển Tự do chuyển nhượng
Không được chuyển nhượng.
nhượng
- Tiêu chí
Phải mua tờ SEC, không ghi nội dung NH chủ động phát hành, có ghi nội dung
thanh toán
thanh toán vì họ giao dịch trực tiếp nên ghi
để người thụ hưởng biết.
Ở Vn ta ko có thói quen dùng séc vì nhiều lí do: trong đó có 3 lý do chính sau:
Thứ nhất do dịch vụ ngân hàng mới phát triển ở VN mấy năm gần đây, nền tảng từ đầu chưa có vì thế việc
phổ biến thói quen này còn phải mất một thời gian dài.


1


Thứ hai là nếu dùng séc thì ta phải có nhiều dịch vụ thanh toán bằng séc, cần đầu tư trang thiết bị.
Thứ ba là người VN ta ko có thói quen dùng tiền mặt - mua sắm trong siêu thị, việc các chợ địa phương đã
đáp ứng phần lớn nhu cầu mua bán, đi siêu thị mua sắm ko phải thói quen thường ngày của các bà nội trợ.
Việc dùng séc và thực hiện các giao dịch qua thẻ nói chung chỉ thích hợp với một số bộ phận người dân, đó là
những người có thể dễ tiếp cận với các dịch vụ hiện đại, chủ yếu là ở thành phố, nơi có nhiều dịch vụ ngân
hàng...chứ còn ở nông thôn thì điều này rất khó, mà dân ta đa số làm nông nghiệp. Và chỉ khi việc mua sắm
đều chủ yếu diễn ra ở những trung tâm mua sắm thì việc đầu tư máy thanh toán bằng thẻ mới hiệu quả.

Câu 2: Tiềng gửi bằng ngoại tệ có được bảo hiểm không?Tại sao, trong tương lai có nên cho phép?
Tiền gửi bằng ngoại tệ không được bảo hiểm bởi, đảm bảo thực hiện thống nhất chính sách quản
lý ngoại hối, chỉ sử dụng đồng VN trên lãnh thổ VN, hạn chế tình trạng đô la hóa, dễ tạo tâm lý thiếu
tin tưởng vào sự ổn định của giá trị đồng tiền, có thể gây xáo trộn thị trường tiền tệ, khó kiểm soát
hiệu quả quá trình điều hành chính sách tiền tệ,năng lực tài chính của tổ chức BHTG là có hạn,
không có khả năng bảo hiểm hết cho tất cả các khoản tiền gửi
Tương lai, nên bảo hiểm tiềng gửi đối với tiền gửi là ngoại tệ : góp phần giảm thiểu cất giữ ngoại tệ
của người dân, khuyến khích kiều bào gửi ngoại tệ về nước, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền,
tạo ra cơ chế thúc đẩy người gửi tiền có ý thức tự bảo vệ mình trước những rủi ro nhất định liên quan
đến tình hình hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi.
Câu 3. Séc bảo chi có phải là cam kết bảo lãnh của NH bị ký phát đối với người thụ hưởng
không? Tại sao
Không, vì séc bảo chi là việc người bị ký phát (NH) cam kết thanh toán cho tờ séc đó khi tờ séc được
xuất trình để thanh toán trong thời hạn được xuất trình (dù tài khoản của người ký phát không đủ để
than toán tại thời điểm xuất trình), trong khi cam kết bảo lãnh của NH là khi người ký phát không
thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ tờ séc thì NH sẽ thanh toán 1 phần hoặc toàn bộ tờ séc đó.
4.So sánh việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại với việc phát hành giấy tờ có giá
của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Câu 5. Phân biệt bảo lãnh tín dụng với bảo lãnh dân sự
Tiêu chi

BLTD

BLDS

La 1 hình thức cấp tín dung dựa
trên nguồn vốn là vốn huy động,
bên bảo lãnh sẽ chuyển tiền cho bên
được bảo lãnh

Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi
đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bên bảo lãnh
dùng vốn tự có của mình để đảm bảo cho bên được
bảo lãnh.(không dung tài sản của bên bảo lãnh để bảo

2


lãnh)
Hình thức

Thư bảo lãnh, HĐ BL, hình thức
khác do các bên thỏa thuận


Văn bản,có thể lập văn bản riêng hoăc ghi trong HĐ
chính

Thời điểm
chấm dứt

Tại thời điểm giải ngân vốn vay

Nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt;
Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng
biện pháp bảo đảm khác;
Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
Theo thoả thuận của các bên.

TSBĐ

Chủ
(Bên
lãnh)

thế
bảo

Có thể có tài sản bảo đảm cho
khoản tiền mà bên bảo lanh thực
hiện nghĩa vụ BL

Không có, bảo đảm bằng uy tín của bên bảo lãnh

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài

Tổ chức, cá nhân

Câu 6.Tại sao chiết khấu là hoạt động cấp tín dụng
Vì: bản chất của chiết khấu là để thu hồi lại khoản tín dụng đã cấp chứ không là bên đi đầu tư, nhằm
bảo đảm cho hoạt động thu hồi vốn.trong chiết khấu giá mua bán thuộc lãi chiết khấu, nếu bên phát
hành giấy tờ có giá đó muốn mua lại thì TCTD không được quyền từ chối mà buộc phải bán lại cho
bên phát hành đó, lợi tức phát sinh thêm từ giấy tờ có giá đó thì TCTD cũng không được hưởng nếu
bên đi cầm cố giấy tờ có giá đó yêu cầu thanh toán giấy tờ có giá đó, tức là được quyền truy đòi, bên
TCTD có quyền truy đòi đối với bên được chiết khấu nều khi đến hạn bên phát hành giấy tờ có giá
đó không thanh toán
Câu 7: Rủi ro khi ký kết HĐTD mẫu:
HĐ mẫu có thể thỏa thuận một số nội dung trong HĐ, nhưng bên đi vay là bên bị động, do vậy
thường bị áp đặt những điều khoản không có lợi, mà có lợi hơn cho NH, dễ phát sinh tranh chấp do
bên đi vay không hiểu hết hậu quả pháp lý của HĐ đó, do ý chí đơn phương áp đặt từ một phía là bên
cho vay, làm hạn chế sự thỏa thuận trong HĐ vay giữa TCTD với khách hàng vay.
Câu8 : Nguyên nhân của tình trạng nợ xấu của NH hiện nay?
Nhận thức về rủi ro tín dụng có hạn chế nhất định. Nguyên nhân của hạn chế này do nhiều yếu tố: (i)
Nhận thức sai lầm trong mối quan hệ và tầm quan trọng giữa rủi ro, kinh doanh và nguồn vốn, xem
xét chưa đầy đủ về những khả năng mất vốn do những rủi ro tiềm ẩn gây ra, chủ quan về mở rộng
kinh doanh, tăng trưởng cho vay phụ thuộc chủ yếu vào huy động tiền gửi, phát triển kinh doanh
thiếu căn cứ; (ii) Một số nhà quản lý ưa thích rủi ro, khi xem xét hồ sơ của khách hàng truyền thống
3


chỉ dựa vào các tài liệu được cung cấp, như báo cáo bằng văn bản, báo cáo tài chính, không thực hiện
đánh giá rủi ro một cách khách quan. Do đó làm mất đi sự chính xác và tính hiện thực khi xem xét hồ
sơ vay vốn của khách hàng.


Thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong kỹ năng quản lý: có hiện tượng ngân hàng thiếu biện pháp hiệu
quả để xác định, định hướng và kiểm soát rủi ro trong từng khu vực, số liệu quá khứ không đầy đủ,
hệ thống thông tin không cập nhật, kinh nghiệm cá nhân nhiều khi lạm dụng có thể để lại hậu quả
cho hoạt động ngân hàng. Do đó, biện pháp quản lý yếu kém có nguy cơ tập trung và mang tính hệ
thống.
Quản lý rủi ro không diễn ra xuyên suốt cả quá trình: (i) Công tác thẩm định không kỹ lưỡng, nghiêm
ngặt: trong quá trình thẩm định trước khi cho vay, có trường hợp quan hệ cá nhân có ảnh hưởng nhất
định, vì vậy có hiện tượng buông lỏng công tác thẩm định, không đánh giá một cách toàn diện, chính
xác những rủi ro của khoản vay, thiếu hiểu biết đầy đủ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai, đánh giá quá lạc quan, thiếu phân tích ảnh hưởng tiềm ẩn
của môi trường xung quanh, biến động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước. (ii) Quá trình xét
duyệt hồ sơ: có trường hợp ngân hàng bỏ qua một thực tế thủ tục và hồ sơ vay vốn của khách hàng
không đầy đủ, hay hồ sơ vay vốn của khách hàng là hồ sơ ảo. (iii) Rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng:
là mối quan tâm lớn trong công tác quản trị ngân hàng. Những vấn đề thường gây ra rủi ro trong
nghiệp vụ như: năng lực phân tích, thẩm định khách hàng yếu kém dẫn đến việc ngân hàng bị lừa
đảo, mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong khi bên được bảo lãnh mất khả năng thanh
toán. Hạn chế trong vận dụng quy định của pháp luật trong nước, quốc tế liên quan đến nghiệp vụ
bảo lãnh ngân hàng làm phát sinh những tranh chấp kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân
hàng. Năng lực của cán bộ tín dụng về thẩm định còn hạn chế cũng là yếu tố dẫn đến rủi ro khi thực
hiện bảo lãnh ngân hàng.
Giải pháp xử lý nợ xấu
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, để giảm và hạn chế nợ xấu phát sinh, các giải
pháp sau đây được đề xuất:
(1) Đối với ngân hàng có mức nợ xấu quá cao: (i) Hỗ trợ thanh khoản: NHTW thực hiện hỗ trợ
thanh khoản cho các ngân hàng thông qua các công cụ khác nhau với vai trò người cho vay cuối
cùng; (ii) Sáp nhập các ngân hàng, thay đổi cơ cấu sở hữu .
4


(2) Thiết lập cơ chế tối đa hóa giá trị thu hồi nợ xấu: (i) Thành lập các cơ quan với chức năng xử lý

nợ tập trung: khi tình trạng nợ xấu trở nên nghiêm trọng, có thể gây khủng hoảng hệ thống và ảnh
hưởng đến nền kinh tế, Chính phủ ngoài các biện pháp hỗ trợ trực tiếp, cần thành lập cơ quan với
chức năng và quyền hạn đặc biệt, thực hiện xử lý nợ xấu; (ii) Tạo nguồn vốn để xử lý nợ xấu: Chính
phủ cấp vốn trực tiếp thông qua ngân sách nhà nước hoặc phát hành trái phiếu chính phủ; Cho phép
ngân hàng vay nợ thông qua hình thức phát hành trái phiếu công ty quản lý tài sản, vay từ các nguồn
khác và vay từ NHTW.
(3) Tăng cường niềm tin trong dân: (i) Tăng hạn mức BHTG hoặc áp dụng bảo lãnh toàn bộ nhằm
ngăn ngừa hoảng loạn, duy trì niềm tin là giải pháp thường được lựa chọn khi tình trạng nợ xấu của
hệ thống ngân hàng quá lớn có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân hàng hoặc gây đổ vỡ ngân
hàng; (ii) Củng cố chuẩn mực kế toán, kiểm toán, phân loại nợ theo các chuẩn mực quốc tế, tăng
cường năng lực giám sát. Điều này đặc biệt cần thiết tại các quốc gia chưa có chế tài, xử phạt đủ
mạnh; (iii) Tái cơ cấu các cơ quan quản lý lĩnh vực ngân hàng.
(4) Thiết lập cơ sở pháp lý cho việc tham gia của Chính phủ trong xử lý đóng cửa ngân hàng:
(i) Tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và cơ cấu lại nợ: Ngân hàng có thể cơ cấu lại nợ cho doanh
nghiệp dựa trên những hình thức như điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ, giảm, miễn một phần trả nợ
lãi vay phải trả. Bản chất của biện pháp này là duy trì khả năng trả nợ của khách hàng kết hợp với
thiện chí trả nợ vay của khách hàng.
(ii) Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu như chuyển đổi một tập hợp có chọn lọc các khoản vay có
thế chấp của ngân hàng mà trước đó không có thị trường thứ cấp. Ngân hàng hoặc cơ quan xử lý nợ
xấu có thể xử lý các khoản nợ xấu nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán
cùng giao dịch mua bán nợ. Thông thường chứng khoán hóa được thực hiện trên 2 nhóm tài sản chủ
yếu là các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và các tài sản tài chính không được thế chấp
bằng bất động sản.
(iii) Bán các khoản nợ: Ngân hàng hoặc các tổ chức xử lý nợ sẽ thực hiện việc bán các khoản nợ
trong trường hợp các khoản nợ xấu không có tài sản đảm bảo hoặc cần rút ngắn thời gian đòi nợ. Đối
với ngân hàng, các khoản nợ xấu có thể được bán cho tổ chức có chức năng theo quy định để thu hồi
vốn. Các cơ quan xử lý nợ xấu, sau khi tập trung nợ xấu từ các ngân hàng, sẽ bán lại cho một tổ chức
tín dụng hoặc các nhà đầu tư khác nhằm đạt mục tiêu thu hồi vốn nhanh, các ngân hàng hay các cơ
quan xử lý nợ xấu thường chấp nhận bán các khoản nợ thấp hơn giá trị.
5



(5) Nỗ lực từ chính ngân hàng có nợ xấu cao
(i) Tăng cường xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và đạo đức tốt. Để tránh các
hiện tượng tiêu cực do chính các cán bộ, nhân viên của TCTD nhằm trục lợi ích nhóm, lợi ích cá
nhân, các TCTD cần phải tăng cường hiệu quả công tác kiểm soát nội bộ theo hướng hoàn thiện các
quy trình, nội dung và phương pháp kiểm soát, tạo tính độc lập cần thiết cho bộ phận kiểm soát nội
bộ. Ngoài ra, cũng cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và giáo dục tư tưởng, ý thức chấp hành nội quy,
quy chế và pháp luật cho tất cả các cán bộ, nhân viên của TCTD. Bên cạnh đó, cần thường xuyên bồi
dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Điều đó sẽ góp phần thay đổi tư duy và
hành động của cán bộ tín dụng và giảm thiểu rủi ro cho TCTD.
(ii) Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh: đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu,
khách hàng không có khả năng trả nợ, ngân hàng chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả tài
sản là bất động sản, bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng
theo các hình thức sau: tự bán công khai trên thị trường, bán qua Công ty mua bán nợ của Nhà nước,
bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản.
(iii) Sử dụng dự phòng rủi ro của chính ngân hàng để xử lý: dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ
gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Do tính chủ động cao nên biện pháp này
thường được các ngân hàng vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện
pháp này là ngân hàng sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh của ngân hàng.
Xử lý nợ xấu luôn là bài toán khiến cho nhà quản lý cũng như ngân hàng đau đầu và mất nhiều thời
gian, công sức. Để giải bài toán này cần sự góp sức của nhiều phía, từ phía nhà quản lý, ngân hàng
cũng như doanh nghiệp.
Câu 9:Tại sao pháp luật quy định Ngân hàng nhà nước chỉ được tái cấp vôn ngắn hạn cho các
tổ chức tín dụng ?
Tái cấp vốn hình thành trên cơ chế NHNN cho các TCTD là ngân hàng vay trên cơ sở bù đắp thiếu
hụt trong thanh toán để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD để cung ứng vốn cho khách hàng, tạo
ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN.
Khi nhu cầu của khách hàng cần vốn lên cao trong khi các tổ chức tín dụng thiếu tiền ( với vai trò

là chủ thể duy nhất được quyền phát hành tiền và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia NHNN không
kinh doanh tiền tệ, không trực tiếp giao dich với khách hàng mà phải thông qua ngân hàng trung
gian là các tổ chức tín dụng) thì TCTD là ngân hàng sẽ gởi yêu cầu lên NHNN để vay, NHNH dựa
vào hồ sơ tín dụng để cho TCTD vay.
6


NHNN cung ứng tiền cho TCTD khi dựa vào tình hình thực tế của đất nước. Nếu như tình hình
đất nước lạm phát lên cao thì NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích hạn chế
lượng tiền lưu thông trên thị trường, Để tránh tình trạng lạm phát khi bơm tiền vào thị trường quá
nhiều sẽ dẫn đến lạm phát.Để đảm bảo có thể rút vốn về khi cần thiết tạo tính linh hoạt để các ngân
hàng huy động vốn thêm từ bên ngoài,nhanh chóng thu nguồn vốn về để đảm bảo ổn định tỷ giá cho
kinh tế thị trường. Ngược lại nếu như tình hình đất nước giảm lạm phát thì NHNN sẽ tiên hành giảm
lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích phân bổ hợp lý số tiền lưu thông trên thị trường, kích thích kích
cầu, nâng cao tỷ giá, kích thích sử dụng tiền…, Như vậy TCTD là ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc hoạch định các chính sách của NHNN.
Cho vay theo hình thức tái cấp vốn ngắn hạn, NHNN nhằm mục đích
+ Để tránh tình trạng lạm phát khi bơm tiền vào thị trương qua nhiều sẽ dẫn đến lạm phát.
Khi cho các TCTD là ngân hàng vay NHNN phải căn cú vào tình hình lạm phat, giảm phát của đất
nước để tiến hành bơm lượng tiền vào thị trường làm sao cho phù hợp với tình hình quốc gia, tránh
tình trạng bơm quá nhiều thì dẫn đến lạm phát.
+ Để đảm bảo có thể rút vốn về khi cần thiết.
Khi cho các TCTD vay theo hình thức tái cấp vôn ngắn hạn NHNN luân mong muốn nhanh chong
nhận về số vốn và lãi để tạo cho các TCTD linh hoạt trong hoạt động vốn.
+ Tạo tính linh hoạt để các ngân hàng huy động vốn them từ bên ngoài.
Tái cấp vôn ngắn hạn khi các TCTD thiếu tiền cung ương cho thị trường, việc huy động nguồn vốn
khác chưa đáp ứng nhu cầu thì sẽ tiến hành vay ngắn hạn của NHNN,NHNN cho vay ngắn hạn trong
1 khoảng thời gian ngắn nhát định với lãi suất phù hợp, các TCTD phải tự ý thức huy dộng nguồn
vốn khác từ bên ngoài để đảm bảo hoạt động, không ỷ lại nguồn vốn cảu ngân hàng nhà nước.
Câu 10:. Phân biệt chiết khấu với cho vay cầm cố giấy tờ có giá

- Chủ thể:
+ Chiết khấu: Liên quan đến 3 chủ thể: TCTD – ng vay – ng có ngvu hoàn trả vốn từ giấy tờ có giá
+ Cho vay, cầm cố giấy tờ có giá: Liên quan đén hai chủ thể: ng vay – ng cho vay
- HÌnh thức:
+ Chiết khấu:HĐ chiết khấu giấy tờ có giá. HĐ giống như 1 HĐM giấy tờ có giá, có bên bán, bên
mua cùng thoả thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán sang bên mua.
+ Cho vay cầm cố giấy tờ có giá: HĐ tín dụng.mang bản chất của HĐTD.
- Quy trình nghiệp vụ kĩ thuật:
+ Chiết khấu: Là sự kết hợp giữa nghiệp vụ tín dụng (thẩm định hồ sơ chiết khấu của khách hàng)
với kĩ thuật pháp lý trg hợp đồng mua bán giấy tờ có giá( thủ tục chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ
có giá cho người mua và thanh toán tiền mua giấy tờ có giá cho người bán)
- Quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá:
+ Chiết khấu: thuộc về TCTD (bên mua).
+ Cầm cố giấy tờ có giá: Bên vay, TCTD ko có quyền sở hữu.
- Đối tượng:
+ Chiết khấu: giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán ngắn hạn (dưới 1 năm)
+ Cho vay cầm cố: Giấy tờ có giá ngắn, trung, dài hạn.
- Giá trị của giấy tờ có giá:
+ Chiết khấu:giá chiết khấu có giá trị thấp hơn giá trị thực của giấy tờ có giá.
+ Cho vay cầm cố: xác định đúng giá trị.
- Luật áp dụng:
+ Chiết khấu: tuân thủ nguyên tắc chung của HĐ mua bán giấy tờ có giá và quy định pháp luật về
hoạt động NH.
+ Cho vay cầm cố: Quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng, HĐTD
7


Câu 11. Sự khác nhau cơ bản giữa 2 phương thức chiết khấu là chiết khấu toàn bộ thời hạn còn
lại của giấy tờ có giá và chiết khấu giá chiết khấu có thời hạn.
- KN:

+ Toàn bộ: Chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn giấy tờ có giá là Là phương thức mua hẳn hay
mua đứt giấy tờ có giá. Theo giá chiết khấu, tái chiết khấu do các bên thỏa thuận.
+ Có thời hạn: Chiết khấu, tái chiết khấu có thời hạn giấy tờ có giá là thỏa thuận theo đó TCTD cam
kết mua giấy tờ có giá của khách hàng theo giá chiết khấu, tái chiết khấu do các bên thỏa thuận,
khách hàng sẽ cam kết mua lại giấy tờ có giá từ TCTD tr 1 thời hạn nhất định, trước khi hết hạn
thanh toán của giấy tờ có giá
- Cam kết của khách hàng khi chiết khấu, tái chiết khấu:
+ Toàn bộ: Ko có cam kết sẽ mua lại mà bán đứt hoàn toàn.
+ Có thời hạn: cam kết sẽ mua lại chính giấy tờ có giá đó khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu.
- Quyền của TCTD:
+ Toàn bộ: TCTD có quyền sở hữu tuyệt đối và trọn vẹn trong suốt thời gian sở hữu giấy tờ có giá,
nghĩa là k bị ghạn về khả năng chiếm hữu, sd và định đoạt đvới giấy tờ có giá đã mua của khách hàng
+ Có thời hạn: Quyền sở hữu của TCTD đối với giấy tờ có giá trg thời gian sở hữu là ko tuyệt đối và
ko trọn vẹn. Vì TCTD bị rang buộc bởi cam kết bán lại cho khách hàng trg thời hạn chiết khấu, tái
chiết khấu, bị hạn chế về khả năng sử dụng và định đoạt đối với các giấy tờ có giá đã mua.
- Trách nhiệm của khách hàng.
+ Toàn bộ: Chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho TCTD và ko yêu cầu mua lại.
+ Có thời hạn: Ngoài việc chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho TCTD còn có trách nhiệm
thực hiện cam kết mua lại giấy tờ có giá trong thời hạn cam kết mua lại.
Câu 12. Sự khác nhau cơ bản giữa chiết khấu và tái chiết khấu:
- Về chủ thể:
+ Chiết khấu: Giữa TCTD và khách hàng.
+ Tái chiết khấu: Giữa các TCTD với nhau hoặc giữa TCTD với NHTW.
- Về bản chất:
+ Chiết khấu: là giao dịch mua bán lần đầu các giấy tờ có giá giữa TCTD với khách hàng là tổ chức,
cá nhân.
+ Tái chiết khấu: là giao dịch mua bán lại các giấy tờ có giá đã đc chiết khấu 1 lần theo phương thức
mua đứt, bán đoạn tại TCTD
Câu 13:. Tín dụng thương mại là gì? Các ngân hang có vai trò ntn trong sự phát triển của tín
dụng thương mại

Tín dụng thương mại là loại tín dụng rất phổ biến trong tín dụng quốc tế, là loại tín dụng giữa các nhà
doanh nghiệp cấp cho nhau vay, không có sự tham gia của ngân hàng hoặc cũng có thể hiểu là loại
tín dụng được cấp bằng hàng hóa dịch vụ chứ không phải bằng tiền. Có ba loại tín dụng thương mại
1.Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu (gọi là tín dụng xuất khẩu) là loại tín dụng do người
xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tím dụng xuất khẩu được cấp
dưới hình thức chấp nhận hối phiếu và mở tài khoản

Cấp tín dụng bằng chấp nhận hối phiếu tức là thương nhân nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền
vào hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để nhận bộ chứng từ hàng hóa thông qua ngân hàng hoặc
người xuất khẩu gửi trực tiếp cho họ. Thời hạn của loại tín dụng này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của
hai bên bán và mua. Tuy nhiên để phòng tránh rủi ro luật các nước thường can thiệp bằng cách định
ra thời hạn cho loại tín dụng này. Ví dụ, luật nước Anh, Pháp quy định thời hạn từ 30 đến 90 ngày,
luật Mỹ là 180 ngày, luật Nhật Bản quy định từ 180 đến 360 ngày.
8



Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản tức là thương nhân xuất khẩu và thương nhân nhập khẩu
ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó qui định quyền của bên bán được mở một tài
khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi chuyến giao hàng mà bên bán đã thực hiện. Sau từng thời gian nhất
định, người mua sẽ phải thanh toán số nợ đó bằng chuyển tiền, chuyển Séc hoặc bằng Kỳ phiếu trả
tiền ngay.
2.Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu (gọi là tín dụng nhập khẩu) là loại tín dụng do người
nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập hàng thuận lợi. Hình thức tồn tại của loại tín dụng nay là
tiền ứng trước để nhập hàng. Việc ứng tiền trước có tính chất khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ
thể. Nếu người xuất khẩu thiếu vốn do phải thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có kim ngạch lớn thì
tiền ứng trước mang tính chất tín dụng; còn ngược lại, nếu người xuất khẩu không tin vào khả năng
thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu mà bắt phải đặt cọc cho việc giao hàng, tiền ứng trước
mang tính chất là vật đảm bảo thực hiện hợp đồng. Khoản tiền ứng trước được hoàn trả bằng cách
khấu trừ dần vào số tiền hàng theo tỷ lệ cố định hoặc theo tỷ lệ tăng dần hoặc chỉ một lần vào chuyến

hàng giao cuối cùng.
3.Tín dụng nhà môi giới cấp cho người xuất khẩu và nhập khẩu: các ngân hàng thương nghiệp cỡ lớn
thường không cấp tín dụng trực tiếp cho các nhà xuất nhập khẩu mà thông qua nhà môi giới, loại
hình này sử dụng rộng rãi ở các nước Anh, Đức, Bỉ và Hà Lan. Người môi giới là các công ty lớn, có
vốn vay được từ các ngân hàng, hình thức cấp tín dụng rất đa dạng. Ví dụ cấp cho nhà xuất khẩu gồm
cho vay không phải cầm cố hàng hóa, cho vay cầm cố chứng từ hàng hóa, cho vay chiết khấu hối
phiếu…Mọi tín dụng của người môi giới đều là tín dụng ngắn hạn.
Đặc điểm: phạm vi là tư bản hàng hoá, đối tượng là nhà tư bản hoạt động; sự vận động xảy ra trong
các giai đoạn của quá trình tái sản xuất bên cạnh sự vận động của tư bản công nghiệp, tổng số hàng
hoá sản xuất tăng hay giảm dẫn đến tổng số hàng hoá bán qua TDTM cũng tăng hay giảm. TDTM
đan kết với tín dụng ngân hàng thông qua chiết khấu kì phiếu. TDTM là cơ sở của hệ thống tín dụng
tư bản chủ nghĩa, vì nó phục vụ trực tiếp cho lưu thông tư bản công nghiệp và thông qua nó, có khả
năng chuyển hoá từ hàng hoá sang hình thức tiền tệ.
Câu 14. Phân biệt giữa bảo lãnh ngân hang và bảo lãnh vay vốn ngân hang? Cho ví dụ thể hiện
sự kết hợp giữa cả hai hình thức đó
- Bản chất pháp lý:
+ Bảo lãnh NH: Là một loại hình giao dịch thương mại đặc thù. Hoạt động này vừa do chính TCTD
thực hiện nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, vừa có tính chất chuyên nghiệp như 1 nghề kinh doanh của
bên bảo lãnh
+ Bảo lãnh vay vốn NH: là một biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, việc bảo lãnh của bên bảo
lãnh ko mang tính chuyên nghiệp như 1 nghề kinh doanh.
- Chủ thể:
+ Bảo lãnh ngân hàng:bên bảo lãnh bao h cũng là TCTD.
+ Bảo lãnh vay vốn ngân hàng: bên bảo lãnh ko là TCTD mà là tổ chức cá, nhân có đủ điều kiện đảm
bảo
- Tư cách của người bảo lãnh:
+ Bảo lãnh NH: người bảo lãnh ko chỉ có tư cách là người bảo lãnh mà còn có tư cách của một nhà
kinh doanh ngân hàng  TCTD buộc phải biết khả năng tài chính của đối tượng được bảo lãnh trước
khi kí HĐ.
+ Bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Bên bảo lãnh mang tư cách của người bảo lãnh théo quy định của

LDS.
- Huỷ ngang:
+ Bảo lãnh NH: ko đc đơn phương huỷ ngang
Câu 15: Phân biệt ngân hàng với tổ chức tín dụng phi ngân hàng
9


Tiêu chí

Về phạm
vi
hoạt
động
Về vai trò

Về
cầu


yêu
quản

Ngân hàng

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Giống nhau
- Đều là tổ chức tín dụng có thực hiện các hoạt động ngân hàng.
- Đều đặt dưới sự quản lý, kiểm tra của NHNNVN.
S khác nhau
Đƣợc thực hiện toàn bộ hoạt động Đƣợc thực hiện một số hoạt động ngân hàng,

ngân hàng và các hoạt động kinh không đƣợc nhận tiền gửi của cá nhân,
doanh khác có liên quan.
không làm dịch
vụ thanh toán.
Đƣợc quyền cung ứng vốn ngắn hạn, Chủ yếu ung ứng vốn trung hạn và
trung hạn và dài dạn tự do.
dài hạn (đƣợc quyền cung ứng vốn
ngắn hạn dƣới 1 năm nhƣng hạn
chế)
Ngân hàng NNVN quan tâm những Sự tác động của các tổ chức tín
tác động “nhạy cảm” của ngân hàng dụng phi ngân hàng đến nền kinh
đến nền kinh tế nhiều hơn bằng các tế ít “nhạy cảm” hơn. Vì vậy, mức
nghiệp vụ hỗ trợ hoặc hạn chế độ và yêu cầu quản lý ít hơn.
thƣờng xuyên phụ thuộc vào chính
sách tiền tệ quốc gia.

Câu 16: Lập Bảng so sánh giữa cho vay phục hồi khả năng thanh toán (cho vay cứu cánh) cho vay
tái cấp vốn:

10


Căn cứ
Về mục đích
Về
tƣợng

đối
áp dụng.


Về điều kiện cho vay

Về bản chất

Cho vay tái cấp vốn
Cho vay tái cấp vốn là bổ sung
nguồn vốn huy động, công cụ
đƣợc sử dụng để điều tiết là lãi
suất tái cấp vốn.
Đối tƣợng đƣợc vay tái cấp
vốn là các tổ chức tín dụng.
− Là khoản vay ngắn hạn.
− Có đảm bảo bằng giấy tờ có giá
hoặc hồ sơ tín dụng.
Cho vay tái cấp vốn là khoản
nợ có đảm bảo và đƣợc xử lý
nhƣ những khoản nợ thông
thƣờng.

Về thời hạn cho vay

Thời gian cho vay là ngắn hạn
(dƣới một năm).

Giống nhau

Cho vay

Khác nhau
Thời hạn cấp tín dụng

Đối tƣợng cấp tín dụng
Biện pháp bảo đảm
Mục đích sử dụng vốn

Đều là hình thức cấp tín dụng.
Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Tiền tệ, vàng và kim loại quý
khác
Thông thƣờng có áo dụng các
biện pháp bảo đảm tiền vay
nhƣ: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
Do bên vay quyết định và đƣợc
để cập trong hợp đồng vay

Cho vay cứu cánh
Nhằm phục hồi khả năng thanh
toán
Đối tƣợng đƣợc vay cứu cánh
là các tổ chức tín dụng tạm
thời mất khả năng chi trả.
là hình thức đƣa tiền vào lƣu
thông nhƣng không cân đối với
nền kinh tế.
Đây là một khoản nợ đặc biệt
và đƣợc ƣu tiên thanh toán
trƣớc tất cả các khoản nợ của
TCTD (đƣợc trả trƣớc khi đặt
TCTD vào việc mở thủ tục phá
sản).
Thời hạn tùy thuộc vào thời

gian NHNNVN đặt vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt.
Cho thuê tài chính

Chỉ có trung hạn và dài hạn
Tài sản hữu hình (động sản)
Không áp dụng các biện pháp
bảo đảm.
Do tổ chức tín dụng quyết định
khi xác định đối tƣợng cho thuê

Câu 17: Tại sao pháp luật quy định Ngân hàng nhà nước chỉ được tái cấp vôn ngắn hạn cho
các tổ chức tín dụng ? Thực trạng thực hiện hoạt động của Ngân hàng nước trong 2 năm qua.?
Để thực hiện chính sánh tiền tệ quốc gia Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng nhiều loại
công cụ trong đó có công cụ tái cấp vốn.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
bao gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các
chứng từ có giá.
Mục tiêu:

11


+ Đáp ứng vốn kịp thời cho các NHTM
+ Điều tiết lượng tiền trong lưu thông phù hợp với mục tiêu.
Hoạt động tín dụng của Ngân hang Nhà nước cho vay, theo hình thức này, thì Ngân hàng
Nhà nước cho các tổ chức dụng là ngân hàng vay ngắn hạn , vay ngắn hạn theo hình thức tái cấp
vốn của Ngân hàng Nhà nước Tại Điều 17 luật ngân Ngan hang Nhà nước 1997 (sửa 2003).hiện
luật ngân hàng 2010 và luật tổ chức tín dụng 2010 điều chỉnh vấn đề này.

Theo quy định của pháp luật hiện hành tổ chức tín dụng được vay vốn của NHNN là các tổ
chức tín dụng là ngân hàng được vay ngắn hạn bằng việc tái cấp vốn của NHNN thông qua các hình
thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, cho vay, cầm cố chứng từ có giá.
Ngoài ra TCTD là ngân hàng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng thanh toán có
nguy cơ mất an toàn cho hệ thống các tổ chức dụng thì NHNN sẽ là đứng ra cho vay như cứu cánh
cuối cùng.
Tái cấp vốn hình thành trên cơ chế NHNN cho các TCTD là ngân hàng vay trên cơ sở bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD để cung ứng vốn cho khách
hàng, tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN.
Khi nhu cầu của khách hàng cần vốn lên cao trong khi các tổ chức tín dụng thiếu tiền ( với
vai trò là chủ thể duy nhất được quyền phát hành tiền và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia NHNN
không kinh doanh tiền tệ, không trực tiếp giao dich với khách hàng mà phải thông qua ngân hàng
trung gian là các tổ chức tín dụng) thì TCTD là ngân hàng sẽ gởi yêu cầu lên NHNN để vay, NHNH
dựa vào hồ sơ tín dụng để cho TCTD vay.
NHNN cung ứng tiền cho TCTD khi dựa vào tình hình thực tế của đất nước. Nếu như tình
hình đất nước lạm phát lên cao thì NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích
hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, Để tránh tình trạng lạm phát khi bơm tiền vào thị
trường quá nhiều sẽ dẫn đến lạm phát.Để đảm bảo có thể rút vốn về khi cần thiết tạo tính linh hoạt
để các ngân hàng huy động vốn thêm từ bên ngoài,nhanh chóng thu nguồn vốn về để đảm bảo ổn
định tỷ giá cho kinh tế thị trường. Ngược lại nếu như tình hình đất nước giảm lạm phát thì NHNN sẽ
tiên hành giảm lãi suất vay ngắn hạn nhằm mục đích phân bổ hợp lý số tiền lưu thông trên thị
trường, kích thích kích cầu, nâng cao tỷ giá, kích thích sử dụng tiền…, Như vậy TCTD là ngân hàng
có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách của NHNN.
Vai trò của TCTD là ngân hàng có vai trò quan trọng sau.

12


1.Vai trò trung gian Tổ chức tín dụng hay thương gọi là Ngân hàng trung gian( NHTG) đứng
giữa ngân hàng Trung ương với khách hàng

Các NHTG một mặt giao dịch trực tiếp với công chúng (các khách hàng), mặt khác trực tiếp
giao dịch với Ngân hàng Trung ương (NHTW). Trong khi NHTW chỉ giao dịch với NHTG và Chính
phủ và hầu như không trực tiếp giao dịch với khách hàng.
Thông thường, các chính sánh của NHTW tác động trực tiếp đến NHTG các ngân hang này
đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động chính sách tiền tệ, tài chính của NHTW
( như việc phát hành tiền, điều chỉnh lãi suất, thay đổi hạn mức dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng,
thay đổi khung chênh lệch tỷ giá hối đoái…)Đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược
lại, cũng qua các NHTG và các định chế tài chính trung gian khác , tình hình sản lượng , giá cả,
công ăn việc làm nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi
về cho NHTW để NHTW có chính sách điều tiết thích hợp với từng trường hợp cụ thể.
Vai trò trung gian của NHTG( các tổ chức tín dụng) giữa NHTW với khách hàng và nền kinh
tê cảu trung gian tài chính được thực hiện qua sơ đồ sau.

Tác
động
NHTW
Phản hồi

Tác động
NHTG
Các TCTC
Các TCTD

KHÁCH HÀNG
Phản hồi

2.Vai trò của các tổ chức tín dụng trong việc thực thi chính sánh tiền tệ.

Việc hoạch định chính sánh tiền tệ thuộc về NHTW; để thực thi chính sách tiền tệ phải sử
dụng các công cụ phải sử dụng các công cụ như công cụ tái cấp vốn, công cụ lãi suất, tủ giá hối đoái,

dự trữ bắt buộc (reseve requirement), nghiệp vụ thị trường mở cửa. Chính các tổ chức tín dụng là chủ
thể chịu sự tác động trực tiếp các tác động của chính sánh tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến

13


nền kinh tế. Ngược lại cũng qua các tổ chức tín dụng tình hình sản lượng , giá cả, công ăn việc làm
nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi về cho NHTW để
chính phủ và NHTW có chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.
Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng gắn liền với các hoạt đọng kinh doanh của
doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó, các tổ chức tín dụng
thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của
mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức kinh tế, các nhân về mặt
tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dung tiền mặt…, đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh
tế được bình thường.
Bằng các chính sách và những biện pháp tín dụng, các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu
cầu vốn bổ sung kịp thời cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản
xuất, lưu thông và dịch vụ, các tổ chức tín dụng có thể tăng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng vào
từng doanh nghiệp, hoặc có thể thực hiện quan hệ tín dụng đối với doanh nghiệp trong từng trường
hợp cần thiết. Tất cả những vấn đề đó đều liên quan ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Như vây, việc sử vốn vay của các tổ chức tín dụng vừa giúp doanh
nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh doanh, vừa ý thức cho doanh nghiệp về trách
nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn,
những quyết định của mình trong việc sử dụng nguồn vốn vay tổ chức tín dụng mở rộng hoặc thu
hẹp kinh doanh hiện có. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay, khi hết hạn, phải hoàn trả vốn kèm theo lãi
cho vay ngân hàng, điều đó buộc doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng khi sử dụng vốn sao cho
mang lại hiệu quả cao nhất.
Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của các tổ chức tín dụng được thể hiện qua việc tiếp nhận,
thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào tổ chức tín dụng ( thu nhận tiền bán hang do các
doanh nghiệp gởi vào tài khoản, thu nhận tiền gởi của công chúng...,) đồng thời tổ chức tín dụng

cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các daonh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của để trả lương
cho công viên chức, trả tiền mua vật liệu thu mua hàng háo…, khi công cúng rút tiền gởi để chi dung
cho những nhu cầu của mình như mua sắm tải sản, trả nợ,v.v...
Quá trình thu nhận và cung ướng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan
hệ lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực. khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế
đi qua nghiệp vụ tín dụng là những công cụ tác động trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dân cư. Bằng chính sách thu hút
và nghệ thuật kinh doanh , tổ cức tín dụng sẽ tiếp nhận khối lượng tiền mặt không nhỏ, rồi từ đó lưu
14


thông về ngân hàng khố lượng tiền mặt này sẽ đáp ứng nhu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp va
công chúng, đảm bảo nền kinh tế thường xuyên có một khối lượng tiền mặt cần thiết và hợp lý, phục
vụ cho hoạt dộng kinh doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh nghiệp, từng khu vực,
cũng như trong phạm vi toàn nền kinh tế phát triển bình thường.
3. Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tiền tệ của tổ chức tín
dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết kinh tiết vĩ mô thuộc về NHTW chức
năng này được thể hiện trên hai măt.
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hộ và soạn thảo các chính
sách tiền tệ, với chức năng và vai trò của mình NHTW có đủ điều kiện thiết lập kế hoạch tổng thể về
việc phân bổ , sử dụng các nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế.
Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản
thân của cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó.nhưng NHTW không trực tiếp giao dich
với công chúng (khách hàng), do đó phải dựa vào thông tin phải hồi của các chế định tài chính trung
gian để làm căn cứ soạn thảo chính sáh tiền tệ. Như vậy, rõ ràng nếu không có hệ thống tín dụng
trung gian, không có thông tin phản hồi do hệ thống các tổ chức tín dụng cung cấp thì việc hoạch
định chiến lược và soạn thảo các chính sách tiền tệ của NHTW sẽ không hoàn hảo.
Thứ hai, chính sánh tiền tệ được chiết khấu và khởi động từ NHTW, lan ra đến mọi ngóc
ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động của các dây chuyền của NHTG và tổ chức tài chính. Như

vậy nếu không có sự chấp nhận của tổ chức tài chính các NHTG thì ý đồ thực hiện chính sách tiền tệ
của ngân hàng sẽ không thực hiện được.
Trong việc thực thi chính sách NHTW sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm
vi toàn xã hội, mà trước hết là hệ thống các tổ chức tín dụng. Các công cụ này là các thao tác hoạt
động hàng ngày của NHTW điều tác động đến kinh tế vĩ mô trong khuân khổ chính sác tiền tệ đã
vạch ra.
Như vậy, bằng những đặc điểm và vai trò của mình là trung gian, vai trò thực thi chính
sánh tiền tệ, điều tiết kinh vi mô, vai trò tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ vĩ mô của NHTW,
TCTD là ngân hàng đã thể hiện được vai trò của mình trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ
mô của ngân hàng Trung ương thong qua chính sách tiền tệ.

15


Với đặc điểm và vai trò trên Pháp luật quy định NHNN Tái cấp vốn ngắn hạn cho các tổ
chức tín dụng nhằm mục tiêu đáp ứng vốn kịp thời cho các TCTD là ngân hàng, Điều tiết lượng tiền
trong lưu thông phù hợp với mục tiêu.

-

Việc đáp ứng đáp ứng vốn kịp thời cho các TCTD là ngân hàng, khi các các TCTD là ngân
hàng thiếu tiền mà việc huy dộng vốn không đủ để đáp ứng cho khách hàng thì TCTD là ngân
hàng sẽ vay theo hình thức tái cấp vốn ngắn hạn của NHNN giúp cho các TCTD co vốn để đáp
ứng cho thị trường và đảm bảo hoạt động.

-

Điều tiết lượng tiền trong lưu thông phù hợp với mục tiêu. Đây là mục tiêu quan trọng, với vai
trò là ngân hàng duy nhất có quyền phát hành tiền và là ngân hàng đề ra những mục tiêu
chính sánh tiền tệ NHNN không thể trực tiếp giao dich với công chúng, NHNN phải thông qua

tổ chức trung gian để thực hiện mục tiêu cính sách của mình.
Cho vay theo hình thức tái cấp vốn ngắn hạn, NHNN nhằm mục đích
+ Để tránh tình trạng lạm phát khi bơm tiền vào thị trương qua nhiều sẽ dẫn đến lạm phát.
Khi cho các TCTD là ngân hàng vay NHNN phải căn cú vào tình hình lạm phat, giảm phát

của đất nước để tiến hành bơm lượng tiền vào thị trường làm sao cho phù hợp với tình hình quốc gia,
tránh tình trạng bơm quá nhiều thì dẫn đến lạm phát.
+ Để đảm bảo có thể rút vốn về khi cần thiết.
Khi cho các TCTD vay theo hình thức tái cấp vôn ngắn hạn NHNN luân mong muốn nhanh
chong nhận về số vốn và lãi để tạo cho các TCTD linh hoạt trong hoạt động vốn.
+ Tạo tính linh hoạt để các ngân hàng huy động vốn them từ bên ngoài.
Tái cấp vôn ngắn hạn khi các TCTD thiếu tiền cung ương cho thị trường, việc huy động
nguồn vốn khác chưa đáp ứng nhu cầu thì sẽ tiến hành vay ngắn hạn của NHNN,NHNN cho vay
ngắn hạn trong 1 khoảng thời gian ngắn nhát định với lãi suất phù hợp, các TCTD phải tự ý thức
huy dộng nguồn vốn khác từ bên ngoài để đảm bảo hoạt động, không ỷ lại nguồn vốn cảu ngân hàng
nhà nước.
Vậy Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, và lượng tiền cung ứng thêm trong năm
kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng .Tái
cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín
dụng của các NH trung gian, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được không chế để kiềm chế lạm

16


phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Tái cấp vốn được coi là hình thức phát triển lành mạnh, vì
nó dựa trên thương phiếu là một loại giấy tờ có giá tượng trưng cho những món nợ về thương mại và
đằng sau nó có vật tư hàng hóa. Qua việc cấp tín dụng NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy toàn bộ
hệ thống NH trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ bởi vì
không phải lúc nào hoạt động của các NH trung gian cũng diễn ra trôi chảy thuận lợi, cũng có lúc,
nhu cầu rút tiền lớn, NH trung gian lâm vào tình trạng thiếu vốn. Đối với các NH trung gian, với tư

cách là người “ đi vay vốn để cho vay”, khi vốn khả dụng bị đe dọa, NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh
của họ, vì họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán bằng
tiền trung ương vừa được cung ứng.
NHTW điều tiết hoạt động cho vay của các NH trung gian thông qua lãi suất tín dụng.
Thông thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên
thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, làm sao dung hòa được 2 yêu cầu: nâng lãi suất
huy động để thu hút được nguồn vốn và kìm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay,
nâng đỡ sản xuất.Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, NHTW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền
gửi và tiền vay của NH trung gian bằng lãi suất tái chiết khấu của mình, nhằm điều tiết cung cầu tín
dụng. Để bành trướng hay thu hẹp khối tiền tệ, NHTW áp dụng một lãi suất tái chiết khấu khích lệ
hay làm nản lòng các NH trung gian trong việc đi vay vốn NHTW, khi cần mở rộng tín dụng, NHTW
hạ thấp lãi suất tái chiết khấu, làm “rẻ” tín dụng để kích thích đầu tư. Ngược lại khi cần thắt chặt tín
dụng, NHTW
sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên, làm “đắt” tín dụng để hạn chế đầu tư.
Tóm lại khi NHTW cho các tổ chức tín dụng vay sẽ đẫn đến tăng tiền nghĩa là một khối lượng
tiền được đưa vào lưu thông và khoảng tín dụng mà các NHTM nhận được đã trở thành nguồn vốn
nhằm mở rộng cho hoạt động đầu tư, cho vay đối với nền kinh tế.

• Thực trạng thực hiện hoạt động tái cấp vốn trong 2 năm qua.
* Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đã đạt được những
kết

quả

đáng

khích

lệ


như:

Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian
qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn
được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi
suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị
trường

trong

từng

thời

kỳ.

17


Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu
cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân
hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết
Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại
do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt
này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự
cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm
bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái
cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ
các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình (nay là NHTMCP Dầu

khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt
đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng
rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng.
Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh
toán cho 2 ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày
(trước

đây

thường

3

đến

4

ngày).

Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với NHNN ngày
càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ
vay vốn với NHNN.
Gần đây Theo Quyết định số 271/QĐ-NHNN của NHNN, lãi suất tái cấp vốn là 11%/năm
và tiếp tục Ngày 29/4, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN về lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân
hàng.NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu 13%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ
của NHNN đối với các ngân hàng là 14%/năm. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/5.


-

Việc cho vay của NHNN đối với các TCTD là ngân hàng, thông qua cửa sổ tái cấp vốn là một
hình thức đòn bẩy tín dụng. Việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức 11%,12%,13% rồi gần đây
là 14% trong thời gian vừa qua cho thấy được chính sách tiền tệ kinh hoạt của NHNN, đảm
bảo khả năng thanh toán cho các TCTD mặt khác khi tình hình lạm phát lên cao NHNN
muốn nhanh chóng rút tiền khỏi nền kinh tế.Tăng lãi suất vay ngắn hạn đồng nghĩa với việc
18


NHNN thắt chặt tiền tệ là một biện pháp cần thiết để ngăn chặn lạm phát, đông thời nhằm đến
mục tiêu khác là ổn định tỷ giá, việc tăng lãi suất đông nghĩa với đồng nội sẽ có gái trị cao hơn
đồng ngoại tệ.
* Bên cạnh những ưu điểm như trên, chính sách tái cấp vốn của NHNN cũng còn có những
hạn chế như:
Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung – cầu vốn trên thị trường
tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi suất thị trường,
những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không
có tác động điều tiết. Mặc dù NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát
lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái
cấp vốn là lãi suất trần nhưng NHNN còn chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường
tiền tệ, do vậy, khung lãi suất chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị
trường.
Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và phương
tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo
mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa
trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát
huy.
Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định khiến cho

nghiệp

vụ

tái

cấp

vốn

chưa

phát

huy

được

hiệu

quả:

+ Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các
ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn
tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ.
Lạm phát hiện nay đã ở mức trầm trọng, mục tiêu về tăng trưởng cung tiền và tín dụng đang ở
trong vòng xoáy của lạm phát, tuy tăng lãi suất cấp tái vốn nhưng việc cung tiền và tín dụng vẫn thả
chưa thực sự thắt chặt tiền tệ, chặng hạn như quý I năm 2010 cung tiền và tín dụng vẫn được thả ở
mức 2% và xáp xỉ lên 4%.
Theo thống kê lạm phát từ năm 2007 – 2010 như sau.

+ Năm 2007 là 12.63%.
+ Năm 2008 mức lạm phat tăng là 18.89%.
+ Năm 2009 giảm xuống,mức lạm phát còn 6.88%.

19


+ Năm 2010 mức lam phát lại lên cao hơn so với năm 2009, mức lạm phát là 11.75%.
Vậy qua số liệu thống kê mức lạm phát cho thấy mức lạm phát cao nhất là năm 2008 và được
gọi là siêu lạm phát qua đó thấy cính sánh tiền tệ của NHHN vẫn chưa đạt hiệu quả, và năm 2009
mưc lạm phát có giảm , cho thấy công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có công cụ tái cấp
vốn trong những năm 2009 có hiệu quả minh chứng là mức lạm phát trong năm 2009 có giảm xuống
còn 6.88%, nhưng năm 2010 do biến động tình hình chính trị kinh tế trên thế giới và kinh tế trong
nước, mức lạm phat có xu hướng tăng trở lại xấp xỉ gần năm 2007 vậy cho thấy các công cụ thực
hiện chính sách tiền tệ trong đó có công cụ tái cấp vốn thực sự chưa có hiệu quả, và với tình hình
biến động kinh tế xã hội trên thế giới dự đoán năm 2011 mức lạm phát vẫn chưa thể giảm và có xu
hướng tăng cao nếu như NHNN và chính phủ thực hiện chính sách tiện tệ không hiệu quả.
Công cụ chính sách tiền tệ là tái cấp vốn cho các TCTD là ngân hàng chưa thực sự có hiệu
quả mặc dù từ năm 2009 NHNN bắt đầu chính sách thắt chặt tiền tệ bằng việc tăng lãi suất tái cấp
vốn. Mục tiêu của những đợt điều chỉnh lãi suất gần đây nhằm ngăn chặn lạm phát và ổn định tỷ giá,
nhưng việc tăng lãi suất này có thể kích hoạt một đợt nâng lãi suất lên cao, trước đây lãi suất cơ bản
được xác định trần lãi suất cho vay của thị trường tuy nhiên, hiện nay điển hình lại là công cụ lãi
suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn.
Quyết định nâng lãi suất tái cấp vốn là bước đi đầu tiên để kiềm chế lạm phát, nhưng sẽ tác
động bất lợi tới thị trường chứng khoán trong ngắn hạn trước tiên do kỳ vọng về dòng tiền tiêu cực
hơn, ngoài ra doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn khi chi phí vốn tăng thêm. Vì vậy, trong ngắn hạn thị
trường chứng khoán sẽ vẫn còn khó khăn, tuy nhiên, chúng ta có thể kỳ vọng biện pháp thắt chặt tiền
tệ sẽ tác động tích cực tới thị trường trong dài hạn khi môi trường vĩ mô được thiết lập ổn định.
Trong thời kỳ lạm phát, thanh khoản của hệ thong TCTD vẫn đang còn ỷ vào ngồn vốn của
NHNN Khi thiếu vốn để lưu thông, nhất là các NHTM luân ỷ lại vốn của NHNN.Nên cần việc thanh

khoản của hệ thống TCTD cần phải được cải thiện nhờ thu hút tiền gởi từ công chúng chứ không
nên ỷ lại kênh bơm tiền từ NHNN.

20


21



×