Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

thuận lợi và khó khăn khi áp DỤNG TRADE REMEDIES ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.22 KB, 5 trang )

II. THUẬN LỢI TRONG ÁP DỤNG TRADE REMEDIES Ở VIỆT NAM
Để tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp trong nước, Việt Nam đã quy định các văn bản pháp luật
về các biện pháp phòng về trong thương mại quốc tế.
Hệ thống văn bản về chống phá giá:
- Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2004 về Chống phá giá hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam;
- Nghị định số 90/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/07/2005 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam;
- Thông tư 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá
giá, thuế chống trợ cấp.
Hệ thống văn bản về chống trợ cấp:
- Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20/8/2004 về Chống trợ cấp đối
với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam;
- Nghị định số 89/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/07/2005 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam;
- Thông tư 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá
giá, thuế chống trợ cấp.
Hệ thống văn bản về tự vệ:
- Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/05/2002 về Tự vệ trong nhập
khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam;
- Nghị định số 150/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2003 quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh về Tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam;
Ngoài ra còn có một số văn bản khác:
- Chỉ thị số 20/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/06/2005 về việc
Chủ động phòng, chống các vụ kiện thương mại quốc tế.
- Nghị định số 04/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc Thành


lập và quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ;
- Nghị định số 95/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2012 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương;
- Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05/02/2013 quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh;
- Thông tư số 128/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 10/9/2013 quy định về
thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản
lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.


Bên cạnh đó, để thực thi một cách hiệu quả những chính sách, quy định đã được
ban hành, Chính phủ đã thành lập những cơ quan chuyên trách:
− Cục

Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương: Chịu trách nhiệm điều tra, trình
kết quả điều tra và đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm quyền;
− Hội

đồng xử lý vụ việc tự vệ - Bộ Công Thương: Xem xét, nghiên cứu kết quả
điều tra của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công
Thương về cách thức xử lý;
− Bộ

trưởng Bộ Công Thương: QĐ có hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.

 Như vậy, với một hệ thống hàng rào pháp lý quy định về các biện pháp phòng vệ
thương mại tại Việt Nam góp phần giúp cho các cơ quan chức năng, các doanh
nghiệp trong nước có thể tìm được các công cụ pháp lý hỗ trợ để áp dụng nhằm
bảo vệ hàng hóa trong nước. Đặc biệt hơn nữa, với việc Việt Nam tham gia vào

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng với những cam kết
về phòng vệ thương mại trong hiệp định TPP đã đem lại nhiều thuận lợi trong áp
dụng biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam:
+ Thứ nhất, các cam kết thể hiện thiện chí của các nước thành viên TPP dành cho
nhau thông qua các quy định đảm bảo sự minh bạch về thủ tục, đảm bảo cơ hội cho
các bên được thông báo và tham vấn, nêu quan điểm và bình luận trước và trong quá
trình điều tra, được loại trừ khỏi cuộc điều tra nếu hàng hóa nhập khẩu không phải
nguyên nhân quan trọng gây thiệt hại. Do đó, Việt Nam đảm bảo có được cơ chế
phòng vệ thương mại hợp lý đối với các ngành sản xuất trong nước trước sức ép cạnh
tranh ngày càng gia tăng của hàng hóa nhập khẩu.
+ Thứ hai, nhìn từ góc độ nước xuất khẩu, khi các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
được hưởng lợi nhiều khi hàng rào thuế quan được bãi bỏ theo cam kết của Hiệp định,
sẽ tồn tại nguy cơ các nước thành viên TPP áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước. Các cam kết khá chặt chẽ trong Chương PVTM mang
tính WTO+ giúp hạn chế việc các nước thành viên TPP lạm dụng các biện pháp chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước, đi ngược
lại với mục tiêu trong các hiệp định của WTO, góp phần tạo thuận lợi cho việc mở cửa
thị trường mà không gặp phải các rào cản gia tăng từ các biện pháp phòng vệ thương
mại.
+ Thứ ba, việc tham gia các cam kết Hiệp định TPP giúp Việt Nam hoàn thiện hệ
thống pháp luật của Việt Nam và quốc tế trong lĩnh vực phòng vệ thương mại. Từ đó,
nâng cao khả năng thực thi của các cơ quan chức năng có liên quan trong các vụ việc
phòng vệ thương mại Việt Nam trong tương lai./.

III. KHÓ KHĂN TRONG ÁP DỤNG TRADE REMEDIES


Các doanh nghiệp Việt Nam có những khó khăn nhất định trong việc chủ động
thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, ý thức và sự hiểu biết của doanh nghiệp Việt Nam về điều kiện, trình

tự, thủ tục để áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại còn hạn chế bởi lĩnh vực này là
lĩnh vực mới tại Việt Nam.
Gia nhập TPP hay các hiệp định thương mại tự do là cánh cửa rộng mở để các
doanh nghiệp Việt xuất khẩu nhiều hơn nhưng cũng là thử thách khi hàng hóa các
nước ồ ạt vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh hơn. Trong bối cảnh đó, các biện pháp
phòng vệ thương mại chính đáng sẽ được triển khai để bảo vệ nền sản xuất trong
nước. Tuy nhiên, đến nay hầu hết các doanh nghiệp vẫn còn khá lúng túng. Doanh
nghiệp Việt bị "khớp" khi nghe từ kiện, khởi kiện và điều tra. Cứ nghe kiện là hoang
mang, e ngại, nghĩ đến tố tụng, dù bản chất đây là một vấn đề hành chính.
“Điều mà các doanh nghiệp đang thiếu đầu tiên là thái độ hợp tác trước các vụ
kiện PVTM. Kể cả tư cách nguyên đơn hay bị đơn, nhiều doanh nghiệp còn rất kém
về thái độ tiếp cận. Về nguyên tắc luật Việt Nam và quốc tế, dù khởi kiện hay bị kiện
thì cơ quan điều tra cũng rất cần có thông tin. Vậy mà có trường hợp, cơ quan điều tra
nước ngoài yêu cầu cung cấp thông tin nhưng bị doanh nghiệp Việt Nam từ chối.
Doanh nghiệp cho rằng, thông tin đó không liên quan đến mình và đứng ngoài cuộc.
Tuy nhiên, phía đối tác sẽ lấy cơ sở của việc không cung cấp thông tin này để áp đặt
thông tin làm chứng cứ có lợi cho họ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn có tâm lý ngại kiện tụng, đặc biệt
kiện tụng với nước ngoài. Đây là điều doanh nghiệp phải vượt qua. Bởi vì khi tham
gia sân chơi chung, DN buộc phải chấp nhận sẽ có kiện tụng. Kiện PVTM là một hoạt
động bình thường, phải có trong các quan hệ thương mại.”1
- Khó khăn thứ hai đó là vấn đề huy động được tài chính và nhân lực để có thể
thực hiện được biện pháp phòng về thương mại, thông thường một vụ kiện về phòng
vệ thương mại sẽ tốn kém về mặt chi phí trả cho việc điều tra, thu thập chứng cứ, trả
phí luật sư và chuyên viên tài chính tiến hành.
Với biện pháp tự vệ thì lại khác, các doanh nghiệp chỉ cần chứng minh rằng có
một số lượng hàng hóa nhập khẩu nhiều bất thường gây thiệt hại nghiêm trọng tới sản
xuất trong nước. Doanh nghiệp đề nghị Chính phủ điều tra, nếu thấy đúng thì áp dụng
biện pháp tự vệ là tăng thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, hình thức này khiến Chính phủ
phải bồi thường cho đối tác về thuế quan ở một mặt hàng khác. Mức bồi thường này

phải tương đương những thiệt hại mà ngành áp dụng biện pháp tự vệ phải gánh chịu.
Kết quả điều tra của Hội đồng tư vấn về PVTM, Trung tâm WTO và hội nhập –
VCCI cho thấy, có tới 86% số DN cho rằng nếu đi kiện thì mình sẽ gặp khó khăn
trong huy động tài chính cho việc này (trong đó 52% cho là khá khó khăn, 34% cho
1

Luật sư Phạm Lê Vinh, Công ty TNHH Luật ATIM


rằng việc huy động này là rất khó khăn). Chỉ có 2% cho rằng chi phí kiện PVTM sẽ
không là vấn đề lớn, 12% cho rằng dù có thể khó khăn nhưng không quá lớn.2
- Thứ ba, khó khăn về mặt thông tin và chứng cứ, muốn thu thập các thông tin và
chứng cứ tại Việt Nam rất khó khăn, nhiều thông tin tại Việt Nam từ ngành hải quan
và các đơn vị nhà nước là không công khai, nếu không có thông tin thì sẽ rất khó để
tiến hành.
Muốn kiện phải có bằng chứng nhưng có tới 33% số doanh nghiệp cho biết tập
hợp bằng chứng về việc hàng hóa nước ngoài bán phá giá là nhiệm vụ bất khả thi với
họ; 65% cho rằng họ có thể tập hợp một số thông tin nhưng không đầy đủ, chỉ 2%
doanh nghiệp cho rằng mình có thể làm được việc này một cách đầy đủ. Với kiện
chống trợ cấp, không doanh nghiệp nào tự tin rằng mình có thể tìm được đầy đủ bằng
chứng, 44,46% cho biết có thể tập hợp nhưng không đầy đủ, 53,53% khẳng định họ
hoàn toàn không có khả năng. Ngay cả các bằng chứng cho việc kiện tự vệ (được cho
là dễ thu thập thông tin) thì cũng chỉ có 1% doanh nghiệp cho rằng mình có thể tập
hợp được các thông tin này; 62,63% có thể nhưng khó khăn và 36,36% hoàn toàn bất
lực.3
- Thứ tư, Việt Nam chưa có nhiều chuyên gia pháp lý giỏi để có thể hỗ trợ doanh
nghiệp tiến hành thủ tục này vì chúng ta chưa có nhiều thực tiễn tiến hành.
Kết quả khảo sát các doanh nghiệp của Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI về
vấn đề này cho thấy một bức tranh không mấy sáng sủa. Cụ thể, trả lời câu hỏi “Nếu
một thời điểm nào đó doanh nghiệp có ý định đi kiện chống bán phá giá, chống trợ

cấp, tự vệ, liệu nhân lực của doanh nghiệp có thể đảm nhiệm việc này chưa?”, chỉ
11% doanh nghiệp cho rằng các cán bộ nhân viên của doanh nghiệp có thể đáp ứng
được yêu cầu. 48% cho rằng cán bộ nhân viên của mình có thể thực hiện việc này
nhưng khó khăn. Và có tới 41% doanh nghiệp trả lời hoàn toàn không thể.4
- Thứ năm, vai trò của hiệp hội tại Việt Nam chưa lớn, thông thường các vụ kiện
phòng vệ thương mại phải được tiến hành bằng các hiệp hội đại diện cho doanh
nghiệp.
Kiện PVTM không phải là “cuộc chơi” của một cá nhân riêng lẻ mà là “cuộc
chơi tập thể”, là chiến lược hành động của cả một ngành sản xuất, vì vậy, việc tập hợp
lực lượng để khởi kiện là rất quan trọng. Theo quy định của WTO, các doanh nghiệp
đi kiện phải sản xuất ra ít nhất 25% tổng lượng sản phẩm; đơn kiện nhận được sự ủng
hộ của các doanh nghiệp sản xuất ra ít nhất 50% tổng sản lượng sản phẩm liên quan,
2

Bài viết trên diễn đàn doanh nghiệp ngày 17 tháng 10 năm 2015_ />3
Bài viết trên báo kinh tế nông thôn ngày 19 tháng 10 năm 2015_ />4
Minh Phương (báo điện tử ĐCSVN online) _ />

nhưng trong bối cảnh các doanh nghiệpViệt hầu hết đều rất nhỏ, tính kết nối chưa cao
thì không có gì ngạc nhiên khi có tới 71% doanh nghiệp cho rằng việc tập hợp lực
lượng là rất khó khăn.5
Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam đều nhỏ lẻ nên tính liên kết rất kém. Do đó
rất cần vai trò của hiệp hội. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, hiệp hội lại chưa thể hiện
được vai trò nhiều. Trong khi đó, mỗi hiệp hội thì có nhiều ngành hàng khác nhau. Vì
vậy, việc liên kết giữa các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp trong hiệp hội cần
theo hướng phân nhóm cụ thể liên quan đến từng lĩnh vực, từng sản phẩm. Đây là
những nhóm doanh nghiệp mà khi khởi kiện hoặc bị khởi kiện PVTM sẽ thuộc cùng
một đối tượng.6

5

6

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc trung tâm WTO và Hội nhập
Luật sư Phạm Lê Vinh, Công ty TNHH Luật ATIM



×