Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG VIỆC CÔNG BỐ VÀ DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.71 KB, 12 trang )

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG
VIỆC CÔNG BỐ VÀ DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT.
Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) là một loại văn bản đặc thù, thể hiện
ý chí của chủ thể ban hành, có tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng
các biện pháp đa dạng trong đó có cưỡng chế nhà nước. Khác với văn bản cá biệt,
văn bản quy phạm pháp luật quy định các quy tắc xử sự chung làm phát sinh hoặc
thay đổi các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tương ứng.
Vì vây, điều kiện để một VBQPPL có hiệu lực, ngoài những yêu cầu cơ bản như
tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi... phải kể đến tính dân chủ, công khai của quá
trình lập pháp, lập quy và tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật.
Thuật ngữ “Tính minh bạch của pháp luật” bắt đầu được sử dụng nhiều trong
các tài liệu nghiên cứu kể từ khi nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa
và chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt là từ khi Hiệp định thương mại ViệtMĩ được kí kết thì thuật ngữ này được nhắc đến nhiều hơn. Theo cách nói thông
thường “Minh bạch” được hiểu là sự rõ ràng, ai cũng biết. Không thể nói rằng, khi
một văn bản pháp luật được đăng công khai trên phương tiện thông tin đại chúng là
văn bản đó đã có tính minh bạch, bất luận nội dung của nó như thế nào. Và ngược
lại, một văn bản pháp luật cho dù được xây dựng rất chi tiết, cụ thể, rõ ràng, bảo
đảm tính phù hợp, tính thống nhất đồng bộ, tính hợp hiến hợp pháp... nhưng không
được công bố để mọi người tìm hiểu thi hành thì cũng không thể nói đã đảm bảo
tính minh bạch.
Như vậy, nội dung của tính minh bạch bao gồm hai yếu tố : một là: phải rõ
ràng, rành mạch và hai là : phải có tính công khai, ai cũng có thể biết. Minh bạch
thường gắn liền với công khai, hay nói cách khác, tính công khai vừa là thuộc tính

12


của minh bạch, vừa là điều kiện để thể hiện tính minh bạch. Có thể trong các tài
liệu nghiên cứu, tùy theo các góc độ nghiên cứu khác nhau mà người ta có thể phân
chia ra nhiều yêu cầu cụ thể đối với tính minh bạch. Trong phạm vi bài luận này,
nội dung của tính minh bạch, công khai sẽ được tiếp cận dưới góc độ của việc công


bố và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
II. NHỮNG YÊU CẦU NHẰM ĐẢM BẢO TÍNH CÔNG KHAI, MINH
BẠCH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ VÀ DỰ THẢO VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT
1. Tính công khai, minh bạch trong giai đoạn chuẩn bị.
a. Giai đoạn lập chương trình xây dựng pháp luật: Mục 2, chương III
của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là luật) đưa ra các yêu
cầu và trình tự tiến hành việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Tính công
khai và minh bạch hóa việc lập chương trình được thể hiện ở những quy định cho
phép các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền sáng kiến lập pháp đều có quyền
gửi để nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến ủy ban thường vụ quốc hội(UBTVQH) và
chính phủ. Sau đó, chính phủ lập dự kiến chương trình xây dựng pháp luật, pháp
lệnh để UBTVQH xem xét quyết định xây dựng chương trình luật, pháp lệnh cả
nhiệm kì và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm sẽ do Quốc Hội quyết
định. Điều 59 về các yêu cầu và trình tự tiến hành việc lập và thông qua chương
trình xây dựng nghị quyết, nghị định cũng cho thấy tính công khai, minh bạch của
quy trình này, theo đó các Bộ, các cơ quan tổ chức, cá nhân hữu quan đề xuất việc
xây dựng nghị quyết, nghị định.
Luật không quy định căn cứ để cơ quan tổ chức và cá nhân có quyền đề
xuất xây dựng pháp luật hoặc quyết định việc đề xuất xây dựng pháp luật dựa trên
căn cứ nào. Mặc dù, theo quy định gián tiếp của luật thì khi đề xuất việc xây dựng
văn bản pháp luật cơ quan, tổ chức và cá nhân phải nêu ra sự cần thiết ban hành

12


văn bản pháp luật đó, nhưng thực tế cho thấy các lý do về tính cần thiết, nghiên cứu
ban hành, sửa đổi, bổ sung VBQPPL chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của cơ quan
quyền lực nhà nước liên quan, của cơ quan thực thi văn bản pháp luật liên quan,
chứ rất ít trường hợp tiến hành khảo sát nghiên cứu thực tiễn xã hội, đặc biệt là ý

kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của VBQPPL đó. Việt Nam
không phải là trường hợp ngoại lệ, ở hầu hết các quốc gia, các dự luật đều bắt đầu
từ việc những cán bộ thực thi pháp luật phát hiện ra những khó khăn, cản trở và đề
xuất những thay đổi đối với pháp luật hiện hành. Thực tế cho thấy ở những nơi mà
trong quá trình chuẩn bị chương trình xây dựng dự án luật hoặc sửa đổi, bổ sung
pháp luật mà ý kiến khảo sát nghiên cứu xã hội, ý kiến phản hồi người dân và đặc
biệt là nhưng đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án pháp luật được xem xét
cân nhắc thì chương trình xây dựng pháp luật được coi là sát với thực tế và đáp ứng
được nhu cầu xã hội hơn. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
trình tự ưu tiên xây dựng pháp luật và tính liên kết giữa các đạo luật sẽ được ban
hành để đảm bảo tính đồng bộ và tính khả thi của văn bản pháp luật.
Ví dụ : Khi soạn thảo luật xây dựng, ngoài việc lấy ý kiến các cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương, địa phương và ý kiến đóng góp của các đối
tượng trực tiếp thi hành văn bản, bổ sung thành viên tổ biên tập từ các doanh
nghiệp-tổng công ty xây dựng Sông Đà, tổng công ty xây dựng Hà Nội... ban soạn
thảo luật tự xét thấy cần thiết nên đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi từ các tổ
chức như : hiệp hội xây dựng Việt Nam, hội kiến trúc sư Việt Nam, hội tư vấn xây
dựng Việt Nam, hội vật liệu xây dựng Việt Nam, Hội cấp nước Việt Nam... vì vậy
nội dung dự thảo đóng góp luật sau khi lấy ý kiến đã được cụ thể thêm về tính thực
tiễn, tính khoa học và làm cho chất lượng văn bản được hoàn thiện hơn.
b. Thành lập ban soản thảo: Soạn thảo văn bản pháp luật là hoạt động
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hình thành nên dự thảo văn bản

12


pháp luật. Hoạt động này được tiến hành theo nhiều quy trình khác nhau, được thể
hiện bởi sự phối hợp, tham gia của nhiều chủ thể. Do đó, để đảm bảo tính công khai
và minh bạch trong việc công bố và dự thảo VBQPPL luật cũng quy định phải
thành lập ban soạn thảo đối với các VBQPPL do Quốc Hội và UBTVQH ban hành.

Ban soạn thảo do UBTVQH hoặc cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm chủ trì
việc soạn thảo ra quyết định thành lập. Để soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết,
nghị định của chính phủ cũng phải thành lập cơ quan soạn thảo, nhưng không nhất
thiết thành lập ban soạn thảo đối với các VBQPPL khác.
2. Tính công khai, minh bạch trong quá trình soạn thảo.
Hoạt động soạn thảo VBQPPL có được coi là minh bạch và công khai hay
không phụ thuộc rất nhiều vào công việc soạn thảo văn bản đó có công khai đối với
công chúng và người dân có thể tiếp cận được các dự thảo đó hay không. Mặt khác,
mức độ tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và cá nhân bao gồm các
đối tượng chịu sự điều chỉnh của VBQPPL đang soạn thảo cũng là tiêu chí đánh giá
tính công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân để bảo đảm thực sự rằng
pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân. Muốn thế phải thực hiện các trình tự như
sau:
Thứ nhất : Pháp luật phải được tổ chức soạn thảo, ban hành một cách dân
chủ và công khai, phải được biết trước. Khi bắt tay xây dựng một VBQPPL cần
tính đến khả năng cho phép mọi người, đặc biệt là những đối tượng sẽ bị ảnh hưởng
trực tiếp nhiều nhất bởi văn bản pháp luật được ban hành, nhất thiết phải được biết,
phải được phát biểu ý kiến và ở chừng mực nhất định có thể được tham gia đóng
góp ý kiến cho dự thảo văn bản, hoặc tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản
hoặc một số vấn đề cốt yếu của văn bản. Sự tham gia đóng góp ý kiến của nhân

12


dân, đặc biệt là các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp nhiều nhất của văn bản sẽ
rất có lợi và là một yêu cầu hết sức khách quan bở những lẽ sau đây:
- Thông qua đó, người hoạch định chính sách hiểu sát thực tế để có được
những quyết định, chính sách phù hợp, làm cho đối tượng bị điều chỉnh có cơ hội
phản ánh ý kiến, hiểu nội dung quy định và thực hiện đúng. Đây cũng là một hình
thức tuyên truyền phổ biến mang tính tích cực, chủ động làm cho các quy định của

văn bản thực sự đi vào cuộc sống khi ban hành. Ngoài ra, việc lấy ý kiến các đối
tượng này còn nhằm cung cấp thêm cho cơ quan soạn thảo những thông tin, cách
nhìn thực tế để cơ quan soạn thảo xem xét, cân nhắc và có những điều chỉnh cần
thiết bảo đảm cho văn bản mang tính cụ thể, sát thực tế và dễ dàng đi vào cuộc
sống hơn. Nói như vậy bời vì không có ai có thể hiểu rõ hoàn cảnh, điều kiện của
các đối tượng trực tiếp chịu sự điều chỉnh của văn bản bằng chính bản thân họ. Ví
dụ : muốn biết một VBQPPL về đánh bắt cá tác động như thế nào đến những người
hành nghề đánh bắt cá thì điều tất nhiên phải hỏi ý kiến của các ngư dân...
- Mặt khác, quy trình ban hành văn bản pháp luật là một quá trình phức tạp thể
hiện đầy đủ những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích của nhiều nhóm quan hệ xã hội,
phản ánh nhiều xu thế khác nhau nhất là trong cơ chế thị trường đa sở hữu, đa quan
hệ. Vì vậy quy trình này không thể đạt được kết quả khách quan khi chủ thể trực
tiếp các quan hệ xã hội mà pháp luật vốn điều chỉnh không tham gia vào quá trình
soạn thảo và ban hành VBQPPL. Các cơ quan nhà nước vốn mang sẵn trong mình
ít nhiều bản chất “quan liêu” cho dù đó là nhà nước tiến bộ và phát triển. Họ không
chỉ bị giới hạn về sự nhạy cảm thực tiễn, vốn sống thực tế mà còn do tâm lí tự vệ
của “người gác cổng” luôn muốn tuyệt đối hóa cho sự an toàn của toàn xã hội.
Ngoài ra quá trình làm luật luôn bị chi phối bởi “lăng kính” chủ quan của những
nhà làm luật, trong một số trường hợp còn bị chi phối bởi những toan tính cục bộ,
đặc quyền đặc lợi của một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa biến chất nào đó.
12


Bởi vậy rất cần có sự tham gia của nhân dân trong việc soạn thảo và công bố
VBQPPL nhằm đảm bảo tính dân chủ và tính minh bạch hóa.
Thứ hai : Nội dung của các quy phạm pháp luật phải rõ ràng, nhất quán.
Có thể nói rằng đây là một thuộc tính hết sức quan trọng của pháp luật. Pháp luật
phải là chuẩn mực cho việc hành xử của các bên khi tham gia quan hệ xã hội mà nó
điều chỉnh. Không thể coi là chuẩn mực hay nói cách khác, cái gọi là chuẩn mực đó
sẽ khó được thực thi một cách nghiêm chỉnh nếu nó rối rắm, không rõ ràng và

không nhất quán. Yếu tố rõ ràng là đòi hỏi quan trọng đối với việc chuyền tải nội
dung của các chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước thành các
quy phạm cụ thể. Quy phạm này cụ thể, rõ ràng, đơn giản bao nhiêu thì càng dễ
dàng áp dụng và áp dụng thống nhất bấy nhiêu. Tính rõ ràng, nhất quán còn là một
yêu cầu đối với tính chất các văn bản pháp luật với tư cách là một hệ thống. Nếu
không rõ ràng, cụ thể thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn chồng chéo; nếu không nhất quán
thì sẽ dẫn đến sự vô hiệu hóa lẫn nhau mà hệ quả tất yếu của nó là làm hạn chế, làm
mất hiệu lực và hiệu quả của VBQPPL trong hoạt động quản lí nhà nước.
Thứ ba: Văn bản pháp luật phải đảm bảo tính ổn định tương đối. Pháp
luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội luôn phát triển. Do đó, pháp luật
không thể là một đại lượng bất biến mà ngược lại với tư cách là một hệ thống các
quy phạm, pháp luật luôn phải có sự phát triển để thúc đẩy và tạo môi trường pháp
lí phù hợp cho sự phát triển các quan hệ xã hội. Tính minh bạch của pháp luật và sự
ổn định của pháp luật là hai yếu tố tương hỗ lẫn nhau. Nếu pháp luật không ổn định
sẽ khó bảo đảm được tính minh bạch và ngược lại nếu pháp luật thiếu tính minh
bạch sẽ dẫn đến phải sửa đổi bổ sung. Có thể nói rằng, sự ổn định về chính trị và
môi trường pháp lí là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, sự ổn định này giúp các nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư có cơ

12


sở để xác định hướng đầu tư, phát triển sản xuất, dự báo được nhưng yếu tố có thể
ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh cũng như cơ hội làm ăn để hoạch định kế
hoạch phát triển.
3. Tính công khai, minh bạch sau khi thông qua văn bản quy phạm pháp
luật.
Dự thảo văn bản pháp luật phải được đăng công khai trước khi kí ban
hành. Việc soạn thảo văn bản pháp luật phải được đăng công khai là một điều kiện
bắt buộc không chỉ của các ban soạn thảo mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan

thẩm định, thẩm tra, của các cơ quan Quốc Hội để nhằm, một mặt đảm bảo tính
minh bạch công khai của hệ thống pháp luật, mặt khác tạo điều kiện để cho cơ quan
tổ chức và cá nhân có thời gian chuẩn bị cho việc thực hiện văn bản. Quy định này
cũng nên áp dụng chung đối với VBQPPL của các cơ quan nhà nước ở Trung Ương
cũng như ở địa phương. Cần đăng văn bản trên công báo trước ngày văn bản đó có
hiệu lực thi hành, chứ không phải là để văn bản đó có hiệu lực thi hành rồi mới
được đăng. Cần luật hóa quy định : chỉ những văn bản đã được đăng tải trên công
báo và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng thì mới có hiệu
lực thi hành.
Ví dụ : Dự thảo dự án luật, Pháp lệnh lấy ý kiến nhân dân thường được
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và internet. Dự thảo nghị quyêt,
nghị định thường được gửi tới Hội Đồng Dân Tộc, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận
Tổ Quốc Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, Tòa Án Nhân Dân Tối
Cao, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, cơ quan, tổ chức hữu quan, hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để góp ý và có thể

12


được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet theo quy định
của Thủ Tướng chính phủ.
Vấn đề dân chủ hóa, công khai việc soạn thảo và ban hành văn bản pháp
luật nhằm đảm bảo tính minh bạch của pháp luật đang được dư luận xã hội hết sức
quan tâm. Mục tiêu cơ bản của vấn đề này không phải ở chỗ ai là người soạn thảo,
mà là phải tổ chức soạn thảo như thế nào đó để văn bản sau khi được ban hành
chứa đứng nhiều quy phạm tốt nhất. Nói cách khác, công nghệ của việc soạn thảo
phải như thế nào để có được một văn bản tốt nhất. Các quy phạm điều chỉnh như
thế nào để văn bản pháp luật có được “đời sống lâu dài nhất” tạo dựng được một hệ
thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và có tính thống nhất nội tại cao nhất.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC NHẰM ĐẢM

BẢO TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG VIỆC DỰ THẢO VÀ
CÔNG BỐ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT.
1. Hạn chế và hướng trong việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào việc
soạn thảo VBQPPL.
Luật quy định rằng Quốc Hội, UBTVQH quy định việc lấy ý kiến nhân
dân phải căn cứ vào tính chất, nội dung của dự án luật, pháp lệnh. Điều đó có nghĩa
không phải bất kì dự án luật và pháp lệnh nào đều có thể được nhân dân đóng góp ý
kiến. Đối với nghị quyết và nghị định của chính phủ luật cũng quy định việc lấy ý
kiến của nhân dân cũng tùy thuộc vào tính chất và nội dung của nghị quyết, nghị
định. Điều này cũng tương tự với việc lấy ý kiến đối với các dự thảo quyêt định,
chỉ thị của thủ tướng chính phủ. Đối với dự thảo VBQPPL của hội đồng Thẩm
Phán Tòa Án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và
một VBQPPL liên tịch thì không quy định việc tham khảo ý kiến của nhân dân.

12


Như vậy, luật còn bỏ trống chưa quy định những tiêu chí để việc lấy ý kiến của
nhân dân là bắt buộc. Việc quy định chung chung “tùy theo tính chất và nội dung
của dự thảo” sẽ tạo ra sự khó khăn, thậm chí có khi còn tùy tiện đặc biệt trong
trường hợp soạn thảo ban hành văn bản ở các cơ quan địa phương.
Mặt khác, cho đến nay ở nước ta vẫn tồn tại một thực tế là : khi thấy cần là
lập tức ban hành VBQPPL, còn bản thân văn bản đó có thực sự có đi vào cuộc sống
hay không thì hầu như không được quan tâm đến. Để chấm dứt tình trạng này cần
đưa ra một số tiêu chí khi lấy ý kiến của nhân dân chủ đạo như sau:
Thứ nhất: Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm lấy ý kiến của nhân dân liên
quan khi có một trong các yếu tố như : toàn bộ hay một phần nội dung dự thảo liên
quan đến lĩnh vực chuyên môn hoặc quyền lợi của cơ quan, tổ chức đó; việc thực
thi dự thảo VBQPPL khi được thông qua thuộc thẩm quyền cơ quan tổ chức đó;
Thứ hai: Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm tham khảo ý kiến của cá nhân

khi có một trong các yếu tố như : các cá nhân đó thuộc sự điều chỉnh trực tiếp của
dự thảo VBQPPL đó; và dự thảo VBQPPL đó có các quy định liên quan đến việc
thực thi các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
Pháp.
2. Hạn chế và hướng trong việc tham khảo ý kiến người dân.
Khi dự án luật hoặc pháp lệnh được đưa ra lấy ý kiến của nhân dân thì
MTTQVN và các tổ chức thành viên, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân có “trách nhiệm” tổ chức, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia đóng góp ý kiến vào dự án luật, pháp lệnh. Quy định này chỉ nói đến trách
nhiệm tổ chức, tạo điều kiện cho “công dân” chứ không phải là cho tất cả các “cá
nhân”. Do đó những cá nhân khác không phải là công dân Việt Nam có được coi là
12


đối tượng của điều khoản này không? Mặt khác, chưa có quy định hoặc hướng dẫn
cụ thể phương thức tổ chức lấy ý kiến của nhân dân cho nên trên thực tế việc lấy ý
kiến của nhân dân vẫn còn mang nặng tính hình thức. Các nội dung gợi ý lấy ý kiến
mang tính chất chung chung chứ không nêu các giải pháp khác nhau và những ý
kiến khác nhau để người dân suy nghĩ và đóng góp ý kiến.
Chính vì vậy cơ quan soạn thảo cần xác định các nhóm đối tượng khác
nhau và các nhóm vấn đề cần xin ý kiến của từng nhóm đối tượng, cũng như nêu
chi tiết các ý kiến, các phản ánh khác nhau để người dân đóng góp ý kiến một cách
thiết thực. Luật cũng cần quy định cụ thể hơn các phương thức lấy ý kiến của nhân
dân. Ví dụ như : việc lấy ý kiến được thực hiện trực tiếp của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan thì cần tổ chức các hội nghị, hội thảo hoặc thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng và mạng internet. Cần quy định rõ trách nhiệm trách nhiệm
của các cơ quan lấy ý kiến để có chuẩn bị những vấn đề cần xin ý kiến, gợi ý thảo
luận, kèm theo xác định địa chỉ nhận ý kiến đóng góp trong trường hợp lấy ý kiến
thông qua các phương tiện thông tin địa chúng và mạng internet.
3. Hạn chế và hướng trong việc công khai hóa dự thảo.

Trên thực tế một số dự thảo văn bản pháp luật đã được công bố công khai
nhưng còn nhiều dự thảo vẫn chưa được công khai hóa, thậm chí còn coi là “tài liệu
mật”. Thực tiễn soạn thảo VBQPPL lâu nay đã cho thấy một nhận thức phổ biến là
nếu chưa có quy định lấy ý kiến của nhân dân thì dự thảo đó vẫn được xem là tài
liệu mật, mặc dù các dự thảo đó đã được đưa ra lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức
hữu quan. Điều này cản trở đến tính minh bạch và công khai hóa việc ban hành
VBQPPL và là rào cản đối với các tổ chức hoặc cá nhân muốn tiếp cận dự thảo để
tìm hiểu và tham gia đóng góp ý kiến. Ngoài ra, cũng chưa có quy định của luật

12


rằng tất cả dự thảo VBQPPL không phải là tài liệu mật, trừ trường hợp văn bản có
nội dung bí mật nhà nước.
Xuất phát từ những hạn chế đó thì cần sửa đổi luật theo hướng quy định cơ
quan soạn thảo có trách nhiệm công khai hóa các dự thảo VBQPPL và nên điều
chỉnh để VBQPPL không chứa đựng những nội dung thuộc bí mật nhà nước. Việc
công khai những quy định này cũng giống như là một sự tuyên bố chính thức nhà
nước về quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan. Từ đó mới dẫn đến việc người dân
thừa nhận chúng. Nhằm đạt được tất cả các mục tiêu nói trên cần phải tách công
đoạn soạn thảo ra khỏi công đoạn ban hành. Việc ban hành VBQPPL là trách
nhiệm của cơ quan ban hành còn việc soạn thảo là công việc của toàn xã hội cần
phải tách người trình bày và người phản biện văn bản trao cho họ nhưng quyền hạn
và trách nhiệm cụ thể. Nếu cần, có thể tổ chức đấu thầu để chọn người, cơ quan có
đầy đủ năng lực soạn thảo và phải có những chủ thể cùng được tham gia soạn thảo
VBQPPL.
KẾT LUẬN
Đôi khi chúng ta than phiền rằng : Đã có những đạo luật tốt nhưng việc thi
hành pháp luật không được tốt. Thực ra đó chỉ là sự ngụy biện cho những đạo luật
không tốt, bởi lẽ nếu đạo luật đó thể hiện ý chí của đa số người dân trong xã hội thì

một điều dễ hiểu là họ sẽ tự nguyện thi hành chứ không cần phải chờ đợi sự cưỡng
chế của nhà nước. Vì vậy sự tham gia của người dân trong quá trình soạn thảo pháp
luật là một yếu tố bảo đảm thực sự nguyên tắc của pháp luật là thể hiện ý chí của
dân, và tăng cường hơn nữa tính công khai và minh bạch của toàn bộ hệ thống
pháp luật nói chung và của hệ thống VBQPPL nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

12


1. Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật. Trường đại học Luật Hà Nội.
2. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 11/2002.
3. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3/2005.
4. Một số trang web điện tử.

12



×