Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

vai trò của triết học mác lenin trong thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.33 KB, 19 trang )

1. Triết học là gì?
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
a. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI
TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con
đường suy ngẫmđể dẫn dắt con ngời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữ
triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự miêu tả, mà là quá
trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Philôsôphia”,
nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học đợc xem là hình thái cao nhất của tri
thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con ngời về thế giới; về vị trí, vai trò của con ngời trong thế giới
ấy.
Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình,
mà đợc xem là"khoa học của mọi khoa học".

1


Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là
khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng
bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học" của
một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên
và xác định đối tợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học
là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ngời đối với thế giới; là khoa


học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của
thế giới, triết học xem xét thế giới nh một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các
quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Mặc
dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng là
đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối
quan hệ của con ngời nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất, triết
học không thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài nười. Triết học chỉ có
thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao
động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống
hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và trên cơ
2


sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng
chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình
tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.
Thứ hai, con ngời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết
nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút ra đợc
cái chung từ vô số các sự vật và hiện tợng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết, lý
luận.
Điều đó khẳng định rằng, với t cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra
đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.
1.2. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân
con người, về cuộc sống và vị trí con người trong thế giới đó.
Đặc tính của tư duy con ngời là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ; song

tri thức mà con ngời đạt đợc luôn luôn là có hạn. Quá trình tìm hiểu về quan hệ
giữa con người với thế giới đã hình thành nên những quan niệm nhất định, trong đó
có sự hoà quyện thống nhất giữa cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin. Tri thức là
cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan
khi đã trở thành niềm tin định hớng cho hoạt động của con người.
Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa vào tri
thức, là sự diễn tả quan niệm của con nười dưới dạng hệ thống các quy luật, phạm
3


trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa
đó, triết học đợc xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan
điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
2. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Ngay từ thời cổ đại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ngời với thế giới
bên ngoài. Triết học ra đời cũng giải quyết vấn đề đó, nhng ở tầm khái quát cao
hơn là mối quan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa t duy với tồn
tại"( C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.21, tr.403); bởi vì
việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác
của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập trờng thế giới quan của các
triết gia và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trớc, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con ngời có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay
không? Nghĩa là con ngời có khả năng nhận thức hay không?
Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các trờng phái và các học
thuyết triết học khác nhau.

4


2.2. Các trờng phái triết học
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia
các học thuyết triết học thành hai trờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm.
a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới vật chất
tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ngời và không do ai sáng tạo
ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người;
không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát
triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dới
nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự
nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi
thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất
cụ thể. Ví dụ nh quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hởng của Cơ học cổ
điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phơng pháp
t duy siêu hình, máy móc - phơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập,
tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhng CNDV siêu hình vẫn đóng vai
5


trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví
dụ nh quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa

tinh hoa của các học thuyết triết học trớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa
học đơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục
đợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà
còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện
thực ấy.
b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và quyết định giới tự
nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con
ngời, khẳng định mọi sự vật, hiện tợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá
nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhng đó
không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trớc và tồn tại độc lập
với con ngời, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và t duy. Nó thờng đợc
mang những tên gọi khác nhau nh ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay
lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.

6


Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc
nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lợng xã hội, các giai
cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học.
Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lợng xã hội, các giai cấp
phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình
nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t duy triết học.
Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t tởng giữa các giai cấp đối lập trong

xã hội.
c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế
giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị
nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích
mọi hiện tợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật
chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ
nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm
khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
2.2.2. Thuyết không thể biết
Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, đại đa số các nhà triết
học( cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con ngời, nhng với những cách lý giải trái ngợc nhau. Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ chỗ
coi vật chất có trớc, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới vật chất đã thừa nhận
con ngời có thể nhận thức đợc thế giới khách quan và các quy luật của nó. Còn chủ
7


nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trớc và quyết định vật chất nên nhận thức không
phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý
thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là nguồn gốc của nhận thức.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con ngời đợc gọi là thuyết
không thể biết. Họ cho rằng, con ngời không thể hiểu đợc đối tợng hoặc nếu có
hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình ảnh về đối tợng mà các giác quan của con ngời cung cấp trong quá trình nhận thức không đảm
bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan niệm của Beccơly, Hium.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Một vấn đề rất quan trọng mà triết học phải làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện tợng
của thế giới xung quanh ta tồn tại nh thế nào?
Vấn đề này có nhiều cách trả lời khác nhau, nhng suy đến cùng đều quy về hai
quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
3.1. Phương pháp siêu hình
- Nhận thức đối tợng trong trạng thái cô lập, tách rời đối tợng khỏi các chỉnh thể

khác; giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- Nhận thức đối tợng trong trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự biến
đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi nằm ở bên ngoài sự vật.
Như vậy, phương pháp siêu hình là phơng pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt
8


lập, tĩnh tại với một t duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn
tại..mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy trạng thái tĩnh.. mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây
mà không thấy rừng".(Sđd, t.20, tr.37).
3.2. Phương pháp biện chứng
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái liên hệ với nhau, ảnh hởng lẫn nhau và ràng
buộc lẫn nhau.
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển; đó là quá
trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tợng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn bên trong của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên
hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả
mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả
sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh..mà còn
thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy cả rừng".
Phương pháp biện chứng đã phát triển trải qua ba giai đoạn và đợc thể hiện qua ba
hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng
duy tâm, phép biện chứng duy vật.
- Trong phép biện chứng tự phát thời cổ đại, các nhà biện chứng cả phơng Đông và
9



phương Tây đã thấy các sự vật, hiện tợng trong vũ trụ sinh thành, biến hóa trong
những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhng đó mới chỉ là cái nhìn trực quan, cha phải
là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
- Trong phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao là triết học cổ điển Đức (ngời khởi
xớng là Cantơ và ngời hoàn thiện là Hêghen), lần đầu tiên trong lịch sử t duy nhân
loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất của phơng pháp biện chứng. Nhng đó là phép biện chứng duy tâm, bởi
nó bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần; thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép
ý niệm tuyệt đối.
- Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần
bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen để
xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ
biến và về sự phát triển dới hình thức hoàn bị nhất.
4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đợc thể hiện qua chức năng của triết học
như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng quan
trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
4.1. Chức năng thế giới quan và phơng pháp luận của triết học
Trong cuộc sống của con ngời và xã hội loài ngời, thế giới quan đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con ngời tìm cách khám
phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan nh một thấu kính, qua
đó con ngời nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh và
10


tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của
chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Triết học ra đời với t cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển nh một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn

và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc
thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là phương pháp luận. Phương pháp
luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi,
xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phơng pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phơng pháp luận bộ môn) là phơng pháp luận của
một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phơng pháp luận đợc sử dụng cho một số ngành khoa
học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phơng pháp luận đợc dùng làm điểm xuất phát
cho việc xác định các phơng pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các
phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con ngời trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và t duy, triết học thực hiện chức năng phơng pháp luận chung
11


nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc
xác định phơng pháp, là một lý luận về phơng pháp.
4.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự
nhiên cũng nh đời sống xã hội và tư duy con ngời.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phơng pháp biện chứng
duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật
trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học
Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện
chứng duy vật không chỉ là lý luận về phơng pháp mà còn là lý luận về thế giới

quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định
hớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát
điểm của phơng pháp luận.
Nh vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phơng pháp luận thống nhất
hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một
"công cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự
phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngợc lại, triết
học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phơng pháp luận đúng đắn cho sự phát
triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết
học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ
khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngợc lại, nếu
12


không đứng vững trên lập trờng duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì trớc những phát hiện mới, ngời ta dễ mất phơng hớng và đi đến những kết luận sai
lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học
Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh
thần và năng lực tư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ
quan và phơng pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
cần tránh cả hai khuynh hớng sai lầm: hoặc xem thờng triết học hoặc là tuyệt đối
hóa vai trò của triết học. Nếu xem thờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ
bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phơng hớng, thiếu chủ
động và sáng tạo. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa
giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến
tình hình cụ thể trong những trờng hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

Nước ta thuộc vào nhóm các nước đang phát triển. Do đó, để thực hiện mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, chúng ta không có con đường
nào khác là phải CNH - HĐH.đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định: "Đây là
nhiệm vụ trọng tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới" (1). Nhưng để
thực hiện được nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu đó, chúng ta không thể
không sử dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Nói cách
khác khoa học, kỹ thuật và công nghệ có vai trò hết sức to lớn trong công
cuộc CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong bài báo này, chúng tôi không có
tham vọng làm sáng tỏ vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ mà chỉ muốn

13


nêu lên một số suy nghĩ về vai trò của triết học với tư cách là một khoa học đối với
công cuộc CNH - HĐH ở nước ta.
Trước hết, khi nói đến vai trò của triết học chúng ta thường nói đến vai trò thế giới
quan và phương pháp luận của nó. Vai trò thế giới quan của triết học được thể hiện
ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta cách lí giải về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó. Như vậy, triết học sẽ cung cấp cho chúng ta cách nhìn tổng quát
về thế giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng.
Tuy nhiên, cũng như mọi lí luận, triết học không chỉ làm nhiệm vụ lý giải những
vấn đề của thế giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng, mà còn trên cơ sở
của sự lí giải ấy, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động. Vì
vậy, một triết học khoa học sẽ giúp con người có sự định hướng đúng đắn trong
hành động. Lịch sử phát triển của khoa học đã chỉ ra rằng mỗi nhà khoa học, dù có
tuyên bố hay không tuyên bố, đều chịu chi phối bởi một loại thế giới quan hay một
hệ thống các quan điểm triết học nhất định. Nhờ đứng trên quan điểm triết học
đúng đắn, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những phỏng đoán thiên tài mà sau nhiều
năm đã được khoa học xác nhận. Chẳng hạn, nhờ có quan điểm duy vật biện
chứng, F.Engen đã đưa ra nhiều phỏng đoán có giá trị trong tác phẩm "Biện chứng

của tự nhiên" và cho đến nay hầu hết các phỏng đoán đó đã được khoa học tự
nhiên xác nhận. Hoặc vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX những thành tựu nổi
bật của vật lý học đã dẫn đến cái gọi là "cuộc khủng hoảng trong khoa học tự
nhiên" và là nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm "vật lý học". Nhưng
nhờ có thế giới quan duy vật biện chứng mà Lênin đã vạch ra thực chất của cuộc
khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, đồng thời vạch ra cho các nhà khoa học tự
nhiên con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó.

14


Trong thực tiễn xã hội, chúng ta khó có thể kể hết vai trò thế giới quan và phương
pháp luận to lớn của triết học đối với xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng
nhiều hệ thống triết học đã từng đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận
cho những cuộc cách mạng vĩ đại. Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế cuộc sống
hiện tại chúng ta có thể khẳng định rằng nếu có một hệ thống các quan điểm triết
học đúng đắn làm cơ sở thì bản thân sự nghiệp CNH - HĐH sẽ được tiến hành một
cách vững chắc hơn và ổn định hơn.
Cũng như mọi giai đoạn lịch sử, trong công cuộc CNH - HĐH, vai trò của triết học
được thể hiện ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Nhưng bản
thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học không được biểu
hiện một cách chung chung thông qua quần chúng nhân dân lao động mà được thể
hiện một cách tập trung nhất thông qua những người làm nhiệm vụ hạch định chính
sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Bởi vì công cuộc công nghiệp
hóa và hiện đại hoá đất nước được tiến hành như thế nào, cách thức và những bước
đi của nó ra sao trước hết là do những người làm công tác hoạch định chính sách
và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn quyết định. Mặt khác, bản thân triết
học lại là loại lí luận tổng quát nhất, cho nên vai trò của nó cũng chủ yếu được thể
hiện ở tầm đường lối, quan điểm khi hoạch định chính sách. Do vậy, nếu có tư duy
triết học đúng đắn thì những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo

hoạt động thực tiễn mới có thể đưa ra được những quan điểm, những bước đi và
những biện pháp phù hợp trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá, đồng
thời chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương đó một cách có hiệu quả.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng bất kỳ một chủ thể, một chính sách nào đem áp dụng trong
thực tế đều có hai mặt: mặt tích cực và mặt tiêu cực: vấn đề là ở chỗ phải biết sử
dụng tốt mặt tích cực đồng thời phải hạn chế mọt cách tối đa để chấp nhận những
hậu quả tiêu cực ở mức thấp nhất. Để làm được điều đó cần có một loạt các chính
15


sách đi kèm. Vì vậy, muốn đưa ra được những chính sách hữu hiệu đòi hỏi những
người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử
cụ thể mà muốn cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể thì cần có tư duy triết học
đúng đắn.
Tuy nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa rằng đã có tư duy triết học đúng
đắn những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực
tiễn có thể đưa ra những chính sách hữu hiệu. Trái lại, theo chúng tôi, tư duy triết
học chỉ là điều kiện cần và để có những chính sách hữu hiệu ngoài việc nắm vững
các quan điểm triết học, những người làm công tác hoạch định chính sách và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn cần có sự tinh thông về nghề nghiệp, am hiểu thực tiễn,
đồng thời phải biết vận dụng một cách nhuần nhuyễn các quan điểm triết học vào
công việc cụ thể của mình.
Như vậy, vai trò đầu tiên của triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và
phương pháp luận của nó đối, với công cuộc CNH- HĐH đất nước. Nhưng bản
thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học lại chủ yếu được
thực hiện thông qua những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Do đó, vai trò của triết học được thể hiện ở chức năng thế giới
quan và phương pháp luận là vai trò gián tiếp. Nhưng, bản thân triết học không chỉ
có vai trò gián tiếp mà còn có vai trò trực tiếp đối với công cuộc công nghiện hóa,
hiện đại hóa. Vậy vai trò trực tiếp của triết học được thể hiện như thế nào?

Như trên đã khẳng định, nước ta thuộc vào nhóm các nước đang phát triển. Sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá được tiến hành sau một loạt nước trong
khu vực và trên thế giới. Đó là một khó khăn và thiệt thòi lớn, nhưng đồng thời nó
cũng tạo ra cho chúng ta những thuận lợi nhất định. Cái thuận lợi được thể hiện
trước hết ở chỗ thông qua những kinh nghiệm thành công và không thành công của
16


các nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Nhiệm vụ của triết học
là nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học bổ ích đó.
Kinh nghiệm của một số nước đã tiến hành CNH - HĐH trong khu vực đã chỉ ra
rằng để cho một xã hội phát triển lành mạnh ngay từ đầu cần có quan điểm phát
triển toàn diện cả về mặt lành mạnh các mặt khác của đời sống xã hội. Nếu không
có quan điểm phát triển toàn diện, ngay từ đầu thì trước sau cũng sẽ phải giải quyết
những hậu quả của các ở Thái Lan, trong quá trình CNH - HĐH, do nhu cầu về
việc làm và đời sống, Chính phủ Thái Lan đã dùng mọi biện pháp để khuyến khích
đầu tư nước ngoài, phát triển dịch vụ du lịch... Nhờ vậy nền kinh tế của Thái Lan
phát triển tương đối nhanh chóng. Nhưng bên cạnh đó một loạt vấn đề xã hội đang
được đặt ra cho Chính phủ Thái Lan như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trầm
trọng, vấn đề ô nhiễm môi trường, bệnh AIDS và các tệ nạn xã hội khác. Lúc đầu
những nhà lãnh đạo Thái Lan cũng tưởng rằng những người giàu sau khi đã giàu
lên ở mức cần thiết thì họ sẽ nghĩ đến người nghèo và như vậy là sự phân hóa giàu
nghèo không trở thành một vấn đề xã hội. Nhưng thực tế không phải như vậy,
những người giàu càng muốn giàu lên mãi và sự phân hóa giàu nghèo phải được
giải quyết bằng những chính sách xã hội hợp lý, chữ không thể bằng sự tự nguyện
của những người giàu. Bên cạnh đó, một loạt vấn đề xã hội khác đang đòi hỏi
Chính phủ Thái Lan phải có những biện pháp cấp bách. Chính vì vậy, trong những
năm tới, Chính phủ Thái Lan chủ trương giảm nhịp độ phát triển kinh tế để tập
trung sức giải quyết các vấn để xã hội. Theo chúng tôi, bài học của Thái Lan và

những bài học tương tự như vậy ở các nước trong khu vực và trên thế giới có lẽ
cũng là những điều bổ ích đối với chúng ta trong quá trình CNH - HĐH đất nước.
Thực ra, nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học bổ
ích cho nước ta là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng những
17


bài học mà triết học rút ra sẽ là những bài học mang tính khái quát cao. Khác vời
các khoa học khác, xuất phát từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, triết
học có nhiệm vụ phải rút ra được cái gì là cái chung và tất yếu đối với tất cả các
nước hoặc đối với một nhóm nước khu vực trong quá trình CNH - HĐH. Việc tìm
ra được cái chung và cái tất yếu trong quá trình CNH - HĐH sẽ giúp cho chúng ta
khỏi mò mẫm, tránh được nhưng vấp váp không cần thiết khi giải quyết những
nhiệm vụ của bản thân chúng ta. V.I.Lê nin đã từng chỉ ra rằng: ...Người nào bắt
tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đềchung, thì kẻ đó, trên
mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn đề chung đó một cách
không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong những trường hợp
riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ
nhất và mất hẳn tính nguyên tắc"(2)
Tuy nhiên, bản thân triết học không dừng lại ở việc nghiên cứu những kinh nghiệm
để rút ra những cái chung, và cái tất yếu trong quá trình CNH - HĐH mà đi xa hơn
nữa, tức là nghiên cứu xem bản thân cái chung đó và tất yếu đó được áp dụng vào
điều kiện của Việt Nam như thế nào? Nói một cách khác, cần làm sáng tỏ mối quan
hệ biện chứng cái phổ biến và cái đặc thù trong quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam .
Như vậy, vai trò trực tiếp của triết học được thể hiện ở nhiệm vụ nghiên cứu những
kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới đã tiến hành công nghiệp
hóa và hiện đại hoá nhằm rút ra những cái chung và tất yếu, đồng thời xem xem
những cái chung và tất yếu đó được áp dụng vào những điều chỉnh cụ thể của Việt
Nam như thế nào. Song mục đích của các nghiên cứu triết học không phải chỉ để
nghiên cứu mà nhằm phục vụ thực tiễn. Vì vậy, vai trò trực tiếp của triết học còn

được thể hiện ở nhiệm vụ phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Điều đó có nghĩa là từ các nghiên cứu của mình các nhà triết học có
nhiệm vụ góp tiếng nói phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
18


nước, để trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước có điều kiện đưa ra các chủ trương và
chính sách hợp lý nhất.
Thực ra, phản biện là một nhiệm vụ, một chức năng của bất kỳ các ngành khoa học
nào trên con đường tìm ra chân lỹ. Trong thời gian trước Đại hội VI, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, triết học chú yếu tập trung làm nhiệm vụ thuyết minh các
chú trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà bỏ quên nhiệm vụ phản biện. Kể
từ Đại hội VI đến nay, cùng với xu hướng đổi mới triết học đã bắt đầu không chỉ
làm nhiệm vụ thuyết minh mà còn góp những tiếng nói phản biện cho các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện ngày nay, để
thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH, triết học đã có nhiều tiếng nói phản
biện có hiệu quả hơn nữa. Điều đó, theo chúng tối, phụ thuộc vào cả hai phía, phía
các nhà triết học lẫn phía Đảng và Nhà nước. Một mặt, để có những tiếng nói phản
biện nhờ giá trị, các nhà triết học phải có những công trình nghiêm túc có giá trị
khoa học. Mặt khác, Đảng và Nhà nước phải có những cơ chế cho phép các nhà
triết học được phát biểu thẳng thắn những ý kiến, những suy nghĩ của mình mà
không hề lo ngại về bất cứ vấn đề gì.
Tóm lại, trong công cuộc CNH - HĐH ở nước ta, triết học cũng có vai trò nhất
định của mình. Sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta được tiến hành như thế nào, quy
mô và nhịp độ của nó ra sao điều đó một phần tuỳ thuộc vào đóng góp của triết
học.

19




×