Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Bước đầu tìm hiểu những liên hệ về âm và nghĩa trong vốn hình tiết tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LUẬN VĂN CAO HỌC

ĐỀ TÀI: BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU NHỮNG LIÊN HỆ VỀ ÂM VÀ NGHĨA
TRONG VỐN HÌNH TIẾT TIẾNG VIỆT
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 5.04.08

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. HOÀNG CAO CƯƠNG
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THỊ THANH NGÀ

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………

5
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI…………………………………………………………………….. 5
2.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………………………………………
3. CÁI MỚI CỦA ĐỀ
TÀI……………………………………………………
6
4. BỐ CỤC
……………………………………………………………………………………………………
7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT…………………………………………………


8

1.1. TỪ VÀ NGHĨA CỦA TỪ…………………………………………………

8
1.1.1. Đặc trƣng tín hiệu của từ ……………………………………………………… 8
1.1.2. Đặc trƣng hệ thống của từ ……………………………………………………… 10
1.1.3. Hai quá trình từ vựng học cơ bản………………………………………… 12
1.1.3.1. Đồng âm ………………………………………………………………………… 12
1.1.3.2. Đồng nghĩa……………………………………………………………… ………. 14
1.1.4. Từ tƣơng tự ……………………………………………………………………………..15
1.1.4.1. Định nghĩa……………………………………………………………………… 15
1.1.4.2. Phân loại ………………………………………………………………………….. 19
1.2. ÂM VỊ VÀ NÉT KHU BIỆT TRONG ÂM VỊ HỌC TIẾNG VIỆT……………. 23
1.2.1. Âm tiết ………………………………………………………………………………… 23
1.2.2. Cấu trúc âm tiết…………………………………………………………………… 23
1.2.3. Âm vị và hệ thống nét khu biệt…………………………………………….. 27
1.2.3.1. Âm đầu ……………………………………………………………………………. 27
1.2.3.2. Âm chính …………………………………………………………………………… 28
1.2.3.3. Âm cuối …………………………………………………………………………… 29
1.2.3. 4. Các điệu vị ………………………………………………………………………... 30
1.2.3.4.1. Thanh điệu………………………………………………………………………. 30
1.2.3.4.2. Tròn môi hoá âm tiết……………………………………………………….. 31
1. 3.TIỂUKẾT………………………………………………………………………………….. 31

CHƢƠNG 2. CƠ SỞ DỮ LIỆU………………………………………………..

32
2.1. NGUYÊN TẮC LỰA CHỌN……………………………………………………………. 32
2.1.1. Nhóm nguyên tắc 1……………………………………………………………… 33

2.1.2. Nhóm nguyên tắc 2……………………………………………………………….. 33
2.2. NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI…………………………………………………………… 36
2.3. PHÂN TÍCH BẢNG CƠ SỞ DỮ LIỆU …………………………………………….. 39
2.3.1. Nhận xét chung…………………………………………………………………….. 39
2.3.2. Đặc điểm từ loại của các yếu tố………………………………………………. 40

2


2.3.3. Cấu tạo của các đơn vị song tiết……………………………………………… 41
2.3.4. Các biểu hiện về sự chuyển biến hình thức âm thanh……
45

CHƢƠNG 3. PHÂN TÍCH HIỆN TƢỢNG TƢƠNG TỰ TỪ
VỰNG HỌC TRONG TIẾNG VIỆT ………………………………………

46
3.1. NHÓM TƯƠNG TỰ TỪ VỰNG HỌC LOẠI 1 ……………………………… 46
3.1.1 Âm đầu……………………………………………………………………………….. 47
3.1.1.1 Cơ sở ngữ âm học lịch sử………………………………………………….. 47
3.1.1.2. Mô tả một số tƣơng ứng âm đầu ………………………………………… 48
3.1. 1.2.1. Phƣơng thức…………………………………………………………………… 48
3.1. 1.2.2. Bộ vị ……………………………………………………………………………. 58
3.1.2. Âm chính…………………………………………………………………………… 69
3.1.2.1 Cơ sở ngữ âm học lịch sử………………………………………………………69
3.1. 2.2. Mô tả một số tương ứng âm chính………………………………………. 70
3.1.2.3. Tiểu kết …………………………………………………………………………….. 81
3.1.3 Âm cuối……………………………………………………………………………….. 81
3.1.3.1 Cơ sở ngữ âm học lịch sử………………………………………………………81
3.1.3.2. Mô tả một số tương ứng âm cuối ………………………………………… 82

3.1.3.2.1. Phƣơng thức…………………………………………………………………….. 82
3.1.3.2.2. Bộ vị……………………………………………………………………………….. 85
3.1.3.3. Tiểu kết……………………………………………………………………………… 89
3.1.4. Điệu vị………………………………………………………………………………… 89
3.1.4.1. Thanh điệu…………………………………………………………………………. 89
3.1.4.1.1. Cơ sở ngữ âm lịch sử……………………………………………………….. 90
3.1.4.1. 2. Mô tả một số tương ứng thanh điệu………………………………….. 99
3.1.4.1. 3. Tiểu kết…………………………………………………………………………… 100
3.1.4.2.Tròn môi hoá âm tiết (âm đệm) …………………………………………… 102
3.2. NHÓM TƯƠNG TỰ TỪ VỰNG HỌC LOẠI 2 ………………………………. 102
3. 2.1. Tiểu nhóm A………………………………………………………………………….103
3. 2.2. Tiểu nhóm B……………………………………………………………………….. 105
3. 2.3. Tiểu nhóm C……………………………………………………………………….. 108
3. 2.4. Tiểu nhóm D………………………………………………………………………….109
3. 2.5. Tiểu nhóm E…………………………………………………………………………. 111
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………. 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………….. 115

3


MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt có một hiện tƣợng rất đáng chú ý.
Đó là hàng loạt các hình tiết tƣơng tự nhau về ngữ âm đồng thời lại có những
tƣơng tự nào đó về nghĩa, hiểu theo nghĩa rộng của từ này. Chẳng hạn nhƣ:
bủn – mủn, vấu – mấu, vắn – ngắn; đàm - đờm, ngóc - ngách, rạ - rựa; bệt –
bết, lén – lẻn, ngưng – ngừng; phản – ván, giun – trùn, vỗ – phổ,…...
Đối với Việt ngữ học, các nguyên nhân của hiện tƣợng này đã đƣợc

nhiều học giả đề cập đến từ nhiều phƣơng diện khác nhau. Có học giả coi đó
là từ đặc điểm biểu trƣng âm thanh (sound symbolism), có ngƣời lại tìm trong
bản chất của đơn vị ngữ pháp dƣới âm tiết và cũng có ngƣời cho đó là kết quả
của một phƣơng thức cấu tạo từ trong tiếng Việt và trong một số ngôn ngữ
đơn lập khác.
Những giải thích có tính cấu trúc nhƣ vậy đều có một vùng ứng dụng
riêng và đều có hạt nhân chân lí của mình. Tuy nhiên, với những giải pháp có
tính lâm thời nhƣ vậy, các tác giả mới chỉ chú ý đến những hiện tƣợng lẻ tẻ
mà chƣa thật sự vƣơn tới một cách nhìn hệ thống và nhất là chƣa hề có ý thức
thiết lập một cơ sở dữ liệu đủ tin cậy cho rộng đƣờng bàn luận.
Trong khuôn khổ một luận văn, chúng tôi mong muốn trƣớc tiên là thu
thập đủ dữ liệu cho hiện tƣợng liên quan. Trên cơ sở dữ liệu này, luận văn
tiến hành phân tích và bƣớc đầu đƣa ra vài kết luận về chúng. Tuy nhiên do
khuôn khổ luân văn và trình độ của học viên, nên tất cả các phân tích và nhận
định ở đây mới chỉ dừng ở mức ƣớm thử mà chƣa phải là những khẳng định
cuối cùng về hiện tƣợng vô cùng phức tạp này.

2.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5


Chúng ta có thể gọi hiện tƣợng tƣơng tự nhau về âm cũng nhƣ về nghĩa
này là các đơn vị từ vựng tương tự. Theo Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học,
đơn vị từ vựng tƣơng tự có thể đƣợc hiểu theo hai cách khác nhau:
1/. Đó là “những từ có những đặc điểm tƣơng tự nhau về cấu tạo và ý
nghĩa trong cùng một ngôn ngữ - là những từ rất gần nhau, nhƣng không hoàn
toàn trùng nhau về mặt ngữ âm và ý nghĩa, thƣờng khác nhau về đặc điểm
ngữ pháp, khả năng kết hợp từ vựng. Ví dụ: quăn, xoăn, vặn; cái, nái, mái,
gái;…”

2/. Đó là “từ của ngôn ngữ này tƣơng tự với từ của ngôn ngữ khác về
mặt ý nghĩa, từ nguyên, hình thái…” [40; 402]
Hiện tƣợng mà chúng tôi muốn khảo sát nằm ở nghĩa thứ nhất của thuật
ngữ: các hiện tƣợng từ vựng tƣơng tự theo phạm vi đơn ngữ.
Cơ sở dữ liệu chính đƣợc lấy từ Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học, xuất bản năm 2000. Các đơn vị từ vựng tƣơng tự nhau về hình thức và
về nội dung nghĩa. Những thông tin khác về thuộc tính ngữ pháp hoặc đặc
điểm sử dụng cũng đƣợc ghi lại. Số lƣợng các đơn vị từ vựng đƣợc đƣa vào
cơ sở dữ liệu là:
Khi xử lí tƣ liệu chúng tôi đã tận dụng những kiến thức chung về Việt
ngữ học, đặc biệt là các kiến thức về âm vị học tiếng Việt, về từ vựng học
tiếng Việt và phƣơng ngữ học tiếng Việt. Một số các tri thức có liên quan đến
lớp từ Hán Việt đƣợc tham khảo từ Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh và hai
tác phẩm quan trọng của Giáo sƣ Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc cách đọc Hán
Việt và Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo).
3. CÁI MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Các yếu tố từ vựng đƣợc tập hợp lại theo cả hai tiêu chí gần gũi nhau
về ngữ âm và ngữ nghĩa, hiểu theo nghĩa rộng. Cơ sở dữ liệu đƣợc phân tích
theo hƣớng phân tích âm vị học nét và ngữ nghĩa học nét nhằm đi tìm lấy cơ
sở về ngôn ngữ học cho hiện tƣợng đặc thù này của từ tiếng Việt.

6


4. BỐ CỤC

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Cơ sở lí thuyết
Chƣơng II: Cơ sở dữ liệu

Chƣơng III: Phân tích một số đặc điểm ngữ âm - ngữ nghĩa của các
nhóm từ tƣơng tự tiếng Việt

7


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. TỪ VÀ NGHĨA CỦA TỪ

1.1.1. Đặc trưng tín hiệu của từ
Dựa trên các cơ sở của ngôn ngữ học cấu trúc ta có thể nghiên cứu từ
theo các đặc trƣng tín hiệu của nó. Mỗi từ tách riêng ra đều có mặt biểu hiện
(bằng âm thanh hay bằng chữ viết) và mặt được biểu hiện (là các khái niệm,
hình ảnh về sự vật và hiện tƣợng, tồn tại bên trong từ đó). Mặt biểu hiện của
từ đƣợc hiểu là các thuộc tính vật chất của nó, cái mà ngƣời dùng có thể cảm
nhận đƣợc thông qua các giác quan của mình. Còn mặt đƣợc biểu hiện của từ
chính là cái nội dung mà từ đó chuyên chở nhằm thoả mãn các nhu cầu trao
đổi tƣ tƣởng và tình cảm của con ngƣời qua hoạt động giao tiếp đặc trƣng là
bằng ngôn ngữ. Theo J. Lyons, từ là một loại đơn vị tín hiệu điển hình nhất
cho một hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị ngôn ngữ mà ngƣời sử dụng nó cảm
nhận đƣợc tự nhiên nhất.
Tuy nhiên, khi đặt từ trong một mối quan hệ của con người và thực tại
thì vấn đề nội dung của từ trở nên quan trọng và có nhiều cách tiếp cận khá
khác nhau. Theo L. Wittgenstain, vấn đề của từ chính là vấn đề tƣơng tác của
mối quan hệ bộ ba: ngôn ngữ, hiện thực và tư duy. Từ là khả năng phản ánh
thực tại của con ngƣời thông qua tƣ duy. Bởi vì ngôn ngữ là biểu hiện của tƣ
duy mà tƣ duy lại chính là sự phản ánh thực tế khách quan tồn tại ngoài con
ngƣời nên mỗi từ chính là sự hiện thực hoá của mối quan hệ sau đây:
Thực tế khách quan


Ngôn ngữ

Tư duy

Đa số các từ trong một ngôn ngữ đều hàm chứa đầy đủ cả ba mặt khác
nhau này. Chẳng hạn các từ cơ bản nhƣ: bàn, ghế, tủ, ăn, đẹp... có cả thực tế

8


khách quan để phản ánh, có cả nội dung khái niệm mà nó ghi lại và bản thân
âm thanh mà nó đƣợc chứa trong đó. Nhƣng lại có những từ không thể hiện
đƣợc đầy đủ nhƣ vậy. Chẳng hạn các từ nhƣ ma, thần, thánh ... có khái niệm
về các sự tình trong tƣởng tƣợng, nhƣng lại không có các hiện thực tƣơng ứng
trong thực tế. Ngƣợc lại các từ nhƣ: cúc cu, gâu gâu, độp, soạt... lại chỉ có
những hiện thực trong thực tế mà chúng phản ánh nhƣng không thể tạo nên
những hình ảnh ý niệm thật rõ ràng về chúng.
Chính trong mối quan hệ bộ ba mà hai mặt của tín hiệu tác động, hỗ trợ
và bù trừ lẫn cho nhau tạo nên tính đa dạng và phức tạp của bản chất tín hiệu
quen gọi là từ. Trên cơ sở tam giác ngữ nghĩa ở trên, có thể đi tới việc khẳng
định: không thể đồng nhất nghĩa của từ với khái niệm cũng nhƣ các thuộc tính
khách quan của hiện tƣợng, sự vật mà từ phản ánh. Các phƣơng thức quan hệ
giữa nội dung và bản thân từ là vô cùng đa dạng và về mặt lí thuyết rất khó
kiểm soát đơn thuần chỉ bằng tƣ duy thuần lí nhƣ cách vẫn đƣợc sử dụng
trong các phân ngành của khoa học tự nhiên.
Chúng ta đang nói về từ với tƣ cách là một đơn vị tách rời của ngôn
ngữ và mối quan hệ của nó với các cấp độ khác của ngôn ngữ cũng nhƣ với
con ngƣời và hiện thực mà nó quan hệ. Tuy nhiên, các từ của một ngôn ngữ
lại không tồn tại một cách biệt lập mà thƣờng xuyên đƣợc cố kết và có các
quan hệ đa chiều với nhau. Các quan hệ này tạo nên tính hệ thống của một

vốn từ của một ngôn ngữ. Cấu tạo của một từ trong ngôn ngữ là một tổ hợp
phức tạp các quan hệ. Thứ nhất từ ngữ âm đóng vai trò là cái ký hiệu của ý
nghĩa (cái biểu hiệu). Thứ hai, từ ngữ âm với ý nghĩa của mình (cái biểu hiệu)
lại đóng vai trò là ký hiệu của sự vật (cái biểu vật). Thứ ba, trong những phát
ngôn cụ thể, trong lời nói, trong toàn bộ tổ hợp (toàn bộ tam giác ngữ nghĩa)
còn có thể đóng vai trò là ký hiệu của một sự vật khác, một sự vật mới. Các
quan hệ có tính chất ký hiệu ở trong từ như vậy là có nhiều bậc [39; 34].

9


Quan niệm về tính tín hiệu của một từ không đơn giản là việc coi nó chỉ
nhƣ là một cấu trúc bao gồm hai bộ phận: cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện.
Trong cấu trúc ngôn ngữ, đây là một phức thể của những quan hệ giữa những
thành phần biểu hiện và những thành phần đƣợc biểu hiện. Mức độ phức tạp
của một cấu trúc từ đƣợc nảy sinh từ mối quan hệ giữa biểu hiện và đƣợc biểu
hiện sẽ đƣợc nhân lên và lặp đi lặp lại nhiều lần do sự phản ánh nhiều lần các
tƣơng tác trong mối quan hệ bộ ba: ngôn ngữ, tƣ duy và hiện thực. Ju. X.
Xtepanov khẳng định: Đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể có đặc trưng như
là ký hiệu, đó là từ. Các quan hệ ký hiệu trong từ có nhiều bậc... [39; 458].
1.1.2. Đặc trưng hệ thống của từ
Các từ đƣợc tập hợp thành những tiểu hệ thống dựa trên các đặc điểm ở
mặt biểu hiện và ở mặt đƣợc biểu hiện. Ở mặt biểu hiện, các từ có thể đƣợc
phân theo các đặc điểm về hình thức cấu tạo nhƣ: số lƣợng âm tiết trong một
cấu trúc từ, tính chất của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu tạo từ. Vì các thuộc
tính này bộc lộ từ trên cơ sở các yếu tố hình thức (ngữ âm, ngữ pháp), nên khi
gom lại thành từng nhóm, ta có các kiểu cấu tạo từ, ví dụ: từ đơn tiết/ từ đa
tiết, từ ghép đẳng lập/ chính phụ, từ láy/ ngẫu hợp, từ phái sinh/ từ ghép thông
thƣờng, từ hƣ/ từ thực... Ở mặt đƣợc biểu hiện, tuỳ theo các mối quan hệ về
mặt nội dung mà các từ lại đƣợc gom nhóm theo các trƣờng từ vựng - ngữ

nghĩa khác nhau. Khi các thuộc tính nội dung ngữ nghĩa đƣợc tập hợp lại theo
hệ thống nét nghĩa có trong một từ, ta có các trường đa nghĩa của một từ. Khi
các nét nghĩa làm nhiệm vụ thống nhất các từ lại thành một nhóm lớn hơn
trong vốn từ một ngôn ngữ, ta có các trƣờng đồng nghĩa hay trái nghĩa.
Mặt khác, các từ có thể đƣợc cấp cho đặc trƣng hệ thống khi tham
chiếu cấp độ này với những cấp độ khác nó trong một hệ thống ngôn ngữ.
Chẳng hạn, khi đối chiếu từ với các chức năng tạo thành phần câu, ngƣời ta
liền chia các từ thành các phạm trù từ vựng - ngữ pháp. Theo thuật ngữ ngôn
ngữ học thƣờng dùng, đó là các hệ thống từ loại của một ngôn ngữ. Khi đối

10


chiếu từ với các thầnh phần âm thanh tạo nên vỏ từ, ngƣời ta liên chia các từ
thành các nhóm đồng âm và đa nghĩa.
Vì ngôn ngữ là hệ thống hoàn chỉnh và luôn luôn có gắn kết hữu cơ,
nên bản thân việc phân cấp độ đã là việc làm mang tính tƣơng đối. Chính vì
thế, các đặc trƣng từ loại theo cách nhìn của cú pháp lại có cơ sở ngay từ
trong các đặc điểm nghĩa của từ, ở cấp độ từ vựng. Chẳng hạn, các danh từ là
các từ mang ý nghĩa thực thể trong khi các động từ lại mang ý nghĩa hoạt
động trạng thái... Hoặc khi phân từ thành các phạm trù đồng âm và đa nghĩa
từ cách nhìn ngữ âm học, thì bản thân tiến trình từ vựng hoá các yếu tố từ
vựng, nhƣ Xtepanov đã từng nhận xét, lại là tiến trình liên tục, đi từ đa nghĩa
đến đồng âm! Sự phát triển nghĩa của nội bộ một từ đến một lúc nào đó, theo
nguyên tắc tín hiệu học, đƣợc tách ra do nhu cầu dùng và từ một nét nghĩa có
trong một hệ thống các nét nghĩa của một từ đã tách riêng ra, sinh hoạt độc
lập với vỏ từ đã có sẵn để trở thành một từ độc lập với từ trƣớc đó. Từ đồng
âm ra đời.
Trở lên trên, chúng ta đã xét đến các phạm trù từ vựng học thông
thƣờng. Những phạm trù này có một đặc điểm chung là có sự đều đặn giữa

mặt biểu hiện và mặt đƣợc biểu hiện, theo cách hiểu về tính võ đoán trong
một hệ thống tín hiệu. Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ là dựa trực tiếp trên
tính võ đoán, tính không lí do giữa mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện, do chỗ
nó là một hệ thống sử dụng phổ biến cho một tập thể cộng đồng, trong lát cắt
đồng đại. Tuy nhiên, ở ngôn ngữ nào cũng có hàng loạt các từ không đảm bảo
đƣợc cái đặc trƣng điển hình tín hiệu học về mối tƣơng ứng một - đối một một
cách võ đoán, không có lí do này. Đó là các từ mà trƣớc nay đƣợc gọi là
nhóm biểu trưng âm thanh. Trong các nhóm từ này, dƣờng nhƣ xuất hiện một
liên hệ nào đó giữa hình thức và nội dung. Những cơ sở của mối liên hệ nhƣ
vậy có thể phải tìm trên những đặc điểm tâm lí mà một tộc ngƣời đã hình
thành nên trong suốt chiều dài lịch sử. Thay vào tính võ đoán phổ biến là tính

11


có lí do tƣơng đối, cái chỉ những ngƣời bản ngữ mới nhận cảm và sử dụng
đƣợc. Trong một cách nhìn nhận nhƣ vậy, bên cạnh tƣ duy thuần lí cần phải
tính đến các cơ sở tâm lí tộc ngƣời khi nghiên cứu về một vốn từ.
1.1.3. Hai quá trình từ vựng học cơ bản
Nhƣ trên đã nói, hệ thống từ vựng học của một ngôn ngữ có thể đƣợc
xem xét theo mối quan hệ giữa cái biểu hiện và đƣợc biểu hiện một cách riêng
rẽ cho từng nhóm từ hoặc cho từng từ một. Nhƣng mặt khác, cũng có thể
đƣợc xem xét trong chính mối quan hệ của các từ ở từng mặt biểu hiện và
đƣợc biểu hiện. Cách thứ hai đƣa đến tiếp cận từ ngữ theo quan điểm tiến
trình.
Khi nhấn mạnh đến tính tiến trình của một hệ thống từ vựng học, ta có
thể nhìn hệ thống đó theo tƣơng tác giữa mặt biểu hiện và mặt đƣợc biểu hiện
theo sự vận động của các đặc điểm hay các đặc trƣng hình thức (âm thanh) và
ý nghĩa (nội dung mà từ bao hàm). Nhƣ đã đƣợc các lí thuyết về từ khẳng
định, trong bất kì một hệ thống từ vựng học nào cũng có hai quá trình từ vựng

học điển hình. Đó là quá trình đồng âm hoá và quá trình đồng nghĩa hoá. Quá
trình đồng âm tập trung vào đặc tả mặt biểu hiện của từ còn quá trình đồng
nghĩa thì lại tập trung vào đặc tả mặt đƣợc biểu hiện của từ.
1.1.3.1. Đồng âm
Âm thanh mà con ngƣời có thể phát là hữu hạn còn cái mà con ngƣời
muốn diễn đạt, biểu hiện lại là vô hạn. Do đó, việc phải dùng những hình thức
vật chất giống nhau để thể hiện, diễn đạt những nội dung ngữ nghĩa khác nhau
là một tất yếu. Sự tất yếu này tạo ra trong ngôn ngữ hiện tƣơng đồng âm.
Đồng âm là một hiện tƣợng phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Các ngôn ngữ càng
phát triển thì hiện tƣợng đồng âm càng nhiều. Những đơn vị của hiện tƣơng
đồng âm là những đơn vị có vỏ vật chất giống nhau nhƣng khác nhau về ý
nghĩa.

12


Hiện tƣợng đồng âm trong từ vựng là hiện tƣợng của các từ đồng âm.
Theo Ju.X.Xtepanov: “Hiện tượng đồng âm nói chung được định nghĩa là sự
trùng nhau về âm thanh của các từ có ý nghiã khác nhau” [39;66]
Nhƣ vậy, dƣới cái nhìn đồng đại, hiện tƣợng đồng âm là hiện tƣợng
trùng hợp ngẫu nhiên về hình thức của một số đơn vị ngữ nghĩa khác nhau
hoàn toàn.
Trong tiếng Việt, hiện tƣợng đồng âm từ vựng xảy ra rất phổ biến. Có
thể thống kê số lƣợng âm tiết có âm đầu “b” và số lƣợng từ đơn có âm đầu
“b” nhƣ một ví dụ cho điều này. Chỉ với 261 âm tiết có âm đầu “b” tạo đƣợc
493 từ đơn có âm đầu “b”. Nhƣ vậy, trung bình cứ 1 âm tiết sẽ tạo đƣợc  2
từ.
Hiện tƣợng đồng âm là phổ biến với một số lƣợng lớn các đơn vị song
đại bộ phận các đơn vị này không đƣợc giải thích về nguồn gốc. Đã có một số
lý giải đƣợc các nhà ngôn ngữ học đƣa song mới chỉ giải thích đƣợc cho một

số lƣợng rất ít các trƣờng hợp. Các nhà Việt ngữ học cũng đã đƣa ra một số lý
giải cho hiện tƣợng từ đồng âm trong tiếng Việt:
- Do vay mƣợn từ ở các ngôn ngữ khác và những từ này lại có hình
thức âm thanh trùng với hình thức âm thanh của các từ đã có trong hệ thống
từ vựng tiếng Việt.
- Do sự biến đổi hình thức ngữ âm của một từ nào đó và kết quả của
sự biến đổi đó tạo ra một hình thức âm thanh trùng với hình thức âm thanh
của một từ đã có trƣớc đó.
- Do sự đứt rời – tách biệt một ý nghĩa nào đó của một từ đa nghĩa
với các ý nghĩa khác song ý nghĩa bị tách biệt ra đó vẫn mang hình thức cũ.
- Do sự cấu tạo từ ghép từ các yếu tố có sẵn là các đơn vị của hiện
tƣợng đồng âm.
Nhƣ vậy, sự giống nhau về hình thức âm thanh của các đơn vị thuộc
hiện tƣợng đồng âm không hoàn toàn do nhu cầu “tiết kiệm” mà do sự hạn

13


chế trong cơ chế phát âm (sự hữu hạn của hệ thống âm thanh do con ngƣời
phát ra hay nói đúng hơn là sự hạn chế trong khả năng tri nhận âm thanh).
Hiện tƣợng đồng âm dƣờng nhƣ đã tạo ra sự phức tạp trong hệ thống từ vựng
– ngữ nghĩa, bởi những ý nghĩa khác nhau đã bị “che lấp” bằng những hình
thức vật chất cùng “kiểu”. Và khi hình thức vật chất không phân biệt đƣợc
nghĩa thì “trách nhiệm” này đƣợc chuyển sang cho khả năng kết hợp. Chúng
ta không thể biết nghĩa của các đơn vị thuộc hiện đồng âm khi tiếp nhận hình
thức âm thanh của chúng. Chỉ khi đƣa chúng vào các kết hợp thì nghĩa của
chúng mới lộ rõ. Đặc biệt trong tiếng Việt đồng âm cũng có nghĩa là đồng tự
(trừ một số trƣờng hợp phát âm không phân biệt âm đầu hoặc âm cuối, phát
âm thiếu thanh điệu ở một số phƣơng ngữ), nên không thể nhận thấy nghiã
của các từ đồng âm đƣợc khi chỉ tiếp nhận vỏ vật chất của chúng là tất yếu

song kể cả khi đi vào trong kết hợp thì nghĩa của chúng cũng không đƣợc rõ
nét, thậm chí nhiều yếu tố khi trở thành từ tố thì ý nghĩa đã bị mờ và dần
không còn đƣợc phân biệt.
1.1.3.2. Đồng nghĩa
Đồng nghĩa đi ngƣợc lại tiến trình đồng âm trong một ngôn ngữ. Các
đơn vị có sự khác nhau hoàn toàn về nghĩa song có hình thức vật chất giống
nhau thì ở hiện tƣợng đồng nghĩa các đơn vị có sự khác nhau hoàn toàn về vỏ
ngữ âm song lại cùng chứa đựng một nội dung ngữ nghĩa hoặc chứa đựng
những nội dung ngữ nghĩa tƣơng tự nhau.
Theo Đỗ Hữu Châu: “Hiện tựơng đồng nghĩa là quan hệ về ngữ nghĩa
giữa các từ trong toàn bộ từ vựng... Đó là quan hệ giữa các từ ít nhất có
chung một nét nghĩa” [3; 196].
Các từ chỉ đồng nghĩa với nhau khi đã cùng thuộc một trƣờng nghĩa.
Điều kiện tiên quyết để phát hiện ra các đơn vị đồng nghĩa là dựng ra đƣợc
các trƣờng nghĩa. Một số từ có nhiều nghĩa (biểu vật hay biểu niệm) tức là
một từ có thể thuộc nhiều trƣờng nghĩa, do đó có thể đồng nghĩa với nhiều

14


nhóm từ khác nhau. Các nhóm từ khác nhau đồng nghĩa với một từ nhiều
nghĩa là những nhóm từ ở các trƣờng nghĩa khác nhau.
Hiện tƣợng đồng nghĩa là hiện tƣợng có nhiều mức độ tuỳ theo số
lƣợng các nét nghĩa chung các từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ
có chung một nét nghĩa đồng nhất. Số lƣợng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên
thì từ càng đồng nghĩa với nhau. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các
từ đó có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ
khác ở một vài nét nghĩa cụ thể nào đó.
Điều này cũng có nghĩa là, khi chúng ta phân chia các trƣờng lớn thành
các trƣờng nhỏ và nhóm nghĩa nhỏ thì đồng thời chúng ta cũng tiến gần tới

các nhóm đồng nghĩa có mức độ đồng nghĩa mỗi lúc một cao.
Tuy nhiên, không chỉ riêng số lƣợng các nét nghĩa chung là đủ quyết
định các từ đồng nghĩa trong trƣờng. Phải nói thêm rằng các nét nghĩa đó phải
không laọi trừ lẫn nhau. Nếu nhƣ hai từ trong cùng một trƣờng đồng nhất về
tất cả các nét nghĩa trừ hai nét nghĩa nào đó chống nhau, loại trừ lẫn nhau thì
lập tức, với sự xuất hiện nét nghĩa loại trừ lẫn nhau chúng không còn là từ
đồng nghĩa.
Nhƣ vậy có thể thấy hiện tƣợng đồng nghĩa là hiện tƣợng xảy ra giữa
một nhóm các từ trong cùng một trƣờng nghĩa, có ít nhất một nét nghĩa chung
và không có nét nghĩa nào loại trừ lẫn nhau.
Mối quan hệ đồng nghĩa giữa các từ là rất phức tạp, bởi chính sự phức
tạp trong cơ cấu nghĩa của từ.
1.1.4. Từ tương tự
1.1.4.1. Định nghĩa
Khi tách rời hai mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện để nghiên cứu về từ
chúng ta nhận đƣợc hai quá trình từ vựng học đặc trƣng là: đồng âm hoá và
đồng nghĩa hoá. Việc tách rời nhƣ vậy chỉ cốt để tiện cho làm việc. Trong
thực tế, nhƣ Saussure đã nói, mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện trong một tín

15


hiệu (trong trƣờng hợp này là từ) khăng khít với nhau nhƣ hai mặt của một tờ
giấy. Ở giai đoạn hoàng kim của cấu trúc luận, sự gắn kết chặt chẽ này đƣợc
coi là phải mang tính võ đoán nghiêm ngặt. Chính tính không lí do của gắn
kết mới làm cho số lƣợng từ là hữu hạn có thể phản ánh đƣợc vô hạn các khái
niệm và thực tế khách quan, đủ cho ngƣời dùng trong giao tiếp xã hội. Mặt
khác, nhờ tính võ đoán, các bình diện, cấp độ khác nhau trong cấu trúc ngôn
ngữ mới đủ đảm bảo trở thành các đối tƣợng khoa học cho các ngành ngôn
ngữ học độc lập. Chẳng hạn: ở mặt ngữ nghĩa có ngành Ngữ nghĩa học; ở mặt

âm thanh có ngành Âm vị học; ở mặt từ ngữ có Từ vựng học... Nhƣ vậy, tính
võ đoán là tiền đề có tính nguyên tắc trong khi nhìn hệ thống ngôn ngữ nhƣ là
các tầng bậc cấu trúc có tính độc lập tƣơng đối theo nguyên tắc cấu trúc luận.
Nó cho phép khẳng định đơn vị tín hiệu đang xét nhƣ là một loại tín hiệu điển
hình, do quy ƣớc mà thành.
Ngày nay, ngôn ngữ học hiện đại không còn làm việc với một khung lí
thuyết cứng nhắc nhƣ vậy nữa. Khi xét bản chất ngôn ngữ theo mối quan hệ
biểu hiện và đƣợc biểu hiện và giữa ngôn ngữ với thực tại mà nó phản ánh,
các nhà tín hiệu học hiện đại chia các đơn vị tín hiệu từ ngữ của một ngôn ngữ
ra là nhiều loại khác nhau. Những loại này đƣợc xác định nhờ mức độ gắn kết
tự nhiên hay không tự nhiên giữa hai mặt và giữa ngôn ngữ và thực tại. Về
tính chất của mối quan hệ này, R. Keller cho rằng, trong thực tế tồn tại hai
cực đối ngƣợc nhau: phỏng hình tính (iconicity) và phù hiệu tính
(symbolicity). Ở cực phỏng hình, các đơn vị tín hiệu chƣa đánh mất mối liên
hệ tự nhiên giữa mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện và giữa ngôn ngữ và thực
tại. Còn ở cực phù hiệu, chúng đã hoàn toàn đánh mất mối liên hệ tự nhiên
giữa các mặt và hiện tƣợng này. Các từ ngữ nhƣ Saussure và những nhà cấu
trúc luận cực đoan quan tâm là các từ đã đủ tƣ cách phù hiệu và tín hiệu.
Chúng cơ giới trong mối quan hệ biểu hiện và đƣợc biểu hiện. Chính ở khu
vực này, việc tách ra đồng âm và đồng nghĩa mang lại kết quả khả quan trong

16


nhìn nhận tính hệ thống của một khối từ vựng. Tuy nhiên, khi các từ chƣa
đánh mất hoàn toàn mối liên hệ giữa hình thƣc và nối dung, giữa nhận thức và
thực tại, tức là các từ còn mang tính phỏng hình nhiều, thì việc xét tính đồng
âm và tính đồng nghĩa của chúng dƣờng nhƣ là thật khiên cƣỡng và máy móc.
Sự gần giống nhau về hình thức cũng nhƣ sự tƣơng tự về mặt nội dung do
những ấn tƣợng, những liên tƣởng tâm lí đƣa lại, tạo cho chúng một thang độ

nào đó về tính đồng nhất và mối liên hệ giữa các đồng nhất có mức độ đó ở
mặt hình thức và nội dung. Điều này cho phép nghiên cứu các từ có đặc trƣng
phỏng hình theo tiếp cận của quá trình từ tƣơng tự.
Ở 1.1.3.1 và 1.1.3.2 chúng ta đã xem xét tới hai hiện tƣợng đồng âm và
đồng nghĩa. Ở hiện tƣợng đồng âm, tiêu chí hình thức ngữ âm đƣợc quan tâm
và xét đến trƣớc nhất. Còn ở hiện tƣợng đồng nghĩa thì tiêu chí đƣợc xét đến
trƣớc nhất là nội dung. Hiện tƣợng từ tƣơng đƣợc Ju.X.Xtepanov định nghĩa
nhƣ một hiện tƣợng thực sự trung gian giữa hiện tƣợng đồng âm và đồng
nghĩa: “hiện tượng từ tương tự là hiện tượng hai từ trùng nhau từng bộ phận
của vỏ ngữ âm: cách trùng nhau như thế không thể quy vào hiện tượng đồng
âm, cũng không thể nói là hai từ trùng nhau về từng thành phần cấu tạo của
chúng (trùng gốc từ, về tiếp đầu tố, hậu tố, vĩ tố). Ý nghĩa của hai từ cũng
giống nhau, nhưng trên thực tế sự giống nhau đó không thể xác định một cách
hoàn toàn tách biệt là hiện tượng đồng âm hay là một biến dạng”[39; 82].
Có thể khai triển ý tƣởng lí thuyết này cho khu vực thực tế mà chúng ta
đang quan tâm. Trước hết, việc xem xét và miêu tả các thuộc tính hình thức
(ngữ âm) và thuộc tính nội dung (ngữ nghĩa) của các nhóm từ tƣơng tự phải
xuất phát từ quan niệm đồng đại. Trong khi hoạt động, ngôn ngữ luôn vận
động và phát triển. Quá trình vận động đó dẫn đến những thay đổi về hệ thống
ngữ âm và thay đổi về hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ, quen gọi là ngữ
âm học lịch sử hay từ vựng học lịch sử. Dƣới quan điểm lịch đại, các từ, các
thuộc tính ngữ âm cũng đƣợc nối lại với nhau theo các nguyên tắc phục

17


nguyên (hay tái lập). Chúng cũng đƣợc gọi là các phép nối có tính hệ thống,
nhƣng là hệ thống của tiến trình lịch sử (theo chiều dọc). Chẳng hạn, trong
lịch sử ngữ âm tiếng Việt, các thanh điệu thấp có mối quan hệ hệ thống với
đối lập hữu/ vô thanh của phụ âm đầu. Tuy nhiên, không thể nói nhƣ vậy

trong lát cắt đồng đại về một mối quan hệ giữa các thanh thấp với các phụ âm
đầu hữu thanh đƣợc, vì trong lát cắt đồng đại, thanh và phụ âm đầu là hai tiểu
hệ khác nhau và có chức năng khu biệt nghĩa khác nhau! Cũng nhƣ vậy, các
từ ngữ luôn bị biến động trong lịch sử phát triển. Chẳng hạn, trong lịch sử từ
vựng học tiếng Việt, từ lấm có thời kì đã đƣợc dùng nhƣ là từ có nghĩa bùn, từ
han có thời kì đã đƣợc dùng nhƣ từ hỏi ngày nay. Theo quan điểm lịch sử, các
từ này có quan hệ hệ thống về nguồn gốc. Tuy nhiên, trong thời đƣơng đại,
lấm và bùn là hai từ khác nhau. Chúng có trạng thái ngữ pháp khác nhau và
nghĩa khác nhau. Tƣơng tự, han và hỏi trong thời hiện đại không có tính hệ
thống vì han đã mất tƣ cách độc lập mà chỉ còn là một yếu tố cấu tạo từ không
độc lập mà thôi. Chính vì thế, khi tập hợp các từ ngữ vào hệ các từ tƣơng tự,
chúng ta phải xuất phát từ cách nhìn đồng đại: chúng đang tồn tại và đƣợc
ngƣời bản ngữ hiểu và sử dụng tự nhiên.
Thứ hai, khu vực xét hệ thống từ vựng theo tính tƣơng tự cần mở rộng
ra cả ở các đơn vị từ vựng lẫn các yếu tố từ vựng. Chẳng hạn: ngang, thẳng,
bằng, thoang thoảng, quàng, tthoáng, choàng, loạng choạng ... là các yếu tố
từ vựng chung nhau nét hiện diện (hoặc làm cho hiện diện) theo bề ngang.
Trong nhóm tƣơng tự này có những đơn vị là các từ, ví dụ: ngang, thẳng,
bằng, quàng, thoáng, choàng. Đồng thời lại có các đơn vị là các yếu tố cấu
tạo từ: thoang, choạng...
Thứ ba, vì các nét nghĩa liên hội tâm lí này là nét từ vựng học - tâm lí,
nên không nhất thiết chúng phải cùng nằm trong một phạm trù từ vựng học ngữ pháp: từ loại. Chẳng hạn, trong nhóm vừa dẫn ra có thể thấy có các từ là
danh từ, động từ và cả là tính từ. Chính vì những đặc điểm này mà khi tập hợp

18


vào nhóm tƣơng tự từ vựng học, chúng ta có cả hai loại đơn vị: từ và yếu tố
cấu tạo từ. Do vậy, từ đây chúng ta gọi các yếu tố có trong hệ thống tƣơng tự
từ vựng học là các yếu tố từ vựng học tƣơng tự để tiện làm việc.

Cuối cùng, về mặt tiêu chuẩn tập hợp nhóm. Có thể coi là các yếu tố từ
vựng tƣơng tự, khi chúng thoả mãn những tƣơng tự đồng thời ở cả hai bình
diện:
a./ nội dung ngữ nghĩa
b./ hình thức ngữ âm.
Chẳng hạn, đƣợc coi là có sự tƣơng tự về mặt nội dung ngữ nghĩa là
các từ hoặc yếu tố từ vựng có những nét nghĩa nào đó gần nhau hoặc có sự
liên hội tâm lí về cái đƣợc biểu hiện. Ví dụ ngâm, ngầm, ngấm, ngẩm, ngậm,
và ngẫm có nét chung về mặt ngữ nghĩa là: sự kéo dài và không bộc lộ ra
ngoài. Còn đƣợc coi là có sự tƣơng tự về mặt hình thức ngữ âm là các từ hoặc
yếu tố từ vựng có những nét ngữ âm nào đó gần gụi nhau hoặc có thể tìm ra
mối dây liên hệ về âm vị học qua biểu diễn âm vị học. Ví dụ cong. queo,
khoèo, co, vặn, khoảnh, khoang.... có một đặc điểm ngữ âm chung nhau và có
một mối liên hệ về âm vị học là: nét tròn môi. Nét này khi thì nằm ở khu vực
điệu vị tính, khi thì nằm ở khu vực chiết đoạn tính; khi thì nằm ở phụ âm, khi
thì nằm ở nguyên âm...
Dựa trên các đặc điểm vừa xác lập đối với hiện tƣợng tƣơng tự từ vựng
học, chúng ta đi tới định nghĩa để làm việc nhƣ sau:
Một hệ thống có tính tương tự về mặt từ vựng học bao gồm các thành
viên là các yếu tố từ vựng học có những đặc trưng ngữ âm tương tự nhau và
(từ đó hay do vậy mà) có những san sẻ (với nhau) về đặc trưng ngữ nghĩa.
Các yếu tố từ vựng học này không nhất thiết phải được đồng nhất nhau về
mặt từ loại hay tư cách đơn vị ở cấp độ từ. Vì hiện tượng tương tự là hiện
tượng ngôn ngữ học của diện đồng đại nên các yếu tố được xét phải được

19


nằm trong ngữ năng (compentence) của người dùng đương đại và được người
bản ngữ cảm nhận như một hiện tượng tâm lí ngôn ngữ học trực cảm.

1.1.4.2. Phân loại
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có trong mọi ngôn ngữ. Đối với mỗi
cá nhân, việc cảm nhận và hiểu từ nhƣ là một kết quả tự nhiên mang tính trực
cảm, chứ không phải là kết quả suy luận thuần lí nhƣ khi đối diện với các khái
niệm. Việc nhận cảm từ ngữ ở tiếng mẹ đẻ là khác xa với việc nghe hiểu và sử
dụng từ ngữ ở ngôn ngữ thứ hai. Ở ngôn ngữ mẹ đẻ, cá nhân sử dụng từ theo
trực cảm, theo kinh nghiệm đã có sẵn nhƣ là một hành vi vô thức. Trong khi ở
ngôn ngữ thứ hai, cá nhân buộc phải sử dụng từ theo cách diễn dịch: đi từ
nghĩa, từ hiệu lực của từ tới việc chọn từ ngữ thích hợp [D. Abercrombie].
Quá trình này ở ngôn ngữ thứ hai dựa trên cơ sở thuần suy lí hơn là từ trực
cảm. Do vậy các quá trình từ vựng của các cá nhân trong ngôn ngữ thứ hai
không mang tính tự nhiên nhƣ ở ngôn ngữ thứ nhất. Một trong những nguyên
nhân gây nên sự khác biệt trong cảm thức về vốn từ vựng học nhƣ vậy là do
mối quan hệ giữa ngƣời sử dụng ngôn ngữ và các đặc trƣng của một ngôn ngữ
mà anh ta sử dụng. Trong trƣờng hợp đang xét là khả năng thụ đắc từ thông
qua các đặc điểm phức tạp sẵn có bên trong một cấu trúc từ vựng học của một
ngôn ngữ. Các từ đƣợc nối lại với nhau một cách có hệ thống bằng toàn bộ
các thuộc tính vốn có bên trong và bên ngoài nó. Trong các thuộc tính này, có
những thuộc tính thuộc về tín hiệu tính (hay phù hiệu tính) và có những thuộc
tính thuộc về phỏng hình tính (hay cụ tƣợng tính). Khi cá nhân là ngƣời ngoài
cộng đồng nói năng, sử dụng ngôn ngữ nhƣ là một ngôn ngữ thứ hai, các
thuộc tính thứ nhất (tín hiệu tính) nổi lên, trong khi nếu là ngƣời bản ngữ thì
thuộc tính thứ hai lại mạnh hơn. Đó cũng chính là bản chất của hiện tƣợng
ngữ cảm (intitution ) của ngƣời bản ngữ huyền bí mà nhà ngôn ngữ học nào
cũng cảm nhận đƣợc nhƣng ít ngƣời giải thích thấu đáo!

20


Vốn từ của một ngôn ngữ là một sự tích tụ kinh nghiệm sử dụng ngôn

từ trong cả tiến trình hình thành và phát triển của một tộc ngƣời. Nó là sự kế
thừa, lƣƣ đọng những lớp từ khác nhau đã tồn tại từ trƣớc đó qua sự lựa chọn
của cộng đồng ngƣời dùng. Chính vì thế, ở bất kì ngôn ngữ nào, vốn từ cũng
là những lớp ánh xạ của các lớp lang, tầng bậc theo cả hai chiều mặt biểu hiện
và đƣợc biểu hiện từ bên trong cấu trúc ngôn ngữ với hiện thực bên ngoài
ngôn ngữ mà nó phải có nhiệm vụ chuyên tải. Khi một sự vật, một ý tƣởng,
một biểu trƣng tâm lí của một tộc ngƣời đƣợc phản ánh lên cấu trúc ngôn ngữ
theo nguyên tắc ánh xạ nhiều lớp nhƣ vậy, tất nhiên sẽ tạo ra hiện tƣợng nhiều
biểu hiện na ná nhƣ nhau đối với nhiều đƣợc biểu hiện na ná nhƣ nhau ở mặt
đƣợc biểu hiện, cái mà chúng ta đang gọi chúng là hiện tƣợng tƣơng tự theo lí
thuết tín hiệu học hiện đại. Do nguyên lí ánh xạ nhiều đợt nhƣ vậy, ở một lát
cắt đồng đại, vốn từ theo hiện tƣợng tƣơng tự từ vựng học đƣợc chia thành
nhiều lớp khác nhau theo các đặc điểm cấu trúc. Những hiện tƣợng từ ngữ mà
trƣớc đây đƣợc quan niệm là tập hợp các biến thể từ vựng là kiểu sơ cấp trong
nguyên lí từ tƣơng tự này. Đƣợc gọi là sơ cấp, bởi vì thực chất cả nhóm đƣợc
hoạt động theo nguyên tắc: nội dung nghĩa đƣợc giữa nguyên trong khi bề mặt
biểu hiện có những luân phiên ngữ âm học nhất định. Những luân phiên này
có thể tìm ra dễ dàng nhờ một phép chuyển đơn tuyến của biểu diễn âm vị
học. Chẳng hạn, những từ sau đây đƣợc thể hiện chỉ bằng một luật chuyển âm
vị học có ở vần:
đàng - đường
tràng - trường
cang - cương
đang - đương
...
Luật chuyển âm vị học: [a|] [Ƣ|].

21



Trong trƣờng hợp vừa trích dẫn, nghĩa trong hai từ cùng cặp dƣờng nhƣ
đồng nhất. sự khác nhau thuộc về phong cách dùng. Những chuyển đổi về
hình thức ngữ âm của chúng có thể dễ dàng tìm thấy trong vài đặc điểm ngữ
âm lịch sử nào đó của tiếng Việt. Trong trƣờng hợp cụ thể này, đó là đặc điểm
có trong Nguồn gốc của cách đọc Hán Việt.
Loại tƣơng tự thứ hai không đơn thuần là sự bảo lƣu nét nghĩa theo cấu
trúc, theo nguyên lí đơn thuần tín hiệu học cổ điển, mà phức tạp hơn. Cả hai
mặt nghĩa và ngữ âm đều có những chuyển dịch nhất định. Những chuyển
dịch này cho một cách nhìn tâm lí đối với hiện tƣợng ngôn ngữ. Chẳng hạn
giữa các từ sau đây hình thành một tƣơng tự từ vựng học: cong. queo, khồe,
co, vặn, khoảnh, khoang....Về nội dung ngữ nghĩa, chúng đều xoay quanh
biểu tƣợng tâm lí về hình tròn. Còn về biểu hiện, chúng đều có một nét [+tròn
môi], nét ngữ âm này có thể đƣợc âm vị học hoá vào đơn vị chiết đoạn hay
đơn vị siêu đoạn. Cái khó khăn của việc thâu thập hiện tƣợng tƣơng tự loại
thứ hai này là ở khả năng trừu xuất nội dung nghĩa của các từ có liên hệ. Công
việc này do mang tính tâm lí thẩm nhận nên chỉ ngƣời nói tiếng Việt nhƣ
tiếng mẹ đẻ mới có thể cảm nhận đƣợc đầy đủ và tự nhiên.
Tóm lại, theo lí thuyết Tín hiệu học hiện đại, hiện tƣợng tƣơng tự từ
vựng học bao gồm hai loại. Hai loại phân biệt nhau theo:
a./ theo tính chất của tín hiệu
b./ theo số lƣợng thành viên trong nhóm.
Theo tính chất tín hiệu:
a/ giữa mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện có mối liên hệ thuần võ đoán:
các từ tƣơng tự tách rời giữa mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện. Cái đƣợc biểu
hiện dƣờng nhƣ ổn định và đồng nhất, trong khi cái biểu hiện thì trƣợt trên
các đặc điểm luân phiên về ngữ âm. Chúng là các đơn vị tín hiệu điển hình
theo nguyên lí tín hiệu học có từ thời Saussure.

22



b./ giữa mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện dƣờng nhƣ có một mối liên hệ
tâm lí nào đó, Mối liên hệ của các từ trong nhóm là có lí do. Trong trƣờng
hợp này cả mặt biểu hiện và đƣợc biểu hiện đều xê dịch. Các từ trong nhóm
có sự chia sẻ về nội dung và hình thức. Nhƣng sự chia sẻ về mặt đƣợc biểu
hiện là một nét nghĩa chung nào đó, thông thƣờng không đƣợc từ điển chú ý
tới và tƣờng minh. Sự chia sẻ về mặt biểu hiện thông thƣờng là một nét ngữ
âm nào đó. Nét ngữ âm này về mặt chức năng không nhất thiết phải bị gán
vào một đơn vị âm vị học cụ thể nhƣ âm vị học cổ điển thƣờng quan niệm.
Các đặc điểm nhƣ vừa nếu có lẽ là do đặc điểm loại hình của tiếng Việt.
Chính vì vậy, để hiểu triệt để về nó phải là ngƣời bản ngữ.
Theo số lượng thành viên:
a./ Có sự tƣơng ứng theo cặp - nguyên tắc của hệ thống đóng. Số lƣợng
thành viên hạn chế,
b./ Có sự tập hợp theo nhóm - nguyên tắc của hệ thống mở. Số lƣợng
thành viên không hạn chế.
Theo hai đặc điểm này, chúng ta chia các tƣơng tự từ vựng học tiếng
Việt thành hai loại:
Loại 1: tƣơng tự của tín hiệu (signes). Các từ trong nhóm có mặt đƣợc
biểu hiện ổn định và mặt biểu hiện xê dịch. Số lƣợng thành viên trong nhóm
hạn chế.
Loại 2: tƣơng tự của phỏng hình (incon). Các từ trong nhóm có sự xê
dịch cả về mặt biểu hiện lẫn đƣợc biểu hiện. Số lƣợng thành viên trong nhóm
khống hạn chế.
1.2. ÂM VỊ VÀ NÉT KHU BIỆT TRONG ÂM VỊ HỌC TIẾNG VIỆT

1.2.1. Âm tiết
Nhƣ chúng ta đã biết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
Trong tiếng Việt, âm tiết là đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt, có tính độc lập
cao. Nó là đơn vị rất dễ nhận diện trong phát âm (âm thanh hoá) lẫn trong


23


cách viết (ký tự hoá). Khi phát âm, mỗi âm tiết bao giờ cũng đƣợc thể hiện rất
rõ ràng và đƣợc phát âm tách rời với các tiếng đi cạnh nó. Khi viết, mỗi âm
tiết đƣợc ghi thành một chữ rời với các chữ khác. Ví dụ, trong câu: “Mẹ đi
chợ mới về” bất kì ngƣời Việt nào cũng nhận ra có 5 tiếng tách rời nhau, cũng
tức là có 5 khối chữ tách rời nhau đƣợc thể hiện khi viết. Đó là: “mẹ” “đi”
“chợ” “mới” “về”.
1.2.2. Cấu trúc âm tiết
Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất. Nó là khúc đoạn âm thanh nhỏ nhất
có thể phân cắt đƣợc trong chuỗi lời nói đƣợc con ngƣời phát ra. Tuy nhiên,
nhờ vào các thủ tục phân xuất âm vị học và hình thái học, mỗi âm tiết tiếng
Việt còn có thể đƣợc chia tách thành các bộ phận nhỏ hơn âm tiết. Các bộ
phận này đƣợc gọi là các thành phần âm tiết. Theo GS. Đoàn Thiện Thuật,
việc chia tách này đƣợc tiến hành theo hai bậc nhƣ mô hình sau:

ÂM ĐẦU

THANH ĐIỆU
VẦN
ÂM ĐỆM
ÂM CHÍNH

ÂM CUỐI

Ví dụ một âm tiết nhƣ “hoan” có cấu trúc gồm 5 yếu tố nhƣ sau:
1/ Thanh điệu 1 (không dấu): là thành tố có chức năng phân biệt với các
âm tiết khác về cao độ.

2/ Âm đầu /h-/: là thành tố có chức năng mở đầu âm tiết.
3/ Âm đệm /-w-/: là thành tố có chức năng thay đổi âm sắc của âm tiết
sau lúc mở đầu.
4/ Âm chính /-a-/: là thành tố quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là
hạt nhân của âm tiết.
5/ Âm cuối /-n/: thành phần đảm nhiệm chức năng kết thúc âm tiết.

24


Trong thực tế, không phải âm tiết tiếng Việt nào cũng bao gồm đủ cả 5
thành phần cấu tạo nhƣ trình bày ở dụ trên. Sự vắng mặt các thành phần âm
tiết trên bình diện phát âm và chữ viết là không nhƣ nhau. Trên hình thức chữ
viết thì chỉ có 5 ký hiệu biểu diễn 5 thanh điệu (từ thanh 2 đến thanh 6: huyền,
hỏi, ngã, sắc, nặng) còn thanh điệu 1 không có hình thức biểu hiện, song trên
bình diện âm thanh thì nó vẫn tồn tại. Bất cứ âm tiết tiếng Việt nào cũng có sự
mở đầu của mình song trên hình thức chữ viết cũng có một âm vị làm âm đầu
không đƣợc ký hiệu hoá, đó là âm vị / K/. Âm chính là thanh phần không thể
thiếu của bất cứ âm tiết tiếng Việt nào trên cả hai bình diện: phát âm và chữ
viết. Một âm tiết có thể có hoặc không có âm đệm và âm cuối trong bình diện
phát âm. Sự vắng mặt của âm đệm và âm cuối trên bình diện phát âm đƣợc
thể hiện bằng sự vắng mặt hình thức biểu hiện trên chữ viết.
Âm tiết tiếng Việt bao gồm nhiều thành phần khác nhau, và đƣờng
phân chia các thành phần này cũng đậm nhạt khác nhau hay nói đúng hơn thì
chúng thuộc vào các tầng bậc cấu trúc khác nhau. Đƣờng ranh giới phân chia
giữa âm đầu, vần và thanh điệu là rất rõ ràng, còn đƣờng ranh giới phân chia
các bộ phận bên trong vần (âm đệm, âm chính và âm cuối) hết sức mờ nhạt.
Tuỳ thuộc vào mức độ đậm nhạt, hay khả năng độc lập của các yếu tố âm tiết
tiếng Việt đƣợc chia thành hai bậc cấu trúc:
- Bậc 1 gồm thanh điệu, âm đầu và vần là các yếu tố có tính độc lập

cao, kết hợp lỏng.
- Bậc 2 gồm các thành tố của vần: âm đệm, âm chính và âm cuối là
các yếu tố có tính độc lập thấp, kết hợp khá chặt.
Có thể hình dung cấu trúc 2 bậc của âm tiết tiếng Việt qua sơ đồ sau:

Âm tiết

Bậc 1
Âm đầu

Âm đệm

Vần

Thanh điệu

âm chính

âm cuối

25

Bậc 2


Âm vị học hiện đại đi sâu vào nghiên cứu các thuộc tính có bên trong
từng âm vị và mối liên kết của chúng để cấu trúc nên các đơn vị âm vị học lớn
hơn nhƣ âm vị hoặc tiết vị. Trong quan niệm này, âm tiết đƣợc coi là sự cố
kết của hai đƣờng phân bố của các nét siêu đoạn và chiết đoạn vốn có trong
từng cấu trúc tiết vị ( đối với các ngôn ngữ Đông phƣơng, nhất là các ngôn

ngữ có thanh điệu).
Mô hình sau đây cho phép thấy rõ đặc trƣng phân bố các nét âm vị học
có trong một âm tiết (hình tiết):
N

C1
Chú thích:

V

C2

T

N: Mức năng lƣợng cho nét khu biệt.
T: Thời gian để thể hiện một âm tiết.
C1, V, C2: Cấu trúc khung âm tiết.
Âm tiết tiếng Việt đƣợc phân chia làm hai cấu trúc nhỏ đó là cấu trúc
chiết đoạn và cấu trúc siêu đoạn. Cấu trúc chiết đoạn là cấu trúc phổ niệm cho
bất kỳ một ngôn ngữ nào trên thế giới. Còn cấu trúc siêu đoạn thì mang tính
đặc thù cho từng ngôn ngữ cụ thể. Cấu trúc chiết đoạn trong âm tiết bao gồm
các thành tố:
- Âm đầu.

26


×