Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn giải pháp dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 18 trang )

A: PHẦN MỞ ĐẦU.
************
I/ Lí do chọn đề tài:
1. Lý luận:
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển. Đất nước đã và đang bước vào thời kì
hậu hội nhập nền kinh tế thế giới- nền kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ phát
triển như vũ bảo thì vấn đề đặt ra mang tính cấp thiết là đòi hỏi con người Việt Nam
phải có đủ đức, đủ tài, phải có tri thức, phải nhạy bén, thông minh và sáng tạo mới
có thể đưa nước nhà sánh vai cùng các cường quốc năm châu như lời Bác đã dạy.
Hơn thế nữa khi chúng ta nhận thức được chiến lược phát triển của Đảng và Nhà
Nước ta trong thời đại mới: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “ Dạy học phải phát
huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh”,… thì vai trò của ngành giáo dục
ngày càng quan trọng. Và thực hiện theo tinh thần nghị quyết số 40/NQ/2000/QH
và chỉ thị 14/CT-Ttg của chính phủ về việc thay đổi nội dung, chương trình thay
sách giáo khoa. Đồng thời thực hiện theo chỉ thị số 4899/CT-BGD &ĐT về nhiệm
vụ trọng tâm của nganh giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục và luật giáo dục sữa
đổi năm 2005. Tôi nhận thấy muốn đạt được thành tựu là đào tạo những con người
tài đức cho đất nước thì điều tiên quyết là giáo viên phải không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học ho phù hợp đối với từng đối tượng học sinh; dạy học phải phù
hợp với chuẩn kiến thức kĩ năng, phát huy năng lực thực hành của học sinh; hình
thành thói quen tốt khi làm bài là phải làm cho hoàn chỉnh; gặp tình huống khó
khăn trong đời sống xã hội là phải giải quyết cho có kết quả tốt; đào tạo các em có
cái nhìn sâu sắc hơn sự tiến bộ của xã hội,…chính vì nhận thức được tầm quan
trọng ấy, ngoài việc hoàn thành trách nhiệm của người giáo viên, tôi rất xem trọng
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả.
2. Thực tiễn :
Môn Ngữ văn THCS gồm có 3 phân môn: VĂN BẢN- TIẾNG VIỆT- TẬP
LÀM VĂN. Trong đó, phân môn TẬP LÀM VĂN là phân môn gần như khó nhất
đối với cả giáo viên và học sinh. Bởi vì quan niệm của giáo viên dạy Ngữ văn
thường rất thích dạy phần Văn Bản hơn, phần Tiếng Việt có khi khô khan, công
thức và phân môn Tập Làm Văn lại vô cùng rắc rối. Học sinh cũng vậy, hầu hết các


em đều yêu thích và đam mê các tiết học phần Văn bản hơn Tập Làm Văn. Thế cho
nên trong 6 kiểu Tập Làm Văn được dạy ở THCS từ lớp 6 đên lớp 9: “Văn tự sự,
miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính công vụ” là một vấn đề được
quan tâm đặc biệt đối với giáo viên dạy Ngữ văn. Trong số 6 kiểu bài Tập Làm Văn
ấy, kiểu bài nghị luận là khó nhất, học sinh học cũng ngán ngạy nhất, các em cũng
khó biết cách vận dụng nhất. Chính vì thế, trong bốn kiểu bài nghị luận được dạy ở
học kì II lớp 9 là Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; Nghị luận về một
vấn đề tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; Nghị luận về một tác
phẩm truyện, đoạn trích tôi tâm đắc nhất là kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
1


tượng đời sống. Vì vậy: “ Giải pháp dạy kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống có hiệu quả” là đề tài mà tôi mong muốn cùng đồng nghiệp chia sẽ.
II/ Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này nhằm giải quyết các vấn đề:
1. Tìm ra những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng học sinh chưa hiểu, chưa
biết cách làm bài văn nghị luận, đặc biệt là Nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống để hạn chế học sinh bỏ học, giúp học sinh có ý thức học tập, luôn ngoan
ngoãn, chịu khó, yêu thích môn học Tập Làm Văn, yêu thích văn nghị luận.
2. Phân tích các nguyên nhân cơ bản, tìm ra các tác nhân liên đới để giúp các
em học tốt. Từ đó giúp học sinh viết được bài văn Nghị luận về một sự việc hiện
tượng đời sống một cách hoàn chỉnh làm tiền đề tốt cho quá trình các em học sinh
sẽ nghiên cứu tiếp kiểu bài này ở THPT.
3. Nghiên cứu tìm ra biện pháp thích hợp để giáo dục học sinh và giúp học sinh
học tốt hơn, hướng đến đào tạo học sinh giỏi của trường.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, nghiên cứu quá trình giáo dục.
- Phương pháp thống kê.

- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp tổng kết.
III/ Giới hạn của đề tài:
- Trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu mang tính khái quát chung,
những số liệu chưa cụ thể vào học sinh chung của cả cộng đồng.
- Đây là chương trình đầu tiên trao đổi kinh nghiệm về “ Giải pháp dạy kiểu
bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống” để lớp học sinh động và học có
chất lượng đầu tiên của nhà trường.
Đề tài bản thân tôi thực hiện được giới hạn trong phạm vi chương trình Ngữ
văn THCS cùng đối tượng nghiên cứu là: Giáo viên trường THCS Gáo Giồng, Học
sinh trường THCS Gáo Giồng.
IV/ Kế hoạch thực hiện:
- Bắt đầu năm học tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường về việc khắc
phục tình trạng học sinh học tập thụ động, học sinh chưa yêu thích học và thưc hành
kiểu bài nghị luận.
- Tích cực phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn của trường.
- Thực hiện bắt đầu từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 02 năm 2012 (năm học
2011-2012).
2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Định hướng đổi mới giáo dục đã được xác định và trải qua 12 năm đổi mới
chương trình sách giáo khoa đã được những thành tựu nổi bậc. Theo đó, các cấp
học đều đổi mới nội dung chương trình, thay sách giáo khoa nhằm nâng cao chất
lượng nền giáo dục phục vụ cho công cuộc Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá đất
nước, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài (Nghị Quyết

41/2001/QH10 về thực hiện Phổ cập Trung học Cơ Sở ngày 09/12/2000) giai đoạn
từ 2001-2010. Đặc biệt quá trình giáo dục phải đảm bảo thực hiện tốt bốn không;
tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực. Đồng thời năm học 2010-2011 vừa qua giáo viên
dạy Ngữ văn được tập huấn tương đối kĩ về vấn đề các Phương pháp, Kỹ thuật dạy
và học tích cực, đổi mới kiểm tra đánh giá năng lực học tập của học sinh thì vấn đề
đổi mới dạy học Tập Làm Văn sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
II. Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình giáo dục, không phải bất kì đơn vị nào có cơ sở vật chất tốt, có
đội ngũ giáo viên mạnh thì chắc chắn học sinh sẽ học tốt, học giỏi. Thực tế, ngoài
yếu tố cơ sở vật chất, thầy cô giáo… để thực hiện được 2 không - bốn nội dung và
đảm bảo học sinh đến lớp đầy đủ, lớp học sinh động, học sinh yêu thích học Ngữ
văn, không ngán ngạy học và thực hành Tập Làm Văn, yêu thích văn Nghị luận thì
vấn đề tìm ra giải pháp giúp học sinh học tốt kiểu bài Nghị luận sự việc hiện tượng
đời sống mang tính cấp thiết mạnh mẽ hơn nhiều.
III.Thực trạng và những mâu thuẫn nghiên cứu:
- Trường THCS Gáo Giồng là một trường vùng sâu của Huyện Cao Lãnh, mặt
bằng dân trí còn thấp, bộ phận gia đình chưa quan tâm đến việc học của các em và
đặc biệt hơn là hiện nay có một số học sinh có quan niệm theo gia đình là thích học
các môn tự nhiên như: Toán, Lý, Hóa,...hơn các môn Xã hội : Văn, Sử, Địa,...Vì
vậy, các em cũng xem học môn Ngữ Văn là để đủ điều kiện mà thôi, các em ít quan
tâm, bộ phận học sinh lơ đãng không chu đáu khi chuẩn bị bài trước ở nhà, một bộ
phận không nhỏ các em chưa hiểu cách hành văn Nghị luận là như thế nào, lại thêm
các đầu sách tham khảo ở thư viện qúa ít cho phân môn Tập Làm Văn trong khi
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống đòi hỏi các em luôn phải hiểu được
cách làm bài, cách hành văn trên cơ sở vận dụng kiến thức tổng hợp từ sách giáo
khoa và phải luôn cặp nhật kiến thức từ đời sống xã hội...
- Dầu vậy, trên thực tế khi dạy lớp tôi đã kinh qua 6 năm thực dạy kiểu bài
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nên ít nhiều đã tích lũy được một số
kinh nghiệm khi giảng dạy kiểu bài này đối với nhiều đối tượng hoc sinh.Vả lại đây

là kiểu bài nghị luận tương đối gần gũi với các em vì đối tượng cần nghị luận chính
là những vấn đề, những sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội mà các em
3


đã và đang chứng kiến, nên dung lượng kiến thức khi hành văn là vô cùng phong
phú. Yêu cầu của kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống không qúa
khắt khe như 3 kiểu bài Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí, Nghị luận về một
đọan thơ (bài thơ), Nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích). Bộ phận lớn học
sinh yêu thích kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nhiều hơn 3
kiểu bài nêu trên nên trong quá trình hướng dẫn tìm hiểu, dạy cách hành văn, các
em tích cực phát huy khả năng hiểu biết và sáng tạo của mình. Do vậy, các tiết dạy
về tìm hiểu, dạy cách làm bài văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
đều mang lại hiệu quả rất cao.
Tuy nhiên để dạy kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống có
kết quả cao hơn nữa, tôi đã thực hiện nghiên cứu đối tượng học sinh đầu năm học
2011-2012 như sau:
TT
Lớp
TS HS
Số HS chưa biết
Tỉ lệ
Ghi chú
cách làm kiểu bài
Nghị luận
1
9a1
31
30
96,7%

2
9a2
30
18
60%
IV. Các biện pháp thực giải quyết:
Trước thực trạng và những những mâu thuẫn trên, để có giải pháp thực hiện
tốt vấn đề dạy kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống có hiệu quả
như mong muốn, tôi đã áp dụng một số giải pháp như sau:
1. Giúp học sinh nhận diện đúng kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống so với kiểu bài Nghị luận khác:
Phân phối chương trình của ngữ văn THCS , lớp 9 học kì II các em học sinh
được tiếp xúc ngay với kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Kiểu bài này chương trình phân bố dạy trong 4 tiết: 1 tiết tìm hiểu về kiểu bài Nghị
luận sự việc, hiện tượng đời sống, 2 tiết về cách làm kiểu bài Nghị luận sự việc,
hiện tượng đời sống, 1 tiết vận dụng vào tiết học chương trình địa phương. Sau 4
tiết thực học và vận dụng, học sinh đi ngay vào viết bài viết số 5: kiểu bài Nghị luận
sự việc, hiện tượng đời sống. Thực tế cho thấy, chỉ trong 4 tiết học ngắn ngủi rồi
yêu cầu học sinh vận dụng sao cho hoàn chỉnh kiểu bài Nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống cũng là một khó khăn đối với các em. Nhận thức được tình
hình đó nên trong những năm thực dạy Ngữ văn 9, bản thân tôi luôn đặc cao yêu
cầu đầu tiên là làm sao phải giúp học sinh nhận diện đúng kiểu bài Nghị luận về
một sự việc, hiện tượng đời sống.
Thực tế, văn nghị luận các em đã được làm quen từ năm học lớp 7, đến lớp 9
các em được học nâng cao hơn vấn đề nghị luận. Do vậy, tôi giúp học sinh nhận
diện được kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống theo các bước
như sau:
4



+ Khâu đầu tiên: tôi cùng học sinh hiểu từ hàn lâm “ Nghị luận” là như thế
nào?
+ Khâu thứ 2: tôi cần nhắc lại một số kiến thức đã học ở lớp 7 như: thế nào là
luận điểm, thế nào là luận cứ, lập luận phân tích, lập luận chứng minh, lập luận giải
thích cho học sinh gợi nhớ kiến thức của mình.
+ Khâu thứ 3 là tôi giúp học sinh hiểu được kiểu bài các em đang nghị luận là
nghị luận về đối tượng nào? Học sinh rất dễ nhận diện: Nghị luận về một sự việc,
hiện tượng, đời sống đã và đang xảy ra đáng khen, đáng chê xung quanh các em:
Một trong hai kiểu bài của nghị luận xã hội: với một số đề văn để các em phân biệt
và xác định đúng kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Đề 1: Hiện tượng vứt rác bừa bãi làm ô nhiểm môi trường. Em suy nghĩ gì
về hiện tượng trên.
- Đề 2: Hiện nay, đa số học sinh học qua loa, đối phó... Em hãy viết bài văn
nêu lên suy nghĩ của mình về hiện tượng trên.
- Đề 3: Tích cực phòng bệnh tay – chân – miệng là nhiệm vụ của toàn dân.
Em hãy nêu lên suy nghĩ của mình về phong trào trên.
- Đề 4: Nhân dân ta có câu
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
Em suy nghĩ gì về câu nói ấy.
- Đề 5: Đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Với 5 đề văn tôi đưa ra, tôi cùng học sinh nhận diện từng đối tượng cần nghị
luận ở từng đề văn:
- Đề 1: Đối tượng nghị luận: Vứt rác bừa bãi làm ô nhiễm môi trường.
- Đề 2: Đối tượng nghị luận: Học sinh học qua loa, đối phó...
- Đề 3: Đối tượng nghị luận: Toàn dân tích cực phòng bệnh tay-chân-miệng.
- Đề 4: Đối tượng nghị luận: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
- Đề 5: Đối tượng nghị luận: Uống nước nhớ nguồn – đạo lí của dân tộc.
Sau đó, tôi giúp học sinh nhận diện đâu là hiện tượng xã hội, đâu là đạo lí, tư
tưởng cần nghị luận. Khâu thứ 4 này rất quan trọng, học sinh nhận diện được 3 đề
văn: Đề 1,2,3 thuộc về Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; đề 4,5 thuộc

Nghị luận tư tưởng, đạo lí là tôi đã thành công. Quả thực khi đưa ra 5 đề văn để các
em phân biệt, học sinh nhận diện rất nhanh kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống. Các em rất hứng thú khi học tập vì đã nhận diện tốt đối tượng cần
nghị luận.
2. Giúp học sinh định hướng đúng yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình
thức của kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
2.1 Yêu cầu về nội dung: Trên thực tế khi thực hiện giải pháp này: Bản thân
tôi dựa trên cơ sở ngữ liệu về văn bản “Bệnh lề mề” ở sách giáo khoa, ngoài ra tôi
còn giúp học sinh tìm hiểu về đề văn 1: “Hiện tượng vứt rác bừa bãi làm ô nhiểm
môi trường”. Từ ngữ liệu đã có về “Bệnh lề mề”: Giáo viên giúp học sinh nhận ra
được:
5


a. Mặt sai của căn bệnh này mang lại một số hậu quả.
b. Biểu hiện: Coi thường giờ giấc, thiếu tự trọng, không tôn trọng người khác.
c. Học sinh hiểu được nguyên nhân chính là do ý thức của con người không
có, thiếu trách nhiệm với mình, với mọi người nên lề mề trong công việc.
d. Để từ đó học sinh tìm và đưa ra những ý kiến nhận định về bệnh lề mề:
phải được khắc phục dần trong bản tính của con người.
Tóm lại: Những vấn đề tôi giúp học sinh vừa tìm ra như: mặt sai, biểu hiện,
hậu quả, nguyên nhân, nêu nhận định và đưa ra ý kiến khắc phục (giải pháp) chính
là yêu cầu cần có về nội dung trong quá trình thực hiện bài viết về “Bệnh lề mề” và
đó cũng là yêu cầu về nội dung cần có trong khi làm bài viết của học sinh.
Tương tự tiến trình như thế tôi giúp học sinh tìm ra yêu cầu về nội dung của
đề 1: Vứt rác bừa bãi làm ô nhiễm môi trường.
- Mặt sai của ô nhiễm môi trường ; biểu hiện là vứt rác bừa bãi, thả khói bụi
chưa qua xử lí vào không khí,...nên hậu quả: Ô nhiễm môi trường, mất vẻ mĩ quan,
ảnh hưởng sức khỏe, đời sống con người.
- Nguyên nhân: Con người thiếu ý thức, tiện đâu vứt rác đấy, sợ tốn chi phí

khi xử lí rác,…
- Giải pháp: Không vứt rác bừa bãi, hạn chế sử dụng những vật liệu làm ô
nhiễm môi trường, sử dụng những vật dễ phân hủy…
Cuối cùng tôi giúp học sinh khẳng định yêu cầu nội dung kiểu bài Nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống cần phải có các vấn đề sau: mặt đúng, mặt sai
của đối tượng; mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến,
nhận định về giải pháp của người viết đối với đối tượng đó ở phần ghi nhớ.
Trong qúa trình học sinh thực hiện được 2 đề trên lớp là các em đã nắm rõ
yêu cầu về nội dung trên. Tôi rất thành công khi sử dụng giải pháp vừa nêu.
2.2 Yêu cầu về hình thức:
Về hình thức của bài viết Tập Làm Văn nhất thiết học sinh cần phải viết
mạch lạc, bố cục đủ 3 phần: Mở bài - Thân bài - Kết bài, luận điểm phải rõ ràng,
luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp nhất là: Phép phân tích kiểu đoạn văn diễn
dịch và phép tổng hợp đoạn văn quy nạp; lời văn giáo viên yêu cầu và nhắc nhở học
sinh dùng chuẩn xác, sống động, sáng tạo mới để lại ấn tượng cho người đọc, người
nghe.
Bản thân tôi thường hay làm mẫu nguyên đoạn văn phần Mở bài hoặc phần
Kết bài để học sinh học tập cách hành văn, cách dùng từ, cách viết đoạn văn sao cho
liên kết chặt chẽ, mạch lạc cho học sinh nghe tại lớp trong quá trình giảng giải. Khi
ấy, học sinh nào nhanh tay sẽ viết lại được ngay lời văn của cô, hoặc nghe và ghi
nhận lại cách làm bằng lời văn của mình. Từ nhiều lần thực hiện như thế, các em sẽ
viết văn mạch lạc, chính xác hơn đúng yêu cầu về hình thức, yêu cầu về nội dung đã
tìm hiểu.
Sự thật là bản thân tôi đã trãi nghiệm không hành văn mẫu đoạn Mở nài, Kết
bài khi thực dạy một vài tiết ở năm học trước. Học sinh thật sự chưa hiểu cách hành
văn mạch lạc là như thế nào: Các em sử dụng luôn từ địa phương: Tui, tao, mày,
6


mần việc, coi… vào trong cả bài viết. Vậy cho nên, rút kinh nghiệm những tiết dạy

đó tôi đã thõa mãn khi tiến hành tiết dạy có tiến hành đoạn văn mẫu cho học sinh
học tập theo. Học sinh rất hứng thú khi tham gia học tập.
3. Giúp học sinh lập dàn bài cho kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống:
Giải pháp này vô cùng quan trọng, nếu học sinh lập dàn bài gồm đầy đủ 3
phần Mở bài - Thân bài - Kết bài và đúng các ý chính trong yêu cầu của từng phần
Mở bài - Thân bài - Kết bài thì các em xem như đã hiểu và nắm được cách làm bài
Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Giải pháp này bản thân tôi tiến hành
cẩn thận từng bước cụ thể như sau:
3.1 Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý:
Bất cứ đề văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nào đưa ra học
sinh đã nhận diện đối tượng cần nghị luận trong đề văn đó thì cần phải tiến hành tìm
và gợi ra ngay trong suy nghĩ của các em những ý xoay quanh đối tượng đó để định
hướng làm bài hiệu quả. Chẳng hạn như với đề văn sau:
Đề 1: Học sinh hiện nay học qua loa, đối phó… Em suy nghĩ gì về hiện
tượng trên?
Sau khi tôi đã giúp học sinh phân tích đề và tìm được đối tượng cần nghị luận
là: học sinh học qua loa, đối phó là rất phổ biến hiện nay, tôi gợi ý từng khía cạnh
của vấn đề bằng những câu hỏi như: Học qua loa, đối phó là như thế nào?, học qua
loa, đối phó sẽ có những mặt hại nào (hậu quả)? Nguyên nhân do đâu? Thế thì cần
khắc phục ra sao? Với các câu hỏi trên, học sinh sẽ trả lời ngay được rất nhiều ý và
thế là các em đã tìm được những ý sau: học qua loa, đối phó chỉ là học chiếu lệ, học
cho có không có mục đích cụ thể, học như thế sẽ không nắm được kiến thức, mất
căn bản, học không hiểu, không vận dụng được tri thức dẫn đến kết quả học tập
không cao, dễ chán học, cúp tiết, dễ sa vào tệ nạn xã hội, game online; nguyên nhân
là do ý thức học tập của các em kém, có thể do phương pháp giảng dạy của giáo
viên bạn chưa yêu thích, do gia đình ít quan tâm chuyện học của con em; giải pháp:
các bạn phải tích cực học tập, học cho kỹ kiến thức căn bản nắm nội dung chính và
vận dụng vào đời sống thực tế, thầy cô tăng cường trao dồi phương pháp giảng dạy
cho phù hợp, nhà trường tạo điều kiện để các bạn vui chơi học tập, cha mẹ đặc biệt

quan tâm, nhắc nhở việc học của con em mình. Tất cả những ý trên có được là do
giáo viên gợi những câu hỏi để học sinh tìm ý. Khi gợi bản thân tôi phải đặt câu hỏi
thật sự dễ hiểu, có trọng tâm để học sinh dễ suy nghĩ trả lời cho đúng hướng.
Tóm lại, bước 1 này đối với đề văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống, tôi rút ra được kinh nghiệm thiết thực là:
1. Phải giúp học sinh nhận diện được đối tượng cần nghị luận là sự việc, hiện
tượng nào trong đề văn.
2. Đặt 4 câu hỏi để tìm ý cho bất cứ đề văn nào của kiểu bài Nghị luận về một
sự việc, hiện tượng đời sống:
7


- Câu hỏi 1: Đối tượng đó là gì? ( đối tượng đó như thế nào) biểu hiện của đối
tượng đó ra sao? => tìm ít nhất 3 biểu hiện.
- Câu hỏi 2: Mặt đúng, mặt lợi ích / mặt sai, mặt hậu quả đối với bản thân
người viết, gia đình, xã hội.
- Câu hỏi 3: Nguyên nhân, xuất phát từ đâu?
- Câu hỏi 4: Giải pháp thực hiện như thế nào? ( giải pháp cho người viết, gia
đình, xã hội.
Với 4 câu hỏi trên, thật sự khi vận dụng tôi gặp rất nhiều thuận lợi, học sinh
tìm ý rất say sưa, tiết học rất sôi động.
3.2 Bước 2: Sau khi tìm hiểu đề và tìm ý là khâu lập dàn bài với các ý đã tìm
ra, sắp xếp chúng theo thứ tự. Với đề văn trên bản thân tôi hướng học sinh tự sắp
xếp được các ý theo thứ tự là:
a. Mở bài:
- Giới thiệu đối tượng nghị luận: học sinh qua loa, đối phó.
- Khái quát hậu quả: ảnh hưởng đến kết quả học tập.
- Vậy, các bạn học sinh phải khắc phục hiện tượng trên như thế nào?
b. Thân bài:
- Học qua loa, đối phó là học chiếu lệ.

- Hậu quả: Kết quả học tập không cao, mất căn bản, cúp tiết, nghiện game…
- Nguyên nhân: Học sinh thiếu ý thức trong học tập, giáo viên dạy học sinh
chưa hiểu nên đâm ra chán học; gia đình chưa quan tâm việc học của con, giáo viên
dạy học không hứng thú,…
- Giải pháp: Học sinh phải có ý thức học tập cho mình, nhà trường, thầy cô
tạo điều kiện để học vui - vui học; cha mẹ quan tâm việc học của con.
c. Kết bài:
- Khẳng định học qua loa đối phó là cách học sai.
- Không được học qua loa, đối phó phải học thực chất.
Rõ ràng các ý vừa tìm khi sắp xếp thành dàn bài thật chặt chẽ, dễ dàng sắp
xếp.
Tương tự như vậy tôi lấy thêm một ví dụ khác về đề văn: Đối tượng nghị luận
có lợi ích.
Đề 2: Học sinh đang tích cực học tập chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam
20/11. Với đề văn này, bản thân tôi cũng giúp học sinh lần lượt thực hiện các giải
pháp đã nêu trên:
- Nhận diện đối tượng nghị luận: học sinh học tập chào mừng ngày nhà giáo
Việt Nam 20/11 thuộc kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Tìm ý: Lần lượt trả lời 4 câu hỏi đã đút kết.
+ Tích cực học tập đối với học sinh là sao?, biểu hiện các bạn tích cực học
tập như thế nào?
+ Lợi ích của việc tích cực học tập có ý nghĩa đối với chính các bạn học sinh,
gia đình các bạn, nhà trường.
8


+ Xuất phát từ đâu học sinh tích cực học tập: Từ tinh thần Tôn sư trọng đạo,
phong trào của Đội phát động…
+ Giải pháp phát huy: Vận động toàn thể học sinh tích cực học tập, duy trì
phong trào ấy và có chế độ khen thưởng, tuyên dương hợp lí.

Từ những ý đã tìm được, tôi hướng dẫn học sinh lập dàn bài theo bố cục 3
phần cụ thể như sau:
a.Mở bài:
- Giới thiệu phong trào học sinh đang tích cực học tập chào mừng ngày nhà
giáo Việt Nam.
- Phong trào mang ý nghĩa to lớn.
- Vậy, các bạn đang học tập tích cực có ý nghĩa như thế nào?
b.Thân bài:
- Học sinh tích cực học tập ra sao? Biểu hiện như thế nào: tích cực soạn bài ở
nhà, xây dựng bài trên lớp, học đi đôi với hành, học sáng tạo.
- Lợi ích mang lại: Các bạn học tập tích cực thì kết quả học tập được nâng
cao tạo thành phong trào lan rộng trong học sinh, giúp nêu cao truyền thống hiếu
học.
- Xuất phát từ ý thức học tập của chính học sinh để phát huy tinh thần Tôn sư
trọng đạo do Đội phát động.
- Giải pháp: Tiếp tục duy trì phong trào trên, tuyên truyền đến tập thể học
sinh cùng thực hiện…
c. Kết bài:
- Khẳng định học sinh đang học tập tích cực mang lại hiệu quả thiết thực
trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
- Học sinh học tập tích cực tránh được lối học sai.
Như vậy, với sự trãi nghiệm qua 2 đề văn: Đề 1 Đối tượng nghị luận có mặt
sai, mặt hậu quả; đề 2 đối tượng nghị luận có mặt đúng, mặt lợi ích đã giúp học sinh
lập được dàn ý cho bất cứ đề văn nào thuộc kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống. Chỉ cần ghi nhớ dàn bài (chung) mẫu cụ thể sau đây: Để học sinh
có thể xuyên qua tất cả những đề Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
khác:
DÀN BÀI CHUNG
a. Mở bài: 3 ý chính, ý thứ 1,2 là trọng tâm không thể thiếu, ý 3 giúp liên kết
với thân bài.

- Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần nghị luận.
- Khái quát về mặt lợi/ hoặc mặt hại của đối tượng nghị luận.
- Chuyển ý.
b.Thân bài: 4 ý chính cần phải có, được sắp xếp theo trật tự.
- Sự việc, hiện tượng nghị luận là gì (là như thế nào) và biểu hiện của nó ra
trong xã hội. (Tức là giải thích khái niệm của sự việc, hiện tượng và song song nêu
9


biểu hiện để có cái nhìn đầu tiên giúp người đọc (nghe) hiểu được đối tượng nghị
luận là như thế nào mới có thể đi vào nghị luận được.
Ở ý chính nêu khái niệm này giáo viên định hướng giúp học sinh dùng
phương pháp nêu định nghĩa, giải thích để nêu luận điểm và viết thành đoạn văn có
những dẫn chứng (luận cứ) phong phú từ nhiều khía cạnh mới có thể rõ về biểu hiện
của sự việc, hiện tượng trong đời sống.
Nếu giáo viên không giúp học sinh vận dụng phương pháp nêu định nghĩa.
Giải thích khái niệm thì học sinh khó mà viết đoạn văn mạch lạc và hành văn đúng
hướng được.
- Sau khi giải thích số khái niệm và nêu biểu hiện của sự việc, hiện tượng tôi
giúp học sinh triển khai ngay ý 2: Mặt lợi, mặt đúng hoặc mặt sai, mặt hậu quả của
sự việc, hiện tượng cần nghị luận. Lợi ích/hay hậu quả là tùy thuộc vào đối tượng
nghị luận có lợi hay có hại. Đây là đoạn văn chính nhất của phần thân bài. Do vậy,
tôi giúp học sinh hiểu rõ: phải triển khai được các ý sau: lợi ích/ tác hại đều phải
hướng đến 3 phương diện: Bản thân cá nhân người viết (bạn bè cùng trang lứa), gia
đình, xã hội. Trong quá trình triển khai mặt lợi/ hậu quả học sinh cần lập luận các
phép lập luận sau: có thể là phân tích, có thể là tổng hợp, chứng minh, so sánh, đối
chiếu, giải thích… sau cùng học sinh phải nêu được nhận định, đánh giá của bản
thân với đối tượng cần nghị luận mới là văn nghị luận, thuộc kiểu bài nghị luận.
Ngược lại trong quá trình triển khai, nếu học sinh không nêu được đánh giá, nhận
định của mình thì bài viết chỉ đơn thuần là phân tích, giải thích, chứng minh suông,

không là kiểu bài văn nghị luận, các em sẽ dễ lạc đề và vấn đề bàn bạc không thõa
đáng.
Khi nói đến quan điểm này, tôi rất được học sinh ủng hộ vì các em hiểu ngay:
Nếu không nêu đánh giá, nhận định thì các em chỉ là phân tích, giải thích, chứng
minh suông, không phải là văn nghị luận. Do vậy, học sinh dễ hiểu bài và vận dụng
thành công, không có hiện tượng lạc đề, rơi vào kiểu bài Tập Làm Văn khác. Tôi rất
tâm đắc khi phổ biến quan điểm này cho học sinh.
- Ý thứ 3: Sau khi nghị luận mặt lợi/mặt hại của sự việc, hiện tượng học sinh
cần phải tìm hiểu và nêu ra được nguyên nhân, xuất phát của đối tượng đang nghị
luận. Nếu không nêu nguyên nhân, xuất phát thì khó lòng liên kết chặt chẽ với ý thứ
4: Giải pháp.
- Giải pháp: (ý thứ 4) sau khi nghị luận sẽ được nguyên nhân, xuất phát từ
đâu sự việc, hiện tượng đó xảy ra thì học sinh mới có điều kiện nghị luận nhiều giải
pháp thiết thực có liên quan. Ý thứ 4 này chính là nhận định, ý kiến của người viết
được bộc lộ rõ nhất. Vì thế, yếu tố nghị luận càng được khẳng định và bài viết càng
dễ đi vào lòng người đọc hơn. Giải pháp: học sinh cũng phải đưa ra giải pháp cho 3
mặt sau: chính bản thân người viết (bạn bè), gia đình, xã hội.
Nếu bài viết các em đưa vào những cảm xúc và nhiệt huyết của cá nhân thì
bài văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống sẽ sâu sắc hơn, sáng tạo
hơn. Học sinh rất thích ý thứ 4 này vì các em được tự do thể hiện chính kiến của cá
nhân.
10


c. Kết bài: 2 ý chính.
- Khẳng định lại mặt lợi, mặt hại của sự việc, hiện tượng.
- Rút ra bài học cho bản thân.
Thực chất, dàn ý chung nhất được thiết lập, bản thân tôi giáo dục cho học
sinh phải luôn luôn nhớ và vận dụng vào quá trình làm bài Tập Làm Văn của mình
cho bất kỳ sự việc, hiện tượng nào. Chỉ cần xuất phát từ các ý chính ở từng phần

Mở bài - Thân bài - Kết thúc trong dàn bài chung để xuyên qua đối tượng đang cần
nghị luận trong đề văn là sẽ được ngay. Điều đó là đúng sự thật, bởi học sinh đều
thực hiện được khi tôi đưa ra rất nhiều, rất nhiều đề văn Nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống khác trong xã hội cho các em về nhà tìm hiểu thêm.
Phải trãi qua một thời gian dài để nghiên cứu tôi mới đưa ra được dàn ý
chung vừa nêu. Vì thế khi ứng dụng mang lại hiệu quả cao đối với học sinh, tôi vô
cùng phấn khởi. Và chính dàn ý chung này giúp tôi dễ dàng trong khâu bồi dưỡng
học sinh giỏi thi Huyện, Tỉnh có kết quả từ nhiều năm học nay.
4. Giúp học sinh thực hành viết bài, đọc lại, chỉnh sửa cho hoàn thiện:
Giải pháp này không thể xem nhẹ, không thể giao phó cho các em là xong.
Tôi phải hướng dẫn viết thật kĩ từng phần theo dàn ý đã đúc kết.
Đúng là phải viết theo từng phần, theo đúng trình tự Mở bài, Thân bài, Kết
bài, cách thức tôi thực hiện là: với mỗi phần Mở bài, Kết bài tôi đều hình thành
đoạn văn mẫu cho học sinh theo hướng từ chung đến riêng, hoặc bằng phép đối lập,
hoặc bằng cách đi thẳng trực tiếp vào đề… để các em học hỏi.
Ví dụ như đề 1: về hiện tượng học sinh học qua loa, đối phó.
- Đoạn văn mẫu Mở bài đi trực tiếp là:
“Hiện nay, tình trạng học sinh học qua loa đối phó là phổ biến, chính cách
học sai ấy là hậu quả dẫn đến các em không hiểu bài, kết quả học tập chưa cao.
Vậy, chúng ta có những suy nghĩ, nhận định gì về hiện tượng ấy?”
- Đoạn văn mẫu Mở bài theo kiểu đối lập là:
“ Ngành giáo dục đã và đang phát động phong trào học thực chất, thi thực
chất đang được sự ủng hộ, hưởng ứng nhiệt tình của giáo viên và học sinh. Ấy thế
mà hiện nay tình trạng học qua loa đối phó cũng rất phổ biến trong học sinh, khiến
cho kết quả học tập của các bạn chưa cao. Vậy, chúng ta phải nhìn nhận và giải
quyết thực trạng này như thế nào?”
Với 2 đoạn văn mẫu tôi thực hành trên lớp, học sinh dễ hiểu và tự xác định
đúng hướng Mở bài tùy thuộc vào sở trường của từng em, phần này học sinh làm tốt
khi tôi thực dạy.
Tương tự các phần còn lại: 4 ý trong Thân bài tôi cũng hình thành 4 đoạn

văn mẫu, đoạn Kết bài cũng hình thành đoạn văn mẫu cho học sinh. Chẳng những
thế, trong khi thực dạy tôi còn tranh thủ thời gian luyện tập tại lớp: cho học sinh
thực hành đoạn văn Mở bài, Kết bài, hoặc một đoạn văn bất kì trong phần Thân bài
để các em có điều kiện vận dụng kiến thức ngay, sau đó 1 hoặc 2 em đọc trước lớp
để các học sinh còn lại nhận xét, sửa chửa .Cuối cùng, tôi sửa chửa và khẳng định
11


lại, giáo dục học sinh làm bài theo tất cả các bước nêu trên đúng trình tự là bài viết
hoàn chỉnh.
Trong quá trình viết bài tôi giáo dục học sinh viết đúng nội dung, tránh thiếu
sót, viết theo trật tự, hành văn cho mạch lạc, sáng tạo và ý kiến, nhận định về một
sự việc, hiện tượng đời sống phải rõ ràng, đúng đắn. Viết xong học sinh phải dành ít
nhất 5 phút để đọc lại để sửa chữa lỗi chính tả, ngữ pháp của câu đồng thời có thể
bổ sung ý nếu còn thiếu sót trong quá trình viết.
Giải pháp này có thể lướt qua, nhưng bản thân tôi thì rất xem trọng nên tôi
không thể thực hiện xuề xòa, ngược lại tôi rất chú trọng. Vì thế, học sinh tôi dạy các
em viết bài đều hoàn chỉnh, đạt yêu cầu của chuẩn kiến thức kĩ năng đề ra.

Học sinh học tập trên lớp
V.Hiệu quả áp dụng:
Trên thực tế khi dạy học, với sự nhiệt huyết, bản thân đã áp dụng tổng thể 4
giải pháp nêu trên để hướng dẫn học sinh học tập. Chính vì thế, trong năm học qua,
bản thân tôi đã có một số thành tích nhất định như sau:
-Về chất lượng chuyên môn: 95% học sinh xếp loại khá giỏi, 5% học sinh
xếp loại TB, không có học sinh yếu kém .
- Về kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi: bản thân luôn vận dụng 4 giải pháp trên
vào việc hướng dẫn học sinh thi học sinh giỏi vòng tỉnh. Bởi vì trong 3 năm học:
2009-2012: đề thi học sinh giỏi vòng Tỉnh có 2 câu/20 điểm thì kiểu bài Nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống: chiếm 1 câu: có khi 5 điểm, 6 điểm có cả năm

8 điểm; câu còn lại 15,14,12 điểm là Nghị luận văn học. Nắm được phương hướng
cho đề thi học sinh giỏi ấy, bản thân tôi càng chú tâm nhiều hơn khi dạy bồi dưỡng
học sinh kĩ kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Vì vậy, trong
nhiều năm học liên tiếp: tôi đều có học sinh giỏi vòng huyện, vòng Tỉnh.
12


Năm
20052006
20062007
20082009
20092010
20102011
20112012

Học sinh giỏi cấp
Huyện
03

Học sinh giỏi cấp
Tỉnh
02

Không bồi dưỡng

Không bồi dưỡng

03

01


02

01

02

01

01

01 Đang dự thi

Học sinh giỏi vòng tỉnh nhận thưởng
Về kết quả làm bài của học sinh năm học 2011- 2012 : bài viết số 5 cũng là
bài văn khảo sát cho quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến: “ Giải pháp dạy kiểu
bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống có hiệu quả” rất thành công như
sau:
13


TT

TS HS

1

Lớp
9a1


31

2

9a2

30

Số HS biết cách làm
kiểu bài Nghị luận
31 (16 HS đạt 8-> 10
điểm; 10 HS đạt từ điểm
6,5-> 7,8; 5 HS đạt từ
điểm 5,5-> 6,4)
30 (24 HS đạt 8-> 10
điểm; 6 HS đạt từ điểm
7-> 7,8)

Tỉ lệ
100%

100%

Kết quả thực dạy của bộ môn rất khả quan nên tôi càng tâm đắc hơn với các
giải pháp dạy kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống đã tích lũy.

14


C. KẾT LUẬN:

I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Trước khi nghiên cứu đề tài GIẢI PHÁP DẠY KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ
MỘT SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG CÓ HIỆU QUẢ, khi lên lớp tôi rất
mất thời gian khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiểu bài này, gặp khó khăn rất nhiều
khi học sinh không biết nhận diện được đề văn, tìm ý, sắp xếp ý về sự việc, hiện
tượng đời sống, không biết hành văn nghị luận. Nhưng từ khi bắt đầu nghiên cứu,
áp dụng các giải pháp dạy kiểu bài Nghị luân về một sự việc, hiện tượng đời sống
đã nêu ra mang lại ý nghĩa thiết thực trong công tác dạy học tại trường, giúp tiết dạy
sôi động hơn, học sinh hứng thú học tập hơn, giáo viên đỡ mệt nhọc hơn, nhất là các
em thực hành tốt bài văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống làm tôi vô
cùng mĩ mãn.
II. Khả năng áp dụng:
Tôi nghĩ rằng với sự đầu tư nghiên cứu và những kinh nghiệm, những giải
pháp đưa ra, tôi đã áp dụng thành công thì tất cả GV cùng môn cũng sẽ áp dụng
thành công tại các trường bạn kể cả GV dạy Ngữ văn ở THCS và THPT.
III.Bài học kinh nghiệm:
Văn học là nhân học trên cơ sở giáo viên rèn cho học sinh các kĩ năng nghe
nói đọc viết từ việc tiếp nhận văn học. Vì vậy, bản thân khi thực dạy luôn hướng
dẫn học sinh là:các em phải tìm và hiểu được tâm tư tình cảm, suy nghĩ, tư tưởng
mà các văn nghệ sĩ đã gởi gắm vào trong tác phẩm của mình. Song song đó, bản
thân tôi phải giúp học sinh hiểu và tự rút ra được ý nghĩa giáo dục của văn học đối
với bản thân các em học sinh, để các em vận dụng vào đời sống có hiệu quả. Các
em sẽ yêu cái đẹp, cái thân thiện, ghét cái xấu, cái ác, đấu tranh, hành động, sáng
tạo để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Thông qua tác phẩm các em học
sinh hoàn thiện phẩm chất của mình trong quá trình lĩnh hội văn chương. Thế cho
nên, để đạt được mục tiêu rèn tốt các kĩ năng nghe – nói - đọc - viết và hướng đến
đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước đủ đức đủ tài, tôi không ngừng trao
dồi nghiên cứu kiến thức, kỹ năng sư phạm, nhất là phương pháp dạy học phù hợp
với từng đối tượng học sinh. Do vậy, khi bản thân có được kinh nghiệm dạy kiểu
bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống có hiệu quả đã phần nào góp

phần vào sự thành công trong công tác giảng dạy của mình. Tuy thế, trong khả năng
hạn hẹp của mình, kinh nghiệm dạy kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống cũng ắt sẽ còn không ít thiếu sót, rất mong chân tình chia sẽ từ quí đồng
nghiệp để chúng ta có phương pháp kiểu bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống được tốt hơn.
IV. Đề xuất kiến nghị:
15


Trong tầm hiểu biết của cá nhân tôi xin có một số kiến nghị như sau:
- Ngành giáo dục cần phải triển khai sâu rộng, kiểm tra sâu sát cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quán triệt sâu rộng trong lực
lượng cán bộ giáo viên, nhân viên sống cao đẹp, sống đúng với lí tưởng vì sự
nghiệp giáo dục, vì sự nghiệp trồng người; kêu gọi họ rèn luyện phẩm chất đạo đức
nhà giáo, đánh thức ở họ lương tâm nghề nghiệp, sống có kỹ cương, tình thương,
trách nhiệm. Đặc biệt quán triệt họ tuyệt đối không có hành vi đánh đập, nhục mạ
học sinh khi các em học sinh chưa ngoan trong quá trình học tập. Nếu có trường
hợp vi phạm tuyệt đối sẽ bị xử lí nghiêm tuỳ theo mức độ vi phạm.
- Ngành giáo dục cần triển khai và kiểm tra thường xuyên công tác đổi mới
phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh, tăng cường tổ chức
thi GVG trong toàn ngành để kịp thời đề ra hướng khắc phục khuyết điểm, phát huy
ưu điểm.
- Ngành giáo dục cũng phải có ngay kế hoạch thăm dò thống kê ý kiến của
học sinh, của giáo viên, của nhà trường khi giáo viên dạy Ngữ văn có biểu hiện
chưa nhiệt tình trong qúa trình dạy học, chưa quan tâm, còn chậm đổi mới pương
pháp dạy học để mắm được nguyên nhân, thông tin phản hồi chính xác, sau đó
ngành có hướng khắc phục, giúp giáo viên kịp thời chấn chỉnh những mặt thiếu xót
của mình hiệu quả.
- Ngành giáo dục thiết nghĩ cũng cần thành lập Ban Đại Diện Cha Mẹ học sinh
của phòng giáo dục, từ Ban Đại Diện Cha Mẹ học sinh của toàn thể các trường

trong huyện của tất cả các cấp học. Phòng Giáo Dục và Đào Tạo quản lí và họp Ban
Đại Diện Cha Mẹ học sinh của phòng theo từng quý để có sự phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa ba môi trường giáo dục nhà trường-gia đình-xã hội. Thông qua đó
ngành giáo dục cũng ghi nhận được những ý kiến phản hồi của các Cha Mẹ học
sinh của từng trường để có biện pháp chỉ đạo các trường thực hiện tốt nhiệm vụ
năm học. Và có những chỉ đạo, biện pháp khả thi dẫn dắt giáo viên và học sinh
tham gia dạy học đích thực, chất lượng thực, thành tích thực.
- Ngành giáo dục tổ chức những buổi trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm dạy tốt,
dạy giỏi của các GV đã có thành tích GVG vòng huyện, vòng tỉnh để cùng nhau
học hỏi.
- Nhà trường cần tổ chức dự giờ, tổ chức chuyên đề thường xuyên hành tháng
về vấn đề đổi mới dạy học Ngữ văn để giáo viên có điều kiện trao dồi phương pháp
dạy học của mình hoặc liên hệ dự giờ trường bạn để cùng nhau trao đổi kinh
nghiệm. Đồng thời nhà trường cũng cần hình thành và duy trì hoạt động của Câu lạc
bộ Văn Thơ để thu hút các em tham gia sáng tác, để các em có cơ hội phát huy tài
năng thơ văn của mình, thu hút các em yêu thích môn Ngữ văn. Nếu có điều kiện,
nhà trường cần trang bị thêm phòng chức năng cho bộ môn Ngữ văn để khi vào đấy
GV và HS dễ thả hồn văn chương hơn khi học tập và nghiên cứu.
- Giáo viên bộ môn Ngữ văn cần trao dồi nghiên cứu tích cực về đổi mới
phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, nắm vững
chương trình nội dung sách giáo khoa, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học tùy
16


theo từng đối tượng học sinh. Đặc biệt là giáo viên phải đặc nhiệt tâm của mình vào
giảng dạy thì không khó gì học sinh lại không yêu thích và học tốt môn mình phụ
trách.
Tôi chân thành đóng góp một phần vào công tác đổi mới phương pháp dạy học
ở phần giải pháp dạy tốt kiểu bài văn Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
và phong trào tham gia nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm do ngành tổ chức. Tôi

mong muốn sự góp ý chỉ đạo của các cấp lãnh đạo về đề tài của tôi được áp dụng
ngày một tốt hơn.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Thêm

17


MỤC LỤC
**********
Nội dung
A. Phần mở đầu

TT
1.

Trang
1

2.

Lý do chọn đề tài

1

3.

Lý luận


1

4.

Thực tiễn

1

5.

Mục đích và phương pháp nghiên cứu

2

6.

Giới hạn của đề tài

2

7.

Kế hoạch thực hiện

2

8.

B. Phần nội dung


3

9.

Cơ sở lý luận

3

10.

Cơ sở thực tiễn

3

11.

Thực trạng và những mâu thuẫn

3

12.

Các biện pháp giải quyết

4

13.

Hiệu quả áp dụng


12

14.

C. Kết luận

15

15.

Ý nghĩa của đề tài đối với công tác

15

16.

Khả năng áp dụng

15

17.

Bài học kinh nghiệm

15

18.

Đề xuất, kiến nghị


15

18



×