Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

phòng vệ thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.49 KB, 11 trang )

Mục Lục

(1)
I

VIỆT NAM VÀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

CÁC VỤ KIỆN PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI DO CƠ QUAN CỦA QUỐC
GIA GIẢI QUYẾT
Góc độ bên bị:

1

(2) Theo

thống kê của VCCI, đến tháng 10/2015, có tới 94 vụ điều tra PVTM
đối với hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có 36 vụ bị áp dụng biện pháp
PVTM về chống bán phá giá. Danh sách mặt hàng xuất khẩu bị điều tra càng ngày
trở nên đa dạng từ ốc vít, sợi, máy biến thế cho đến thủy hải sản, thép… Các vụ
kiện PVTM đã gây ra tác động xấu đối với các DN xuất khẩu.(1)
Từ sự bất ngờ, thụ động của vụ catfish tức vụ kiện chống bán phá giá cá ba
sa năm 2002, đến nay đã dần có kinh nghiệm.(2)


(3)

Tuy vậy khả năng ứng phó vẫn kém:
Vào năm 2009 các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt những vụ điều tra
phòng vệ thương mại “đặc biệt”




(4)


(8)

Lần đầu tiên hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam phải đối mặt với một vụ kiện
chống trợ cấp (vụ Hoa Kỳ điều tra
chống trợ cấp đối với túi nhựa PE Việt
Nam)

(9)
(10)

(11)Về

nguyên tắc, WTO không có quy
định nào cấm một nước thành viên
không được điều tra chống trợ cấp đối
với hàng hóa nhập khẩu đến từ một
nước có nền kinh tế phi thị trường
(NME). Vì vậy các nước có quyền tự
do trong việc quy định có điều tra
chống trợ cấp với một nước NME hay
không.

(5)
(6)


Sự kiện xuất khẩu Việt Nam bị kiện
chống trợ cấp lần đầu tiên đặt ra nhiều
thách thức không chỉ trong việc kháng
kiện của các doanh nghiệp:

Hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đã
không còn được “miễn trừ” khỏi các vụ kiện
chống trợ cấp ở Hoa Kỳ. Và do đó nguy cơ

Điều tra chống trợ cấp đối với các
nước có nền kinh tế phi thị trường

(12)

(1) Hiệp hội thủy sản tỉnh An Giang 15-10-2015
(2) Tiểu luận vụ kiện cá ba sa ở Việt Nam />
luan-ban-pha-gia-va-chong-ban-pha-gia-ca-ba-sa-vu-kien-ca-ba-sa-o-viet-nam-pot.htm


nhiều mặt hàng khác phải đối mặt với kiện
chống trợ cấp ở Hoa Kỳ không phải quá xa
vời;

(13)Tuy

nhiên, ở Hoa Kỳ, theo án lệ
Georgetown Steel năm 1985 của Tòa
Phúc thẩm liên bang thì Bộ Thương
mại Hoa Kỳ (DOC) có thể từ chối
không điều tra chống trợ cấp đối với

hàng hóa nhập khẩu đến từ nước NME
(trong vụ việc đó là Ba Làn, Séc, Liên
Xô cũ và Cộng hòa dân chủ Đức).
Logic nằm đằng sau án lệ này là trong
một nền kinh tế tập trung bao cấp
thuần túy thì mọi chủ thể đều nhận
được trợ cấp và vì thế không thể xác
định được lợi ích và lợi thế mà chủ thể
nhận được trợ cấp có được so với các
chủ thể không nhận trợ cấp trong cùng
một thị trường.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
gặp khó khăn, Chính phủ đã tiến hành nhiều
biện pháp hỗ trợ tài chính khác nhau cho các
ngành sản xuất, trong đó có các ngành xuất
khẩu; và vì thế vụ kiện chống trợ cấp có thể
là một tiền lệ nguy hiểm cho các thị trường
xuất khẩu lớn khác của Việt Nam;
Chính phủ Việt Nam chưa từng có kinh
nghiệm đối phó với các vụ kiện chống trợ
cấp, chưa có cơ chế nào để đối phó với một
vụ việc mà Chính phủ là một bên của vụ kiện
(khác với vụ kiện chống bán phá giá, nơi sự
tham gia của Chính phủ nếu cũng chỉ màng
tính chất hỗ trợ trừ trong nội dùng cụ thể của
việc chứng minh nền kinh tế thị trường).

(14)
(15)Tuy


nhiên, thông lệ không kiện chống
trợ cấp đối với hàng hóa đến từ các
nước NME của Hoa Kỳ đã bị DOC
thay đổi vào năm 2007 khi cơ quan này
quyết định điều tra chống trợ cấp đối
với Trung Quốc với lý do nước này tuy
chưa được công nhận quy chế nền kinh
tế phi thị trường nhưng đã có những
chuyển biến khác với mô hình kinh tế
xô viết trước đây. Cũng với những lý lẽ
này, DOC đã quyết định điều tra chống
trợ cấp đối với Việt Nam trong vụ túi
nhựa PE năm 2009.

(7)

(16)
(17)


Lần đầu tiên một sản phẩm của Việt Nam bị vướng phải một vụ kiện đúp –
bị kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp cùng lúc (vụ túi nhựa PE tại Hoa
Kỳ, chống bán phá giá và chống trợ cấp)

(18)


(19)Từ


trước đến nay các vụ điều tra đối với hàng hóa Việt Nam đều là những
vụ đơn lẻ (chống bán phá giá, biện pháp tự vệ). Việc kháng kiện của doanh
nghiệp và hiệp hội Việt Nam trong các vụ việc này đã không hề dễ dàng (dù
với những ngành mạnh như thủy sản). Những vụ kiện đúp càng gây nhiều
khó khăn cho doanh nghiệp

(20)


Hàng hóa Việt Nam bị kiện ở những thị trường mà lượng xuất khẩu hầu như
không đáng kể

(21)
(22)Trong

số 7 vụ điều tra mà hàng hóa Việt Nam phải đối mặt ở nước ngoài, có
2 vụ mà lượng xuất rất thấp, bao gồm vụ kiện chống bán phá giá đối với
giầy tại Braxin và vụ kiện áp dụng biện pháp tự vệ đối với thép tại Ấn Độ.

(23)Braxin

là nước xuất khẩu giầy lớn trên thế giới, đã từng được chọn làm nước
thay thế cho Việt Nam để tính các chi phí sản xuất thay thế trong vụ kiện
giầy mũ da Việt Nam tại EU.

(24)Vì

vậy đây là thị trường khó tiếp cận của giầy dép Việt Nam, số lượng, kim
ngạch xuất sang thị trường nay không lớn. Mặc dù vậy ngành sản xuất nội
địa Braxin vẫn cảm thấy bị đe dọa bởi hàng hóa Việt Nam và đã tiến hành đệ

đơn kiện. Trên thực tế, đơn kiện đã bị rút lại bởi lượng nhập khẩu từ Việt
Nam không đủ để khởi xướng vụ điều tra.

(25)Thép

là mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu là chủ yếu, sản xuất trong nước
không đủ để đáp ứng nhu cầu nội địa. Tuy nhiên, trong khoảng cuối 2007,
đầu 2008, khi nhu cầu về thép trong thị trường nội địa giảm sút, một số
doanh nghiệp thương mại nhập khẩu thép cuộn/tấm/xẻ băng cán nóng vào
Việt Nam buộc phải tái xuất để thu lại vốn. Vì vậy, Việt Nam có thép xuất
khẩu đi Ấn Độ, và khi ngành sản xuất nội địa nước nay đệ đơn đề nghị điều
tra áp dụng biện pháp tự vệ, Việt Nam nằm trong số 14 nước trong danh
sách bị kiện.

(26)Vụ

việc tại Braxin đã qua êm thấm, vụ điều tra tự vệ ở Ấn Độ cũng sẽ không
gây hậu quả lớn cho ngành thép Việt Nam ngay cả khi vụ điều tra có đi đến
kết luận cuối cùng là áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, hai vụ việc nay
cho thấy những mặt hàng có lượng và kim ngạch xuất khẩu không cao, vào
những thị trường mà Việt Nam không có nhiều sức cạnh tranh cao vẫn có
thể là đối tượng của các vụ điều tra


(27)phòng

vệ thương mại. Trong quá khứ đã có những vụ việc như thế này và
năm 2009 có thể là một lời cảnh báo tiếp theo cho các doanh nghiệp xuất
khẩu về rủi ro này.


(28)Có

thể nói năm 2009 là một năm dài và vất vả đối với nhiều doanh nghiệp,
hiệp hội xuất khẩu Việt Nam. (3)



Trong lịch sử đối phó với các biện pháp phòng vệ ở nước ngoài, năm 2014
là một năm đầy sóng gió đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam. Đây là năm
giữ kỷ lục về số lượng các vụ kiện phòng vệ thương mại (chống bán phá
giá, chống trợ cấp, tự vệ) từ trước tới nay.

Năm 2014, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam là đối tượng của tổng cộng
13 vụ điều tra phòng vệ thương mại ở nước ngoài, trong đó có 7 vụ chống bán phá
giá và/hoặc chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, 2 vụ chống trợ cấp và 4 tự vệ.
(29)

(30)
(31)Sản

phẩm
bị
điều
tra
(35)Điều

(32)Nước

điều
tra


(33)Ngày

khởi
xướng

(34)Ghi

chú/Thông tin cập

nhật

tra chống bán phá giá

(36)Đá

Granit
e

(37)Thổ

Nhĩ
Kỳ

(39)Điều
(38)12/12/2014

tra chống lẩn tránh
thuế chống bán phá giá –
Chưa có kết luận


(40)Ống

thép
hàn
không
gỉ cán
nguội
(44)Bộ

đồ
ăn và
dụng
cụ làm
bếp
bằng

(41)Thổ

Nhĩ
Kỳ
(45)Ấn

Độ

(43)Điều
(42)12/12/2014

(46)28/10/2014


tra chống lẩn tránh
thuế chống bán phá giá –
Chưa có kết luận

(47)Chưa

có kết luận


nhựa
Melan
ine
(48)Máy

chế
biến
nhựa

(49)Ấn

Độ

(50)14/10/2014

(52)Ống

thép
dẫn
dầu
(56)Thép


mạ
kẽm

(51)

Chưa có kết luận

(55)Kiện
(53)Cana

da
(57)Austr

alia

(54)21/07/2014

(58)11/7/2014

đúp chống bán phá
giá và chống trợ cấp; Thuế
chống bán phá giá tạm
thời: 53.2%;

(59)Chưa

có kết luận

(63)Kiện

(60)Đinh

thép
(64)Điều

(61)Hoa

Kỳ

(62)19/06/2014

tra chống trợ cấp

(65)Ống

thép
dẫn
dầu

đúp chống bán phá
giá và chống trợ cấp; Thuế
chống bán phá giá tạm
thời: 93.42-323.99%

(68)Kiện
(66)Cana

da

(67)21/07/2014


đúp chống bán phá
giá và chống trợ cấp; Thuế
chống trợ cấp tạm thời:
19%

(72)Kiện
(69)Đinh

thép
(73)Điều
(74)Điện

thoại
di
động
(78)Thép

cuộn

(70)Hoa

Kỳ

(71)19/06/2014

đúp chống bán phá
giá và chống trợ cấp; Thuế
chống trợ cấp tạm thời:
0.17 – 8.35%


tra áp dụng biện pháp tự vệ
(75)Thổ

Nhĩ
Kỳ
(79)Ấn

(76)05/12/2014

(77)Chưa

có kết luận

(80)19/09/2014

(81)Chưa

có kết luận


không
gỉ cán
nguội

Độ

(82)Sợi

Filam

ent
đàn
hồi
(86)Thép

hợp
kim

(83)Ấn

Độ

(87)Indon

esia

(85)Chấm

dứt điều tra, không
áp dụng biện pháp tự vệ
do không có thiệt hại

(84)28/02/2014

(88)12/02/2014

(89)

Sự gia tăng số lượng các vụ điều tra đối với hàng xuất khẩu Việt Nam
trong năm 2014 nằm trong xu hướng tăng của các vụ kiện phòng vệ thương mại

trên thế giới và về cơ bản là không quá bất ngờ.
(90)

(91)
Những năm gần đây, trào lưu nở rộ của các Hiệp định Thương mại Tự
do (FTA) đã mở ra các cơ hội mới cho các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành sản
xuất hàng hóa, nhưng đồng thời cũng thu hẹp các công cụ can thiệp chính sách
truyền thống (biện pháp thuế quan, trợ cấp…) mà Chính phủ các quốc gia có thể sử
dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp mình. Như một phản ứng tất yếu tức thời, nhiều
ngành sản xuất nội địa ở các thị trường nhập khẩu có xu hướng đổ dồn sang sử
dụng những công cụ vẫn còn được phép duy trì sau các FTA như phòng vệ thương
mại. Cùng với đó là những khó khăn nội tại của các nền kinh tế cũng khiến cho tần
suất sử dụng các công cụ này cao hơn, như là một đối sách để đối phó với hàng hóa
nhập khẩu từ nước ngoài.
(92)

Cảnh báo này đã trở thành hiện thực trên thực tiễn thương mại thế giới
khi mà trong ba năm liên tiếp (2011-2013), báo cáo của WTO ghi nhận sự gia tăng
dần của các biện pháp phòng vệ thương mại. Và với các doanh nghiệp Việt Nam
thì thực tế của năm 2014 đã chứng minh rất rõ xu hướng này
(93)

Từ bảng số liệu trên, có thể khẳng định việc sử dụng công cụ phòng
vệ thương mại ở nhiều thị trường mà xuất khẩu Việt Nam hiện hữu đang ngày càng
trở nên phổ biến và tăng nhanh về mặt số lượng, đặc biệt là trong các thời kì khủng
hoảng kinh tế như hiện nay.
(94)

Trong bối cảnh, nền kinh tế thế giới suy thoái như hiện nay, sản xuất
nội địa tại các thị trường xuất khẩu rơi vào tình trạng khó khăn, và trong tình thế

(95)


hiểm nghèo đó nguy cơ họ kêu gọi Chính phủ tăng cường “bảo hộ” trước hàng hóa
nước ngoai bằng nhiều cách khác nhau, trong đó đáng kể nhất là biện pháp phòng
vệ thương mại.
(96)


Ngày 7/9/2015, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng rà soát
hành chính lần thứ 9 (POR9) thuế chống bán phá giá tôm đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam giai đoạn từ 01/2/2013 đến 31/01/2014. Theo đó, mức thuế trung bình
0,91% đã giảm so với kết quả sơ bộ 0,93% công bố hồi tháng 3/2015 và giảm
mạnh so với mức thuế 6,37% của kỳ xem xét lần trước POR8



Ngày 28 tháng 10 năm 2015, các doanh nghiệp của ngành Ống thép cuộn cacbon
(Circular Welded Carbon-Quality Steel Pipe - CWP) của Hoa Kỳ đã nộp đơn kiện
chống bán phá giá tới Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc
tế Hoa Kỳ (ITC) đối với sản phẩm CWP của 5 quốc gia bao gồm Oman, Các Tiểu
vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), Pakistan, Philippines và Việt Nam (riêng
đối với Pakistan bị điều tra đồng thời chống trợ cấp).


Còn chịu các yếu tố bắt buộc như quy chế NMEs



Bắt đầu có áp dụng luật WTO để giành lại sự công bằng qua 2 vụ kiện gần

đây.
Góc độ bên nguyên:

2



Luật VN về phòng vệ thương mại đã có nhưng chưa được pháp điển hóa ở
mức cao (mới dừng ở Pháp lệnh)

Cho đến ngày 15 tháng 10 năm 2015, Việt Nam mới chỉ sử dụng công cụ này 4
lần, với 3 vụ kiện tự vệ và 1 vụ kiện chống bán phá giá. Đặc biệt, các sản phẩm bị
kiện trong cả ba vụ việc PVTM của Việt Nam đều không phải các sản phẩm trong
tốp đầu về nhập khẩu vào Việt Nam.
(97)và

chưa áp dụng vào thực tế ..

Chủ động sử dụng công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ hàng hóa
trong nước trước hàng hóa nhập khẩu là xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới.
Song tại Việt Nam, công cụ này dường như đang bị các doanh nghiệp bỏ quên.
(98)

Ngày 5-5-2009, lần đầu tiên Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ
Công Thương nhận được đơn yêu cầu tiến hành điều tra và áp dụng biện
pháp tự vệ đối với các sản phẩm kính nổi nhập khẩu có mã HS gồm 7005
299000 và 7005 219000 của Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng
(Viglacera), đại diện cho công ty kính nổi Viglacera và công ty kính nổi Việt Nam.
(99)



Hai tháng sau, ngày 1-7, Bộ Công Thương quyết định tiến hành điều
tra để áp dụng các biện pháp tự vệ đối với các sản phẩm bị cho là gây ra thiệt hại.
Và ngày 23-2-2010, Bộ Công Thương ra Quyết định 0890 thông báo Chính phủ
Việt Nam sẽ không áp dụng các biện pháp tự vệ đối với các sản phẩm kính nổi
nhập khẩu từ các nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam có mã HS như trên.
(100)

Kết luận của Bộ Công Thương có thể đã không đáp ứng được mong
muốn của các doanh nghiệp khởi kiện. Tuy nhiên, quyết định điều tra vào thời
điểm đó cũng tác động phần nào đến thị trường, làm giảm hàng nhập khẩu và gián
tiếp giúp doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng bán ra.
(101)

Dù doanh nghiệp Việt Nam thua kiện, song đây vẫn được xem như tín
hiệu tốt khi các doanh nghiệp, ngành sản xuất trong nước bắt đầu có ý thức tự bảo
vệ mình.
(102)

Theo ông Vũ Bá Phú, Phó Cục trưởng Cục Cạnh tranh thuộc Bộ Công
Thương, Việt Nam đã có pháp lệnh về chống bán phá giá với hàng hóa nhập khẩu,
pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa cũng như các nghị định có liên quan
và cũng đã có cơ quan thực thi pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ.
(103)

Do đó, khi doanh nghiệp phát hiện các hành vi vi phạm có thể tiến
hành các thủ tục khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy vậy, sau vụ việc của
mặt hàng kính nổi, mãi đến cuối năm 2012, Tổng công ty Công nghiệp Dầu thực
vật Việt Nam (Vocarimex) mới gửi đơn lên Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công

Thương yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng dầu đậu nành và dầu cọ
tinh luyện nhập khẩu, do ngành sản xuất dầu ăn trong nước đang bị sản phẩm ngoại
nhập đe dọa nghiêm trọng khiến thị phần sụt giảm mạnh.
(104)

Yêu cầu của Vocarimex cũng được sự hủng hộ của 3 công ty là CTCP
Dầu thực vật Tường An, Công ty TNHH Dầu thực vật Cái Lân và Công ty Dầu ăn
Golden Hope Nhà Bè.
(105)

Ngày 09 tháng 6 năm 2015, Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT) nhận
được Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng bột ngọt nhập khẩu
vào Việt Nam của Công ty CPHH Vedan Việt Nam. Sau khi xem xét hồ sơ, Bộ
Công Thương đã xác nhận đơn yêu cầu của Bên yêu cầu là đầy đủ và hợp lệ theo
quy định của pháp luật.
(106)

(107)Ngày

01 tháng 09 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký Quyết định
số 9269/QĐ-BCT về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng
bột ngọt nhập khẩu vào Việt Nam.


(108)
(109)



u


c

ó

ý

t

h



c

b



Trong khi các nước như như Hoa Kỳ, EU đã hoàn thiện luật từ đầu thế kỷ 20 thì
phải đến năm 2002 Việt Nam mới cho ra đời pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng
hóa. Và nhiều năm sau đó mới có các văn bản, nghị định về các biện pháp chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Vì vậy, doanh nghiệp chưa quen với phòng vệ
thương mại.



Theo một khảo sát vào năm 2013, Thái Lan, Indonesia, Malaysia là các nước trong
khu vực Đông Nam Á áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại tích cực nhất để
bảo vệ sản xuất trong nước.

Trước thực tế này, các doanh nghiệp Việt Nam, cơ quan chức năng
cần quyết liệt vào cuộc trong công tác bảo vệ nền sản xuất nội địa.(4)
(112)

(113)
II

(4) Báo sài gòn giải phóng đăng ngày 04/04/2013

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM TẠI WTO



o




Tính đến ngày 24/10/2014; Việt Nam mới chỉ tham gia vào hệ thống này với tư
cách là nguyên đơn trong 02 vụ việc
Gần đây nhất, Ngày 28 tháng 10 năm 2015, Cơ quan giải quyết tranh
chấp WTO (DSB), tại phiên họp thường xuyên hàng tháng, đã ra thông báo đối với
một số vụ việc giải quyết tranh chấp trong đó có vụ việc liên quan đến biện pháp tự
vệ của Indonesia đối với sản phẩm thép cán không hợp kim (tôn lạnh) do Việt Nam
yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm (DS496).
(114)




Theo số liệu của WTO, tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 18 vụ việc giải quyết
tranh chấp tại WTO với tư cách bên thứ ba, bao gồm các vụ việc có mã: DS 343,
DS 360, DS 375, DS 376, DS 377, DS 399, DS 402, DS 405, DS 414, DS 422, DS
430, DS 431, DS 432, DS 433, DS 437, DS 449, DS 464 và DS 471. Trong đó:


Liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá (ADA) (31 vụ việc tính từ năm
2007 đến nay), ta đã tham gia 8 vụ trong đó có 3 vụ kép (chống bán phá
giá/chống trợ cấp-AD/CVD)

1.
DS471 U.S. – Certain Methodologies
Application to Antidumping Proceedings Involving China
(115)

and

their

2.
DS464 U.S. Antidumping and Countervailing Measures
on Large Residential Washers from Korea (AD/CVD)
(116)

3.
DS449 U.S. – Countervailing and Anti-dumping Measures
on Certain Products from China (AD/CVD)
(117)

4.

DS422 U.S. – Antidumping Measures on Shrimp and
Diamond Saw blades from China
(118)

5.
DS414 China – Countervailing and Antidumping Duties
on Grain Oriented Flat-rolled Electrical Steel from the United States (AD/CVD)
(119)
(120)

6.

DS405 EU – Antidumping Measures on Certain Footwear

from China
7.
DS402 U.S. – Use of Zeroing in Antidumping Measures
Involving Products from Korea
(121)
(122)


8.

DS343 U.S. – Measures Relating to Shrimp from Thailand

Liên quan đến Hiệp định chống trợ cấp (SCM) (29 vụ kiện tính từ năm 2007
đến nay), ta đã tham gia 4 vụ trong đó có 3 vụ kép (AD/CVD)

1.

DS464 U.S. Antidumping and Countervailing Measures
on Large Residential Washers from Korea (AD/CVD)
(123)


2.
DS449 U.S. – Countervailing and Anti-dumping Measures
on Certain Products from China (AD/CVD)
(124)

3.
DS414 China – Countervailing and Antidumping Duties
on Grain Oriented Flat-rolled Electrical Steel from the United States (AD/CVD)
(125)

4.
Products from China
(126)



DS437 U.S. – Countervailing Duty Measures on Certain

Các vụ việc còn lại liên quan đến vấn đề thuế quan và hạn chế/cấm nhập
khẩu.

Trong các vụ việc nêu trên, những nội dung mà Việt Nam quan tâm
chủ yếu tập trung vào vấn đề phương pháp dành cho các nền kinh tế phi thị trường,
thuế suất toàn quốc, đánh trùng thuế- double remedies, định nghĩa “tổ chức công”,
phương pháp tính toán biên độ phá giá (đặc biệt là phương pháp “quy về không”

-zeroing, phá giá mục tiêu -targetted dumping của Hoa Kỳ), các yếu tố xác định
thiệt hại trong vụ việc điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại …).
(127)

So sánh với số vụ việc tham gia với tư cách bên thứ ba của một số
nước, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc (110 vụ), Thái Lan (69
vụ), Indonesia (12 vụ), Philippines (14 vụ), Malaysia (10 vụ), Singapore (14 vụ)
[2] có thể thấy Việt Nam cũng khá tích cực trong hoạt động này.
(128)

Sự tham gia của bên thứ ba là một đặc điểm quan trọng trong cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO. Nó cho phép các quốc gia thành viên mặc dù
không phải nguyên đơn hay bị đơn của vụ việc vẫn có thể tham gia và trình bày
trước Ban hội thẩm về những vấn đề mà trong đó họ có lợi ích kinh tế và thương
mại. Đối với các nước đang phát triển, điều này không những giúp họ có cơ hội
bảo vệ lợi ích có liên quan của mình, mà còn có thể học tập, tích luỹ kinh nghiệm
về quy trình giải quyết tranh chấp tại WTO cũng như hiểu rõ về các quy định của
WTO, đặc biệt là khi việc sử dụng công cụ này chủ yếu vẫn là sân chơi của các
nước phát triển.
(129)

Việc tham gia với tư cách bên thứ ba trong các vụ kiện tranh chấp tại
WTO sẽ tạo nên những tiền đề vững chắc cho việc sử dụng tốt cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho Việt Nam trên
trường quốc tế.(5)
(130)

(5) Phòng xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài –
Cục Quản lý cạnh tranh tin ngày 23-09-2014


(131)

(132)
(133)

/>


×