Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thơ nôm tứ tuyệt trào phúng hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.16 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––

ĐÀM THỊ ĐÀO

THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG
HỒ XUÂN HƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC
LUẬN
SĨVĂN
NGÔN
THẠC
NGỮSĨVÀ
VĂN
VĂN
HỌC
HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015
Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––

ĐÀM THỊ ĐÀO



THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG
HỒ XUÂN HƢƠNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ GIA VÕ

Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng Hồ Xuân Hương” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác,
hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.

Tác giả luận văn
Đàm Thị Đào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN i

/>

Lời cảm ơn


Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học
Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường Đại học
Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Gia Võ,
người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.

Tác giả luận văn
Đàm Thị Đào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ii

/>

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan………………………………………………………………......i
Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii
Mục lục…………………………………………………………………….....iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 6

4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
7. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8
8. Đóng góp của đề tài............................................................................................ 9
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...........................................................10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài ..........................................................10
1.1.1. Thơ tứ tuyệt ................................................................................................10
1.1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng .....................................................................15
1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương ...........18
1.3.Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong
văn học trào phúng thời trung đại ........................................................................20
1.4. Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ...............27
Chƣơng 2. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG .........................................................30
2.1. Hệ thống đề tài ..............................................................................................30
2.2. Đối tượng, nội dung trào phúng ....................................................................33
2.2.1. Tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ ...............33
2.2.2. Những vấn đề xã hội ..................................................................................45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iii

/>

2.3. Mục đích, ý nghĩa trào phúng .......................................................................53
Chƣơng 3. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ..................................................56
3.1. Ngôn ngữ trào phúng.....................................................................................56
3.1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian .........56
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa........................................................62
3.2. Nghệ thuật cái “tục” ......................................................................................67

3.2.1. Các ý kiến bàn về vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương .................67
3.2.2. Số lần xuất hiện, trường hợp xuất hiện cái tục...........................................70
3.2.3. Cái tục với ý nghĩa phê phán, châm biếm, đả kích cường quyền và thần
quyền phong kiến .................................................................................................73
3.2.4. Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc trần
tục, đòi tự do và giải phóng con người. ...............................................................76
KẾT LUẬN .........................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iv

/>

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học Việt Nam ra đời trong khi văn học Trung Quốc đã có một bề dày
phát triển. Tuy nhiên, cha ông ta đã cố gắng vượt qua sự ràng buộc của ngôn ngữ
Hán bằng cách tạo ra một văn tự mới: chữ Nôm. Từ thể loại thơ Đường luật chữ
Hán, ông cha ta đã vận dụng và chuyển hóa thành hình thức sáng tác bằng ngôn
ngữ dân tộc là thơ Nôm Đường luật. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý nằm gần
hai cái nôi văn minh lớn của nhân loại: Ấn Độ và Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam
và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông lại càng có ý nghĩa.
Ở Việt Nam, từ thế kỷ thứ X trở về sau, nhân tài được lựa chọn qua thi cử
ngày càng nhiều. Khoa thi ở các triều đại Lý, Trần, Lê… sĩ tử đều có những bài
liên quan đến thơ, mà thơ Đường luật là chính. Bằng con đường như thế, thơ
Đường luật xuất hiện ngày càng nhiều trong tiến trình văn học trung đại Việt
Nam. Từ thế kỷ XIII, chữ Nôm đã xuất hiện nhưng (theo các tài liệu hiện có)
phải đến thế kỷ XV, trở thành ngôn ngữ văn học. Thể thơ Đường luật ở Trung
Quốc thường gắn liền với những nội dung trang trọng, chính thống theo quan
điểm “Thi dĩ ngôn chí” nhưng khi cha ông ta dùng chữ Nôm để sáng tác theo thể

thơ này, đã đưa vào đó những vấn đề mới mẻ như nội dung trào phúng, những
tình cảm đời thường, bình dị, những vấn đề dân dã của thôn quê…
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy bộ phận thơ Nôm Đường luật trào
phúng đã xuất hiện từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các tác giả
thời Hồng Đức, kéo dài cho đến hết thời kỳ trung đại, tạo thành một dòng chảy
riêng biệt, có những đóng góp độc đáo cả về phương diện nội dung tư tưởng
cũng như hình thức nghệ thuật. Đây là một thể thơ góp phần quan trọng vào sự
phát triển của văn học dân tộc. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào chuyên sâu về thơ tứ tuyệt trào phúng. Việc đi sâu vào tìm hiểu
hiện tượng Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng chính là mục
đích của đề tài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 1

/>

Tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ Đường đồng thời
cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương. Điều thú vị là, trước Hồ
Xuân Hương, rất hiếm tác giả Việt Nam dùng thể thơ tứ tuyệt để trào phúng. Hồ
Xuân Hương thì ngược lại. Đây là một sự phát triển mang tính đột biến trong
dòng thơ Nôm Đường luật ở nước ta.
Hơn nữa, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với những giá trị
độc đáo cho đến nay vẫn chưa được khảo cứu, đánh giá toàn diện, kỹ càng. Vì
vậy, mảng thơ này rất xứng đáng trở thành đối tượng nghiên cứu cho những ai đã
từng tâm huyết với thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng và thơ
Nôm Đường luật nói chung.
Hồ Xuân Hương đã từng được Xuân Diệu mệnh danh là “Bà chúa thơ
Nôm”. Sáng tác thơ Nôm của bà đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể
loại thơ Nôm Đường luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ
thơ ca dân tộc. Và điều đáng chú ý là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương, bộ

phận trào phúng có vị trí độc đáo và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
nữ sĩ. Đây là một tác giả khá quen thuộc được giảng dạy trong chương trình
văn học nhà trường. Do đó, tìm hiểu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân
Hương sẽ có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn đối với người giáo viên văn học.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Những vấn đề liên quan đến Hồ Xuân Hương
2.1.1. Cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và văn bản tác phẩm
Trước Cách mạng tháng Tám, Hồ Xuân Hương được khẳng định là một
tác gia văn học, tác giả của nhiều bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Điều này
được khẳng định qua những tác phẩm Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế
và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Việt Nam văn học sử yếu và Quốc văn trích
diễm của Dương Quảng Hàm, Giai nhân dị mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu
Tiến, Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc…
Sau Cách mạng, đặc biệt là sau 1954, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt
Nam của nhóm tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Lê
Hoài Nam, Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XVIII – nửa cuối thế kỷ XIX của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 2

/>

Nguyễn Lộc, Lịch sử văn học Việt Nam của nhiều tác giả, Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của nhóm tác giả Đặng Thanh Lê,
Phạm Luận, Hoàng Hữu Yên…đều khẳng định rằng có một tác giả Hồ Xuân
Hương với những bài thơ Nôm tứ tuyệt. Tuy nhiên, việc chọn những bài thơ Hồ
Xuân Hương vẫn chưa có sự thống nhất ở các công trình nghiên cứu.
Nghiên cứu về thân thế, cuộc đời và văn bản tác phẩm Hồ Xuân Hương bắt
đầu có những biến đổi, phát triển vượt bậc từ khi nhà nghiên cứu văn học Trần
Thanh Mại cho đăng một loạt bài trên Tạp chí văn học như Phải chăng Hồ
Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán, Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương,
Bản "Lưu Hương ký" và lai lịch phát hiện của nó,… Sau đó xuất hiện hàng

loạt bài của các tác giả khác tiếp tục tranh luận, đi sâu vào vấn đề tiểu sử và văn
bản tác phẩm của Hồ Xuân Hương như Tảo Trang, Nam Trân, Đào Thái Tôn,...
Đặc biệt chú ý là hai công trình nghiên cứu của tác giả Đào Thái Tôn là Hồ
Xuân Hương – từ cội nguồn vào thế tục và Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn
bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa. Trong những bài viết của mình, Đào
Thái Tôn đã tổng kết khá hệ thống tất cả những vấn đề có liên quan đến tiểu sử
và văn bản thơ Hồ Xuân Hương, đã góp phần khẳng định Hồ Xuân Hương còn là
một nhà thơ chữ Hán và lập luận đầy thuyết phục về tiểu sử của bà, đi tới kết
luận bà là con của Hồ Sỹ Danh, em của Hồ Sỹ Đống. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có một quan điểm thống nhất về văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân
Hương, mỗi tác giả vẫn lựa chọn cho mình một quan điểm khác biệt.
2.1.2. Giá trị nội dung tƣ tƣởng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định và đánh giá rất cao giá trị nhân
văn của thơ Hồ Xuân Hương, đều tập trung làm nổi bật ý thức chống phong kiến,
khát vọng đời sống tự nhiên, giá trị nhân đạo của thi phẩm Hồ Xuân Hương. Tiêu
biểu cho các công trình ấy là Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và
giáo dục của Văn Tân, phần viết về Hồ Xuân Hương trong Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của
Nguyễn Văn Hanh, Một bức thư của Chế Lan Viên, Góp thêm một tiếng nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 3

/>

trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, hay trong Văn nghệ bình dân Việt
Nam của tác giả Trương Tửu… Tuy có những ý kiến đối lập nhau nhưng đều
thừa nhận thơ Hồ Xuân Hương có giá trị nội dung tư tưởng đặc sắc, có sức sống
lâu bền với thời gian.
2.1.3. Giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hƣơng
Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ
thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Tài năng nghệ thuật của bà đã được khẳng

định và đánh giá rất cao trong nền văn học dận tộc từ xưa đến nay. Tiêu biểu là
các công trình Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn
Văn Hanh, đến Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm,… Càng về
sau, vấn đề nghệ thuật trong thơ bà càng được nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực
tế, Lê Tâm là người đầu tiên phong cho Hồ Xuân Hương danh hiệu “Bà chúa thơ
Nôm” trong Thân thế và thi ca Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm. Sau đó,
bằng năng lực cảm thụ tinh tế, bằng sự hiểu biết sâu sắc văn hóa trung đại và
kinh nghiệm sáng tạo thơ của mình, Xuân Diệu đã phân tích và khẳng định Hồ
Xuân Hương là một trong “ba thi hào dân tộc” lớn, có vị trí xứng đáng trên thi
đàn trung đại.
Khi nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, một số tác giả đã
đi sâu vào mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ Hồ Xuân Hương và văn học dân gian.
Tiêu biểu là bài viết của tác giả Đặng Thanh Lê: Hồ Xuân Hương – bài thơ
"Mời trầu", cộng đồng truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ
văn học dân gian và văn học viết và bài viết của Nguyễn Đăng Na: Thơ Hồ
Xuân Hương với văn học dân gian... Trong các công trình nghiên cứu đó,
Nguyễn Đăng Na đã chứng minh được rằng Hồ Xuân Hương đã “nghĩ cái nghĩ
dân gian, cảm cái cảm dân gian”[28, tr.26].
Ở một khía cạnh khác, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thế giới thơ Nôm Hồ
Xuân Hương đã đi sâu vào khám phá nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương như
một thế giới nghệ thuật với hệ thống hình ảnh, hình tượng và những trạng thái,
tính chất riêng, độc đáo nói lên một cá tính sáng tạo rất Xuân Hương trong lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 4

/>

sử thơ ca trung đại Việt Nam. Tâm lý sáng tạo của Hồ Xuân Hương cũng đã
được Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu trong Tâm lý sáng tạo trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương, trong công trình đó, tác giả đã lý giải tư duy nghệ thuật đặc sắc của một
người phụ nữ luôn ý thức về thân phận mình.

Trong giới hạn nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, từ đầu
thế kỉ XX đến nay, giới nghiên cứu Việt Nam ngày càng đi sâu hơn vào bản chất
nghệ thuật phong phú và đặc sắc trong thơ nữ sĩ ở tất cả các phương diện như thể
loại, bút pháp, thi pháp, cá tính sáng tạo, tài nghệ ngôn ngữ…. Các thành tựu
nghiên cứu đó đều góp phần khẳng định nghệ thuật độc đáo của “Bà chúa thơ
Nôm” trong nền thơ dân tộc.
2.2. Vấn đề trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng
Trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, chúng ta nhận thấy
vấn đề trào phúng được coi là một đóng góp quan trọng của nữ sĩ vào lịch sử văn
học. Thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chiếm số lượng nhiều nhất, là bộ
phận có giá trị nhân đạo sâu sắc nhất trong thơ Nôm của bà. Vì vậy, hầu như tất
cả các bộ lịch sử văn học đều khẳng định bà trong tư cách một nhà thơ trào
phúng vào loại xuất sắc nhất của dân tộc.
Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trong mối
quan hệ với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam là Giáo sư Đặng
Thanh Lê. Trong công trình Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, tác
giả “đã đặt những sáng tác của bà trong sự phát triển của “Dòng thơ Nôm Đường
luật”, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật
những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và biện pháp nghệ thuật” [22,
tr.16]. Tác giả Nguyễn Sĩ Đại cũng đã đề cập đến Hồ Xuân Hương ở công trình Một
số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường.
2.3. Chúng tôi sẽ tiếp cận Hồ Xuân Hương với tư cách một tác gia trào phúng từ
góc độ thể loại thơ Nôm Đường luật, đặc biệt là bộ phận thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng để thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của bà đối với sự phát triển của
thể loại thơ Nôm Đường luật nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 5

/>

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Tập hợp những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương và nghiên
cứu đặc điểm của chúng trên hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức
nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích và thái
độ trào phúng; bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng; trong quá trình đó
có so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ của các nhà thơ trước. Từ đó, luận văn sẽ
đi tới khẳng định vai trò của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của văn
học dân tộc.
Phân tích hệ thống thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía
cạnh nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối
tượng, nội dung, mục đích, thái độ trào phúng, bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật
trào phúng,…Qua đó, luận văn sẽ làm sáng tỏ tài năng nghệ thuật và cá tính sáng
tạo độc đáo của bà, tạo ra bước phát triển mới về chất lượng nghệ thuật trong
dòng thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
Trên cơ sở tập hợp và phân tích những tác phẩm thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng của Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ góp phần khẳng định được vị thế độc
đáo của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc. Hồ Xuân
Hương là người mở đầu cho thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Việt Nam và đã đưa
thể thơ này đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật.
4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của luận văn là thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng Hồ Xuân Hương.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có rất nhiều văn bản, như Xuân Hương thi tập,
XNB Xuân Lan, 1913, Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên và hàng
trăm các văn bản khác. Tuy nhiên, chúng tôi chọn văn bản Thơ Hồ Xuân Hương
(Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, H, 1982 làm văn bản
nghiên cứu chính. Đây là văn bản chọn các bài thơ theo “phong cách nghệ thuật
Hồ Xuân Hương”, gồm 40 bài. Văn bản này của Nguyễn Lộc có số lượng không
quá ít nhưng cũng không quá nhiều, lại là những bài thơ khá phổ biến, xuất hiện
ở nhiều tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương và đã tồn tại hơn 30 năm nay, được giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 6

/>

nghiên cứu văn học thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi. Tất nhiên, trong quá trình
tìm hiểu, rất có thể chúng tôi vẫn phải mở rộng những liên hệ của mình ra các
văn bản khác để kết quả nghiên cứu có thêm sức thuyết phục. Ngoài ra có sự so
sánh với một số văn bản khác như : Xuân Hương thi tập, NXB Xuân Lan, 1913;
Quốc văn tùng ký của Hải Châu Tử Nguyễn Văn San; Hồ Xuân Hương thơ và
đời của Lữ Huy Nguyên; Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền
thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn…
5.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định một số khái niệm: thơ tứ tuyệt,

thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng… là những khái niệm có vị trí quan trọng trong
việc xử lý đề tài.
Trong khi nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trào phúng nói chung, thơ
Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng, cần phân biệt được hai vấn đề về mức độ trào
phúng là yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng.
Trên cơ sở đó, người viết sẽ nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ
Xuân Hương ở khía cạnh nội dung với hệ thống đề tài; đối tượng, nội dung và
mục đích, ý nghĩa trào phúng và khía cạnh nghệ thuật với ngôn ngữ trào
phúng; nghệ thuật cái tục.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1.

Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này sẽ cho người viết một cái nhìn tổng thể về số lượng thơ

Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Việc thống kê, phân loại này càng đầy

đủ, chi tiết, khoa học, càng tạo ra những cơ sở xác thực cho các luận điểm của đề
tài. Trên cơ sở thống kê, người viết xếp riêng những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng để làm cứ liệu phân tích, đánh giá. Trong quá trình thống kê phân loại,
người viết phải tham khảo, học tập ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu để việc
khẳng định các bài thơ tứ tuyệt trào phúng thêm chính xác. Tuy nhiên, quan điểm
về thơ tứ tuyệt trào phúng rất đa dạng nên có thể thống kê của chúng tôi sẽ không
tránh khỏi những sai sót.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 7

/>

Đơn vị thống kê sẽ là những bài thơ có yếu tố trào phúng, người viết sẽ chỉ ra
những câu thơ trào phúng để tiện theo dõi và đánh giá. Còn cả bài thơ được viết với
mục đích trào phúng, xây dựng được một hình tượng trào phúng hoàn chỉnh thì
đương nhiên có mặt trong bản thống kê, phân loại của chúng tôi.
Thống kê, phân loại những bài thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương theo tiêu
chí và nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu có cơ sở
dữ liệu về văn bản, tránh những khái quát mang tính võ đoán, suy biện.
6.2.

Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
Đánh giá khảo sát toàn bộ những tư liệu thống kê, phân tích các dẫn chứng, rút

ra những kết luận khoa học về thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Với việc phân tích này,
người viết tiến hành đồng thời cả hai phương diện: phân tích đặc điểm nội dung tư
tưởng và phân tích hình thức nghệ thuật của bài thơ, câu thơ. Sau khi phân tích, chỉ
ra những đặc điểm của từng tác giả, luận văn sẽ tổng hợp và đánh giá khái quát vấn
đề, rút ra những luận điểm khoa học chính.
6.3. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
Luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu trên các phương diện sau:

+ So sánh thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với thơ Nôm
Đường luật trữ tình của bà.
+ So sánh phong cách nghệ thuật, đóng góp về giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật của thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với các tác giả
khác, đặc biệt là các tác giả trước đó như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
+ So sánh đặc trưng thể loại thơ Hồ Xuân Hương với các yếu tố và thể
loại trào phúng trong văn học dân gian.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 8

/>

1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân
Hương
1.3. Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng
và trong văn học trào phúng thời trung đại
1.4. Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương
Chương 2: Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ
phương diện nội dung.

2.1. Hệ thống đề tài
2.2. Đối tượng, nội dung trào phúng
2.3. Mục đích, ý nghĩa trào phúng
Chương 3: Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ
phương diện nghệ thuật

3.1. Ngôn ngữ trào phúng
3.2. Nghệ thuật cái “tục”
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
+ Đề tài được hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nôm tứ
tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, một mảng thơ quan trọng trong việc khẳng
định cá tính sáng tạo và vị thế Hồ Xuân Hương trong tiến trình thơ ca dân tộc.
+ Trên cơ sở phân tích giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật thơ
Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ trở thành một tài liệu
tham khảo hữu ích cho sinh viên và giáo viên văn học phổ thông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 9

/>

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Thơ tứ tuyệt ra đời từ bao giờ? Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến bàn luận về
vấn đề này. Có nhiều ý kiến cho rằng thơ tứ tuyệt có mầm mống từ Kinh thi (ra
đời cách đây 2.500 năm, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên), có một
số ý kiến lại cho rằng thơ tứ tuyệt xuất hiện từ thời Lục Triều (281 – 618). Tứ
tuyệt không những đạt được thành tựu rực rỡ ở đời Đường mà còn có sinh mệnh
lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc cũng như trong lịch sử
văn học một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ở những nước khác,
tuy không có tên gọi là “tứ tuyệt” song cũng có những loại hình tương tự. Bởi
vậy, việc nêu ra những đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường không
chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp của một hiện tượng độc đáo của thơ ca
Trung Quốc mà còn cung cấp được những nhận định, tư liệu có thể làm căn cứ so
sánh, tham khảo để tìm hiểu thêm những hiện tượng cùng loại hình, để xử lý một
số vấn đề của lý luận và thực tiễn của thơ ca hiện nay. “Tứ tuyệt! Tứ tuyệt là một

thể thơ rất khó, phải tập trung, hàm súc và cần có một sáng tạo gì như là một sự
bất ngờ, một uẩn khúc, trong bốn câu” [7, tr.12].
Do hạn chế về số chữ, nhất định thơ Nôm tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng nói riêng không thể đi vào miêu tả chi tiết hiện thực, không
thể trình bày sự việc một cách có đầu có cuối theo trình tự thời gian. Thiên về
khái quát, nó là một tất yếu. Nhưng sự khái quát không thể bắt đầu từ chủ quan.
Vì vậy, thơ tứ tuyệt ngoài lựa chọn loại sự vật để phản ánh còn phải chọn nét tiêu
biểu nhất mang tính bản chất của sự vật đó. Hiện thực trong thơ tứ tuyệt phải bảo
đảm được tính chất của một tiểu vũ trụ.
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Thơ tứ tuyệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 10

/>

Ở Việt Nam chúng ta, từ khi có văn học viết là đã có ngay thơ tứ tuyệt.
Ban đầu, chúng ta phải sáng tác bằng chữ Hán cho nên thơ tứ tuyệt luật Đường
đã xuất hiện ngay từ thế kỷ X. Khái niệm thơ tứ tuyệt vì vậy cũng đã được
nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam quan tâm.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca
Việt Nam hình thức và thể loại, nghĩa chữ “tứ tuyệt” ở đây gồm 4 câu cắt ra từ
một bài bát cú. Có bốn cách cắt:
+ Cắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau,
hai câu dưới đối nhau. Ví dụ:
XUÂN
Khí trời ấm áp đượm hơi dương
Thấp thoáng lâu dài vẻ ác vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót hót gió,
Giậu hoa phấp phới bướm chân hương.

(Khuyết danh – Phỏng dịch thơ chữ Hán của bà Ngô Chi Lan)
+ Cắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, bốn câu đều đối nhau.
Ví dụ:
KHI TẦU CẬP BẾN
Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương
Thuyền mọn năm canh người bãi Hán
Dịch dài một tiếng khách Tầm dương.
(Phan Thanh Giản)
+ Cắt hai câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu đầu đối nhau, hai câu
dưới không đối. Ví dụ:
ĐỜI NGƢỜI
Người hết danh không hết
Đời còn việc vẫn còn
Tội gì lo tính quẫn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 11

/>

Lập những cuộc con con.
(Khuyết danh)
+ Cắt hai câu đầu, hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không
đối. Ví dụ:
TRỜI NÓI
Cao cao muôn trượng ấy là tao
Dẫu pháo thăng thiên chả tới nào
Nhắn nhủ dưới trần cho chúng biết:
Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào.
(Nguyễn Khuyến)
Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu khẳng định:

“Tứ nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt
lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành”. Rồi ông dẫn ra năm cách ngắt khác nhau:
+ Ngắt bốn câu trên:
Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường
Tay ngọc lăn đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng dậm đạp máy âm dương.
(Lê Thánh Tông)
+ Ngắt bốn câu dưới:
Vắt vẻo sườn non Trao
Lơ thơ mấy ngọn chùa
Hỏi ai là chủ đó
Có bản tớ xin mua.
(Vô danh)
+ Ngắt hai câu đầu, hai câu cuối:
Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
(Nguyễn Khuyến)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 12

/>

+Ngắt bốn câu giữa:
Lởm chởm gừng vài khóm
Lơ thơ tỏi mấy hàng
Vẻ chi là cảnh mọn
Mà cũng đến tang thương.
(Nguyễn Gia Thiều)

+ Ngắt câu 1+ 2 và 5 + 6:
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Tép miệng năm ba con kiến gió
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
(Lê Thánh Tông)
Tác giả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử cũng theo quan điểm này.
Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam – hình
thức và thể loại cho rằng: … “Như vậy, thơ Đường luật hoặc cũng gọi một cách
khái quát, thơ cách luật, là thể thơ được đặt ra từ đời Đường…có ba loại: ngũ
ngôn, lục ngôn và thất ngôn. Thơ cách luật chia làm ba thể: thể tiểu luật gọi là
tuyệt cú (Việt Nam gọi là tứ tuyệt),…thể luật thi gọi là bát cú…” [31, tr.226]. Hai
ông cũng đã giải thích thêm về thơ tứ tuyệt như sau:
+ Tuyệt: có nghĩa là cắt ra từ bài bát cú.
+ Tuyệt: cũng là cắt, là đứt, nhưng là đứt câu, dừng bút để trọn ý cho một
bài, sau khi viết câu thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ; hai câu mới thành
một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành một bài thơ.
Theo nhà biên dịch thơ Đường, Trần Trọng Kim: “Thơ tuyệt cú là lối thơ
làm bốn câu hai ba vần…” [18, tr.20].
Theo Đào Thái Sơn trong Khái luật về thơ tứ tuyệt thì cách hiểu của các vị
trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 13

/>

cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ viết
trong Quốc văn cụ thể: “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt.
Chỉ trong bốn câu mà thiền thâm, ẩn hiển, chinh kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi
là tuyệt” [20, tr.20]. Còn nhà nghiên cứu Lạc Nam Phan Văn Nhiễm trong Tìm
hiểu các thể thơ: “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú,

tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được
đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[29, tr.35]. Có thể nói
các nhà nghiên cứu ai cũng có lý do cho cách phân tích biện giải của mình. Điều
đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt.
Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài
bát cú thành một bài tứ tuyệt (theo niêm luật của một bài bát cú).
Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách hiểu thứ hai và mở rộng thêm thì một bài
thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là Nôm tứ
tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ Nôm ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng
được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự
thông thoáng, mở rộng. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những
khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng,
những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của
triết lý đạt tới cao độ.
Còn theo như PGS. TS Lê Lưu Oanh và Ths Định Thị Nguyệt trong Thơ tứ
tuyệt trong truyền thống văn hóa phương Đông thì thơ tứ tuyệt là một thể loại
kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương
Đông. Tứ tuyệt là một chỉnh thể vi mô toàn vẹn, số 4 trong quan niệm của nhân
loại là một con số hoàn thiện nhất. Quy luật đối lập âm dương, đảm bảo cân
bằng âm dương qua việc phối hợp các thanh bằng – trắc, các nhịp chẵn lẻ tạo
thành một cấu trúc có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, làm một bài
tứ tuyệt dù rất nhỏ nhưng đảm bảo là một cấu trúc hình thức hoàn chỉnh cân
xứng, nhịp nhàng, chặt chẽ, khó phá vỡ [36, tr.2]. Chính vì con số 4 chứa đựng
được cả vũ trụ nên bài thơ tứ tuyệt được coi là một tổng thể toàn vẹn mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 14

/>

vi mô. Nhưng nội dung và cả cấu trúc hình thức của tứ tuyệt không hạn chế ở cấp
độ vi mô mà vươn tới hình ảnh của thế giới vĩ mô. Đây là mối quan hệ biện

chứng giữa cái nhỏ và cái lớn, thể hiện cảm quan triết lí phương Đông về vũ trụ.
Với cấu trúc rất bé nhỏ, thơ Nôm tứ tuyệt là loại hình nghệ thuật biểu hiện khá
điển hình cho mối quan hệ vi mô – vĩ mô ấy. Tuy nhỏ, song nó không hề bị hạn
chế sức mạnh và sức bao quát, trong một hình thức có giới hạn vẫn chứa đựng
được nội dung khái quát (vô hạn). Cũng với cách hiểu này, kết cấu của tứ tuyệt là
kết cấu mở. Còn về ngôn ngữ, do bài thơ vắng các hư từ, giới từ, chủ từ, kết cấu
danh từ là kết cấu chủ yếu, thiếu tiêu chí thời gian xác định, cho nên cái đa nghĩa
trong thơ cận thể (bát cú và tứ tuyệt) không phải là ngẫu nhiên mà thành thường
lệ, làm cho hình tượng thơ "vừa trừu tượng vừa mơ hồ, vừa mông lung tràn trề".
Nói tóm lại, thơ tứ tuyệt không xa lạ với người yêu thơ. Về quan niệm thơ
tứ tuyệt là gì còn tùy vào quan điểm phân tích của mỗi người khác nhau. Làm thơ
tứ tuyệt không khó, nhưng để có một bài tứ tuyệt hay là cả một công trình nghệ
thuật. Làm thơ đã vậy, cảm nhận được nó cũng không phải là chuyện dễ dàng gì.
Thơ tứ tuyệt trước hết là một bài thơ bốn câu, không nhất thiết là ngũ ngôn hay
thất ngôn, không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ. Thơ tứ tuyệt phải vận
dụng được tối đa các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vần, đặc
biệt là cách tổ chức hình ảnh để tạo ra một cấu trúc đa chiều vừa đủ sức phản ánh
hiện thực, vừa mang tính khái quát cao, vừa ưu tiên cho sự tự thể hiện của sự vật
của các quan hệ vừa có chỗ cho tâm trạng cá nhân, cá tính của đối tượng cũng
như của tác giả.
Thơ tứ tuyệt có những điểm mạnh hơn thơ hai câu, ba câu, tám câu hoặc
trường thiên. Tuy nhiên thơ tứ tuyệt có hạn chế về mặt phản ánh so với các thể
thơ dài nhưng lại mạnh hơn nhiều lần về sự ghi nhớ, khả năng lưu truyền. Thơ
không được nhớ, không được thuộc thì điều nhà thơ muốn gửi tới người khác, sẽ
không có hiệu quả.
1.1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 15

/>


Yếu tố trào phúng đã có mặt ngay từ những thể loại văn học dân gian đầu
tiên như sử thi, thần thoại. Những tình tiết như Đam Săn chặt cây thần, lên hỏi tội
trời,… đều ẩn giấu ý nghĩa trào phúng độc đáo. Tuy nhiên, ở các thể loại này,
tính chất trào phúng còn mờ nhạt và ít ỏi. Dần dần, tính chất trào phúng đã đậm
hơn, phong phú hơn ở các chuyện cổ tích thế sự, ở thể loại truyện ngụ ngôn, ca
dao, tục ngữ…
Cái cười là một hành động nhận thức, là sản phẩm của tư duy suy lý. Tiếng
cười trào phúng gắn liền với ý nghĩa phê phán xã hội, là phản ứng tức thời của
con người khi phát hiện ra mâu thuẫn và những điều trái tự nhiện dưới góc độ tư
duy suy lý. Trào phúng là từ Hán - Việt, tách riêng từng chữ thì “trào” là cười
cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Vì vậy, thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng hiểu một cách giản dị là loại thơ Nôm 4 câu dùng ngôn từ ví
von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trái với lương tri,
đạo đức xã hội.
Thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng được
hiểu theo nghĩa tương đối rộng nên có thể chia thành nhiều loại, trong đó có 3
loại chính: loại chế giễu, cười nhạo; loại mỉa mai châm biếm; loại phê phán, đả
kích. Ngoài ba loại kể trên còn có loại thơ “vui là chính”, không châm biếm, chế
giễu ai. Nếu có châm biếm thì cũng tự châm biếm mình. Ta thường gặp loại thơ
này trong các bài tự trào, tự cười mình là chính. Loại này cũng được xếp vào thơ
trào phúng. Việc phân chia thơ trào phúng làm nhiều loại cũng chỉ là cách chia
tương đối không thể cố định, rạch ròi. Bởi vì trong khôi hài, cười cợt có châm
biếm, chế giễu; trong châm biếm, chế giễu có phê phán, đả kích; trong phê phán,
đả kích có khôi hài, cười cợt.
Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng
nói riêng là yếu tố gây cười, yếu tố hài hước. Nếu không có hai yếu tố này thì không
thể gọi là thơ trào phúng. Tuy nhiên, cười cũng có nhiều kiểu, nhiều cách. Có khi
cười thành tiếng, có khi cười thầm, có khi cười mỉm, có khi chỉ gật đầu. Mặt khác,
cũng là cười nhưng mỗi tác giả có một phong cách gây cười riêng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 16

/>

Do tính chất chung của thơ trào phúng là hài hước, gây cười vì vậy người
làm thơ trào phúng thường vận dụng các yếu tố ngoa ngôn phóng đại và các biện
pháp ngụ ngôn, ẩn dụ, ước lệ để xây dựng hình tượng, thể hiện nội dung. Thơ
trào phúng không kể lể lan man, càng ngắn gọn, cô đọng càng tốt. Thơ trào
phúng thường có những câu đột phá độc đáo. Nhất là ở những câu kết cần làm
bật lên những ý tuởng mới lạ khiến người đọc, người nghe cảm thụ một cách
thích thú bất ngờ.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa trào phúng là “Một loại đặc biệt
của sáng tác văn học đồng thời là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật, trong đó
các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài
hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu
cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội”.
“Trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học, cái hài
với cái cung bậc hài hước,châm biếm đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học
tiếng cười”[33, tr.246]. Những cung bậc, những tiếng cười từ hài hước đến mỉa
mai châm biếm, đả kích, bằng thủ pháp gây cười như phóng đại khoa trương …
được vận dụng một cách phổ biến trong tác phẩm trào phúng.
Trào phúng là một khái niệm rất phức tạp về mặt lý thuyết, khái niệm này
rất khó định nghĩa, đã có hàng trăm định nghĩa về cái hài như những định nghĩa
của Aritstot, Cantơlipxơ… tuy nhiên mỗi định nghĩa có hạn chế bởi tính phiến
diện của nó. Tóm lại, hiểu một cách đơn giản nhất trào phúng là nghệ thuật gây
ra tiếng cười mang ý nghĩa phản ánh xã hội để gây ra tiếng cười trào phúng, tiếng
cười hài hước đó là tiếng cười mỉa mai, châm biếm sâu cay. Lấy tiếng cười làm
phương tiện để biểu hiện một đối tượng nhất định.
Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng trong bước đường đầu tiên của nó chủ yếu
hiện diện ở hai cung bậc trào phúng là hài hước và châm biếm. Tất nhiên sự biểu

hiện các cung bậc này không phải bao giờ cũng rõ ràng, xác định như vậy. Có
những bài thơ xuất hiện cả hai cung bậc, hoặc có sự đan xen pha trộn giữa hài
hước với mỉa mai, châm biếm hoặc vừa châm biếm vừa vui đùa...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 17

/>

Về nội dung trào phúng, sự phong phú, đa dạng và phát triển trên cơ sở sự
biến đổi của đối tượng thẩm mỹ, đó là sự phát triển của bối cảnh lịch sử xã hội và
cùng với nó, sự xuất hiện của các loại đối tượng trào phúng. Từ vua đến quan, từ
những kẻ xấu xa đến những thói hư tật xấu trong xã hội, từ hình ảnh thiên nhiên
đến những sự vật bình thường,…tất cả tạo nên một thế giới trào phúng hết sức
phong phú, bao quát được nhiều vấn đề của hiện thực xã hội đương thời.
Về nghệ thuật trào phúng, đó là những biện pháp gây cười và ngôn ngữ
nghệ thuật. Thơ Nôm tứ tuyệt là thể thơ sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc, có lợi
thế trong việc phản ánh hiện thực đời sống theo cảm quan của nhân dân, làm bật
ngay tiếng cười trực tiếp, tác động thẳng tới người đọc, có ý nghĩa trào phúng sắc
sảo, tức thời.
Thực tế văn học dân tộc cho thấy có hẳn một truyền thống trào phúng rất đáng
chú ý kéo dài suốt những thế kỷ đầu tiên khi văn học viết xuất hiện đến tận hôm nay
và ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở ra những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mới
mẻ, tạo nên một bộ phận “văn học cười” đặc sắc trong văn chương dân tộc.
Tóm lại, thơ tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt nói riêng là một thể thơ
đặc sắc, được các nhà thơ hết sức ưa chuộng và được sự quan tâm đặc biệt của
các nhà nghiên cứu. Tuy vậy, tứ tuyệt là gì, xuất hiện từ bao giờ, đặc trưng của
nó ra sao, tứ tuyệt Đường có cắt ra từ bát cú hay không… là những vấn đề chưa
phải đã đạt tới sự thống nhất cao.
1.2.

Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng

Theo khảo sát cuả TS Ngô Gia Võ trong Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm

Đường luật trào phúng thì thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam đã có một
quá trình phát triển từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, đến Hồng Đức quốc âm
thi tập của các tác gia thời Hồng Đức và Lê Thánh Tông, đến Bạch Vân quốc ngữ
thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi mới đến thơ Hồ Xuân Hương. Rõ ràng, hiện
tượng “kỹ nữ Hồ Xuân Hương” với những thi phẩm trào phúng đặc sắc và đầy ấn
tượng, với nghệ thuật sáng tạo thơ độc đáo được người đời phong tặng danh hiệu
“Bà chúa thơ Nôm” không phải là hiện tượng bất ngờ đột biến và dường như đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 18

/>

được văn học dân tộc “chuẩn bị” từ nhiều thế kỷ trước đó. Không có một dòng chảy
âm thầm, bền bỉ của thơ Nôm Đường luật trào phúng từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, không có một truyền thống trào phúng dày dặn và phong phú trong
lịch sử văn học dân tộc, không có các thế hệ thi nhân đi trước tìm đường cho “một
lối thơ Việt Nam” thì chắc chắn không thể có một Hồ Xuân Hương kì nữ, một Hồ
Xuân Hương “độc nhất vô nhị” trong lịch sử văn chương trung đại.
Cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự mục ruỗng và
suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX, chế độ phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam bộc lộ bản
chất tàn bạo, phản động một cách trắng trợn và sâu sắc: ngai vàng mục ruỗng,
các tập đoàn phong kiến tranh chấp chém giết lẫn nhau giành ngôi bá chủ. Xuân
Hương sống vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh ở nước Việt Nam ta. Hồ Xuân
Hương đã sống trong một thời đại như thế, và thơ của bà đã mang rất sâu sắc dấu
hiệu của thời đại bà. Thơ Xuân Hương với hiện tượng chuyện Trạng Lợn, nhất là
truyện Trạng Quỳnh cũng ra đời trong giai đoạn lịch sử ấy. Tác giả Thanh
Lương trong quyển Lịch sử tóm tắt Việt Nam đã cho rằng: “Hồ Xuân Hương và
Cống Quỳnh đã đại diện cho tinh thần của thời đại họ, và đó là những kẻ báo

hiệu của khởi nghĩa Tây Sơn” [18, tr.19]. Quả đúng như vậy, trong xã hội rối ren
đó, phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp, tiêu biểu là phong trào Tây
Sơn đã quét sạch ba tập đoàn phong kiến (Trịnh, Nguyễn, Lê). Nguyễn Ánh lật
đổ Tây Sơn thiết lập vương triều Nguyễn, thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc.
Triều Nguyễn bảo thủ, phản động đẩy nước ta vào thảm họa bị xâm lược.
Thời kì sụp đổ xã hội và điêu tàn chiến tranh này, có lẽ không đáng ngạc
nhiên, lại cũng là đỉnh cao trong truyền thống lâu dài về thi ca của Việt Nam.
Như Dante nói trong cuốn De vulgari eloquentia, "Các chủ đề chính của thơ ca
là tình yêu, đức hạnh và chiến tranh." Tác phẩm thơ vĩ đại của thời kì này –
“Truyện Kiều” nổi tiếng của Nguyễn Du, đều tràn ngập với niềm khao khát cá
nhân, với sự thông cảm cho những "số mệnh bạc bẽo," và với ước mơ cháy bỏng
về một xã hội tốt đẹp. Chiến tranh, đói khát và tham nhũng đã không đánh bại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 19

/>

×