Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả SXKD tại công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.43 KB, 66 trang )

Lời mở đầu
1.Lý do lựa chọn đề tài
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu mà mọi doanh nghiệp
trong bất kỳ lĩnh vực nào ở vào mọi thời điểm nào đều mong muốn và tìm
mọi cách để đạt được.Tuy nhiên làm thế nào để nâng cao được hiệu quả
SXKD là một bài toán khó đặt ra với mỗi doanh nghiệp bởi lẽ không có một
công thức chung cho tất cả các doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phải dựa
trên nguồn lực của mình cộng thêm với sự nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường
bên ngoài thì mới có thể đạt được hiệu quả SXKD.Trong bối cảnh nước ta
đang hội nhập với kinh tế thế giới,thách thức cạnh tranh đến với các doanh
nghiệp là rất lớn.Các doanh nghiệp từ nước ngoài với công nghệ và kỹ thuật
hiện đại, con người được đào tạo bài bản sẽ là sự đe dọa đối với sản xuất của
các doanh nghiệp trong nước.Tuy nhiên đây cũng là cơ hội mở ra cho các
doanh nghiệp trong nước để nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách tiếp thu
công nghệ từ nước ngoài, đào tạo về con người.Hội nhập về kinh tế cũng
đồng thời là hội nhập về công nghệ, hội nhập về tri thức.Khi đã tiếp thu
được các công nghệ tiên tiến nhất, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể cạnh
tranh hiệu quả trong nước và nước ngoài.Đối với lĩnh vực xây dựng vấn đề
tiếp thu công nghệ và kỹ thuật đê nâng cao hiệu quả SXKD cũng là một bài
toán khó đang đặt ra với các doanh nghiệp.Với tốc độ phát triển cao của
nghành xây dựng như hiện nay thì sức hấp dẫn là rất lớn, các doanh nghiệp
nhẩy vào lĩnh vực này ngày càng nhiều do đó sức ép cạnh tranh là rất
cao.Nâng cao hiệu quả SXKD chính là để cho doanh nghiệp cạnh tranh có
hiệu quả hơn,tạo được chỗ đứng trên thị trường
2.Mục đích nghiên cứu
-Tìm hiểu về quá trình quy hoạch nghành
-Phân tích tài chính, phân tích SWOT
-Xây dựng khung logic từ đó đưa ra các giải pháp thực hiện
3.Nội dung nghiên cứu
Dựa trên cơ sở đó cộng thêm những kiến thức qua quá trình thực tập tại
công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng, đề tài xin được tập trung


vào “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty cổ
phần lắp máy điện nước và xây dựng”.Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu thực
trạng sản xuất kinh doanh của công ty và từ đó đề ra một số giải pháp và
kiến nghị khắc phục
Đề tài sẽ được chia làm ba chương
Chương I: Cơ sở lý luận chung về hiệu quả SXKD
Chương II: Khái quát chung về tình hình SXKD tại công ty cổ phần lắp
máy điện nước và xây dựng
Chương III :Giải pháp nâng cao hiệu quả SXKD tại công ty cổ phần lắp
máy điện nước và xây dựng
4.Đối tượng nghiên cứu
Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng
5.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên một số những phương pháp nghiên cứu là phân tích tài
chính, phân tích các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng nguồn lực, phân tích
SWOT
6.Dự kiến kết quả đạt được
-Làm sáng tỏ thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần lắp máy
điện nước và xây dựng
-Đề ra được những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty
Do kinh nghiệm còn ít nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót mong
nhận được sự góp ý và chỉnh sửa
Cuối cùng em xin được gửi lời cám ơn chân thành tới Thạc sĩ Đặng Thị Lệ
Xuân, giáo viên đã hướng dẫn em làm đề tài này, tới các cán bộ tại phòng
Kê hoạch, phòng Kinh tế thị trường kỹ thuật, phòng Tổ chức hành chính của
công ty cổ phần lắp máy điện nước đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian
em thực tập
Hà Nội ,ngày 7 tháng 5 năm 2009
Sinh viên

Tạ Duy linh
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
1.Khái niệm
1.1.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả là một khái niệm hay một mục tiêu mà bất kỳ chủ thể nào cũng
mong muốn đạt được.Trong đời sống, lĩnh vực nào cuối cùng cũng được
đánh giá bằng tính hiệu quả.Chúng ta có thể gặp rất nhiều các loại hiệu quả
như hiệu quả xã hội nói về việc nâng cao đời sống của mọi tầng lớp người
dân như giải quyết công ăn việc làm, phúc lợi xã hội,sức khỏe của người dân
hay hiệu quả môi trường nói về việc bảo vệ môi trường như tình trạng ô
nhiễm, tác hại thiên tai và đối với doanh nghiệp thì đó là hiệu quả sản xuất
kinh doanh v.v. Hiệu quả đôi khi đánh giá hết được mà nó do chủ thể tự
đánh giá, tự kiểm nghiệm dựa trên các thước đo đánh giá một cách tương
đối.Chính vì vậy hiệu quả phải đi đôi với mục tiêu do chủ thể đặt ra.Trong
các doanh nghiệp, việc đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp đôi khi cũng chỉ
mang tính chất tương đối.Không có một chỉ số hay một thước đo cụ thể để
đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.Ngày nay khi hoạt
động của doanh nghiệp ngày càng phải công khai minh bạch, hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp cũng phải được đánh giá theo hướng sát thực hơn
với sự đóng góp của nhiều bên.Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được định nghĩa như sau
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và
kết quả thu về trên cơ sở các thước đo chính là thước đo giá trị và thước đo
vật chất hay mặt định lượng và định tính trong những điều kiện nhất định
Để làm rõ hơn hiệu quả SXKD ta phải phân biệt phạm trù hiệu quả SXKD
với các phạm trù khác
Thứ nhất ta cần phân biệt hiệu quả SXKD với kết quả.Hai phạm trù này
tưởng như là một vì trong khái niệm hiệu quả SXKD có nhắc tới kết
quả.Tuy nhiên hiệu quả là một phạm trù rộng hơn kết quả.Kết quả phản ánh

cái thu về qua quá trình sản xuất kinh doanh được thể hiện qua các chỉ tiêu
như doanh thu, lợi nhuận,chất lượng sản phẩm, uy tín với khách hàng, giá trị
thương hiệu v.v.Cón hiệu quả còn phản ánh tiềm năng phát triển thể hiện cả
sự thay đổi về chất của doanh nghiệp.Nó là kết quả bao gồm sự hoàn thiện
về cơ cấu tổ chức, cơ cấu kinh doanh, trình độ quản lý sản xuất,trình độ của
đội ngũ lao động,trình độ sử dụng các nguồn lực, xu thế phát triển trong
tương lai trên cơ sở những cái đang làm và sẽ làm..Vì vậy khi đánh giá hiệu
quả phải chú ý tới cả hai mặt định tính và định lượng của doanh nghiệp,hai
mặt náy có mối quan hệ tương hỗ cho nhau.Mặt định lượng là điều kiện cho
mặt định tính còn mặt định tính là tiền đề cho mặt định lượng.
Thứ hai là cần phân biệt hiệu quả SXKD với tăng trưởng doanh
nghiệp.Trong khái niệm hiệu quả SXKD có nhấn mạnh tới yếu tố “trong
điều kiện nhất định”.Đây là một đặc tính rõ nét thể hiện tính hiệu quả.Hiệu
quả phải gắn với tình hình hiện tại của doanh nghiệp, của môi trường kinh tế
mà doanh nghiệp đang hoạt động chứ không hề có một thước đo chung để
đánh giá hiệu quả.Tăng trưởng doanh nghiệp thể hiện ở các mặt tăng lên về
của cải, quy mô do hoạt động sản xuất và đầu tư đem lại.Tăng trưởng nhanh
chứng tỏ doanh nghiệp đang gặp thuận lợi còn tăng trưởng thấp chứng tỏ
doanh nghiệp đang gặp khó khăn.Tuy nhiên hiệu quả không nhất thiết là thể
hiện qua chi phí sản xuất được sử dụng như thế nào mà đôi khi là nó đang
duy trì nguồn lực hiện tại ra sao .Hiệu quả không nhất thiết là phải gắn với
tăng trưởng cao trong ngắn hạn.Hiệu quả thể hiện mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp còn tăng trưởng chỉ là đánh gía trước mắt.Đôi khi để đạt được
hiệu quả cao nhất, doanh nghiệp phải đánh đổi với tốc độ tăng trưởng trước
mắt.Vì vậy tăng trưởng doanh nghiệp là một yếu tố để đánh giá hiệu quả
SXKD tuy nhiên nó không phản ánh được đầy đủ mọi vấn đề của hiệu quả
SXKD
1.2.Các tính chất của hiệu quả SXKD
-Tính lâu dài
Hiệu quả SXKD được đánh giá dựa trên sự tăng trưởng, hoàn thiện về tất

cả các mặt của doanh nghiệp.Mỗi một đồng vốn đưa vào phải mất một
quãng thời gian nhất định để phát huy tác dụng.Quãng thời gian đó có thể là
một tháng, một quý, một năm mà cũng có thể là vài năm.Điều quan trọng
khi đánh giá hiệu quả SXKD phải dựa trên sự tăng trưởng dài hạn của doanh
nghiệp.Tức là mỗi đồng chi phí bỏ ra phải đảm bảo sự phát triển bền vững
của doanh nghiệp.
-Tính toàn diện
Doanh thu, lợi nhuận ,tỷ lệ vay nợ là những chỉ tiêu dễ thấy nhất thể hiện
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Tuy nhiên đó chỉ là một trong
những khía cạnh để đánh giá hiệu quả SXKD.Như đã nói ở trên, hiệu quả
phải được đánh giá dựa trên sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.Đó là
trình độ của đội ngũ lao động có được cải thiện hay không,cơ cấu tổ chức và
trình độ tổ chức sản xuất thay đổi như thế nào,doanh nghiệp có nâng cao
đượch khả năng cạnh tranh của mình hay không, cơ cấu nghành nghề kinh
doanh có thay đổi gì không và triển vọng kinh doanh mặt hàng đó trong thời
gian tới như thế nào,trong thời gian tới doanh nghiệp có còn giữ được tốc độ
tăng trưởng như thế nữa không?Và quan trọng hơn hết khi đánh giá hiệu quả
SXKD phải xem giữa mục tiêu đạt được và chiến lược phát triển của doanh
nghiệp có thống nhất hay không, doanh nghiệp có đi đúng hướng đã đề ra
cho mình hay không?
2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả SXKD
2.1.Các chỉ tiêu chung
2.1.1.Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
Đây là các chỉ tiêu đánh giá một cách tổng quát nhất hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.Nó cho ta một cái nhìn ban đầu về tình hình của doanh
nghiệp trong thời điểm hiện tại.Tuy nhiên đây mới chỉ là những chỉ tiêu tổng
quát nhất, nó chưa đi sâu vào đánh giá cụ thể hoạt động kinh doanh
a.Hiệu quả tương đối
Hầu hết các chỉ tiêu được đánh giá hiện nay là các chỉ tiêu tương đối.Các
chỉ tiêu tương đối mà ta thường gặp như tốc độ tăng trưởng,phần trăm lợi

nhuận trên doanh thu, tỷ lệ nợ,tỷ lệ hoàn vốn nội bộ v.v.Các chỉ tiêu náy có
một ưu điểm là nó đánh giá được sự lớn mạnh của doanh nghiệp kì này so
với kỳ trước
Công thức tính hiệu quả tương đối
H=K/C
H: hiệu quả SXKD
K: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản tức là một đồng tài sản đưa
vào sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.Kết quả thường là các chỉ tiêu về
doanh thu và lợi nhuận còn chi phí thường là chi phí lao động sống, chi phí
lao động vật hóa hoặc là vốn sản xuất bình quân năm.Do đó ta có thể thấy
hiệu quả SXKD còn được thể hiện qua cả lao động sống và lao động vật
hóa.Nó thể hiện trình độ tổ chức quản lý sản xuất, trình độ tay nghề của
người lao động.Vì vậy công thức trên có thể được viết lại là
H=Doanh thu,lợi nhuận trước thuế,lợi nhuận ròng/tài sản bình quân,vốn kinh
doanh bình quân
b.Hiệu quả tuyệt đối
Hiệu quả tuyệt đối thể hiện kết quả mà doanh nghiệp đạt được.Hiệu quả
tuyệt đối thể hiện giá trị gia tăng trong hoạt động SXKD tức là phần giá trị
tăng thêm do hoạt động đầu tư đem lại
Công thức tính hiệu quả tuyệt đối
H=K-C
Hay công thức được viết là
H=doanh thu,doanh thu thuần,lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế-tài
sản bình quân, vốn sản xuất bình quân
Hiệu quả tuyệt đối được đánh giá dựa trên quy mô của doanh nghiệp
2.1.2.Các chỉ tiêu doanh lợi
a.Doanh lợi tính theo chi phí
Doanh lợi theo chi phí phản ánh khả năng sinh lãi của một đơn vị chi phí

được dùng cho các hoạt động SXKD trên phạm vi toàn doanh nghiệp hoặc
cho một chủng loại sản phẩm nào đó.Mức doanh lợi được xác định theo
công thức
DLcp=JIr/P
DLcp: doanh lợi tính theo chi phí
JIr : lợi nhuận ròng
P : giá thành của sản phẩm
Đây là một chỉ tiêu quan trọng giúp doanh nghiệp kịp thời xem xét lại cơ
cấu hoạt động kinh doanh, tỷ trọng doanh thu của các mặt hàng trong tổng
doanh thu, từ đó giúp doanh nghiệp điều chỉnh lại cơ cấu nghành nghề kinh
doanh, cơ cấu đầu tư.Những sản phẩm nào có mức doanh lợi cao sẽ được
doanh nghiệp đầu tư phát triển còn những sản phẩm nào có mức doanh lợi
thấp sẽ được doanh nghiệp khắc phục cac điểm yếu để cải thiện sản phẩm
hoặc giảm tỷ trọng đầu tư và dần dần loại bỏ khỏi cơ cấu sản phẩm của công
ty
b.Doanh lợi theo vốn
Đây là một trong các chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện năng lực của doanh
nghiệp trong việc sử dụng đồng vốn.Đó là cách doanh nghiệp làm thế nào để
một đồng vốn đưa vào sản xuất tạo ra giá trị lợi nhuận cao.Đây là một vấn
đề không hề đơn giản bởi việc sử dụng đồng vốn thế nào cho hiệu quả không
chỉ phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nào,tỷ suất sinh lời
ra sao mà còn phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đầu tư vào thời điểm nào, có
nắm bắt kịp thời cơ hay không.Nguồn vốn của doanh nghiệp được bắt nguồn
từ rất nhiều nguồn khác nhau.Đó thể là vốn chủ sở hữu, vốn tín dụng, vốn
góp của khách hàng.Một doanh nghiệp mạnh là một doanh nghiệp có nguồn
vốn dồi dào,có khả năng huy động được nguồn vốn để phục vụ cho quá trình
sản xuất.Tuy nhiên huy động được nguồn vốn là một chuyện, việc sử dụng
đồng vốn thế nào cho hiệu quả lại là một chuyện khác.Câu hỏi đặt ra là
doanh nghiệp sẽ giải ngân nguồn vốn đó như thế nào.Chính vì vậy khi xét
tới hiệu quả sử dụng đồng vốn cần phải xét tới trên hai phương diện là hiệu

quả sử dụng tổng vốn và hiệu quả của vốn sử dụng
Hiệu quả sử dụng tổng vốn được thể hiện qua công thức
Htv=JIr/tổng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của một đơn vị tiền tệ vốn nói
chung không phụ thuộc là nó có được sử dụng hay không
Hiệu quả sử dụng vốn sử dụng
Hsd=JIr/giá trị thực tế vốn sử dụng
Giá trị thực tế vốn sử dụng gồm giá trị khấu hao tài sản cố định trong kỳ và
số dư bình quân vốn lưu động trong kỳ tham gia vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn thực tế được
huy động vào sản xuất kinh doanh.Vốn thực tế đưa vào sản xuất gồm có vốn
lưu động và vốn khấu hao.Vốn lưu động thì chuyển toàn bộ giá trị vào sản
phẩm còn vốn khấu hao thì chuyển từng phần vào giá trị của sản phẩm.Vì
vậy trong quá trình hạch toán nguồn vốn sản xuất phải tính tới thời gian hao
mòn tài sản cố định, giá trị của tài sản chuyển vào giá thành sản phẩm.
2.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
2.2.1.Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm máy móc, nhà xưởng, các thiết
bị phục vụ sản xuất v.v thuộc sở hữu của doanh nghiệp đó.Tùy theo từng
loại hình công việc mà khối lượng, giá trị của tài sản cố định quyết định tới
hoạt động sản xuất của công ty.Tài sản cố định có một đặc điểm là giá trị
của nó được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm.Việc tính toán giá trị của
tài sản cố định là một việc rất khó khăn do phai hạch toán về giá trị hao mòn,
thời gian sử dụng và giá trị thanh lý.Đặc biệt với những doanh nghiệp có
khối lượng tài sản cố định lớn thì việc tính toán này là rất khó khăn. Vì thê
tính toán hiệu quả sử dụng tài sản cố định là môt công việc rất phức tạp
Htscđ=Doanh thu,Lợi nhuân/Tổng giá trị TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận hay doanh thu

2.2.2.Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Tài sản lưu động bao gồm các tài sản có tính thanh khoản cao.Hiệu quả
chung về tài sản lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất,
sức sinh lợi của vốn lưu động.Vốn này có đặc điểm là nó chuyển toàn bộ giá
trị vào giá trị của sản phẩm ngay trong một chu kỳ sản xuất.Hiệu quả sử
dụng vốn lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất của vốn
lưu động,sức sinh lợi của vốn lưu động,số vòng quay của vốn lưu động,thời
gian của một vòng quay vốn
-Sức sản xuất của vốn lưu động=Tổng doanh thu thuần/TSLĐ bình quân
Chỉ số này có ý nghĩa là một đồng vốn lưu động đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu thuần
-Sức sinh lợi của vốn lưu động=Lợi nhuận thuần/TSLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận
Tái đầu tư là một quá trình quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.Tái đầu tư thúc đẩy quá trình sản xuất diễn ra mạnh mẽ
hơn.Hoạt động tái đầu tư được diễn ra sau mỗi chu kỳ sản xuất.Trong quá
trình đó,vốn lưu động được luân chuyển qua các giai đoạn của quá trình sản
xuất.Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ giải quyết được khó
khăn của doanh nghiệp trong vấn đề vốn và giúp doanh nghiệp tự chủ hơn
trong hoạt động kinh doanh của mình.Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
được xác định qua công thức
Số vòng quay của vốn lưu động=Tổng doanh thu thuần/TSLĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng.Nếu
số vòng quay của vốn lưu động càng lớn chứng tỏ vốn quay được càng
nhiều, hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại
Thời gian của một vòng luân chuyển=Thời gian của kỳ phân tích/Số vòng
quay của TSLĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động thực hiện được
một vòng quay.Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân

chuyển càng lớn
Hai chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp.Tuy nhiên tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh mà thời gian luân
chuyển khác nhau.Có những nghành do đặc thù sản xuất mà thời gian luân
chuyển lâu chậm khác nhau.Vì vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp cần phải so sánh với các doanh nghiệp khác hoặc so
sánh quý này so với quý trước để rút ra nhận xét.
Và ngoài ra còn có thể tính hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động=TSLĐ bình quân/Tổng doanh thu thuần
=1/Số vòng quay của vốn lưu động
Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao,vốn tiết kiệm
được càng nhiều.Điều này cũng hoàn toàn hợp lý vì vốn lưu động quay được
cang nhiều chứng tỏ khả năng sử dụng vốn cao.
2.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn
a.Hiệu quả sử dụng vốn dài hạn
Vốn dài hạn là vốn dùng để đầu tư cho các tài sản dài hạn của doanh
nghiệp như trang thiết bị nàh xưởng..Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn
dài hạn cần so sánh hệ số doanh lợi của vốn dài hạn của lỳ nghiên cứu với
kỳ gốc và kỳ kế hoạch
Hệ số doanh lợi vốn dài hạn=Lợi nhuận sau thuế/Vốn dài hạn
=Doanh thu thuần/Vdh*Lãi ròng/doanh thu thuần
=Hệ số quay vòng Vdh*Hệ số doanh lợi doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn dài hạn bỏ ra tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.Hệ số này cang cao chứng tỏ khả năng sinh lời của vốn cao và ngược
lại.Theo trên ta có hệ số doanh lợi vốn dài hạn chịu tác động của hai nhân tố
đó là hệ số quay vòng vốn dài hạn và hệ số doanh lợi của doanh thu
thuần.Hệ số quay vòng vốn dài hạn phản ánh trong kỳ kinh doanh vốn dài
hạn quay được mấy vòng.Hệ số doanh lợi của doanh thu thuần cho biết trong
một đồng doanh thu có mấy đồng lãi ròng.
b.Hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn

Vốn ngắn hạn là nguồn vốn dùng để đầu tư cho các tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp.Vốn ngắn hạn thường là nguồn vốn đi vay như vốn tín dụng
hay vốn vay thương mại và phải chịu lãi suất.Nguồn vốn này có đặc điểm là
doanh nghiệp phải trả lãi chính vì thế việc sử dụng nguồn vốn này đòi hỏi
doanh nghiệp phải cân nhắc rất kỹ trước khi đầu tư cũng như khi vay
vốn.Thông thường nguồn vốn này được đầu tư vào những dự án có thời gian
thu hồi vốn nhanh.
Hệ số doanh lợi vốn ngắn hạn=Lợi nhuận sau thuế/Vốn ngắn hạn
=Doanh thu thuần/Vnh*Lãi ròng/doanh thu thuần
=Hệ số quay vòng Vnh*Hệ số doanh lợi doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn ngắn hạn bỏ ra tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận.Hệ số này cang cao chứng tỏ khả năng sinh lời của vốn cao và
ngược lại
2.2.3.Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Nhân lực là một yếu tố quan trọng trực tiếp tạo ra sản phẩm cho doanh
nghiệp.Doanh nghiệp ngoài việc có một nguồn vốn dồi dào, có cơ sở vật
chất kỹ thuật tốt cần có một đội ngũ lãnh đạo có tầm nhìn xa chiến lược,có
khả năng lèo lái doanh nghiệp, có đội ngũ nhân công lành nghề hiểu biết
công việc.Việc sử dụng nguồn lao động thế nào cho hiệu quả không những
phụ thuộc vào việc doanh nghiệp tuyển chọn người tài như thế nào mà còn
phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đãi ngộ nhân công ra sao,cơ cấu tổ chức
như thế nào để phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và cũng là để phát
huy tối đa năng lực của đội ngũ nhân công.Doanh nghiệp phải làm thế nào
để với đội ngũ nhân công hợp lý tạo ra được hiệu quả cao nhất cho doanh
nghiệp.Hiệu quả sử dụng lao động được thể hiện qua công thức sau
NSLĐ=KQ/LĐ
Trong đó
NSLĐ: năng suất lao động
KQ : doanh thu, lợi nhuận
LĐ : tổng số lao động của doanh nghiệp

Chỉ tiêu này phản ánh mỗi một lao động tạo ra bao nhiêu của cải cho doanh
nghiệp.Đó là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.Nó phụ thuộc
vào trình độ của người lao động, cơ sở hạ tầng doanh nghiệp, mức độ công
nghệ được trang bị trên mỗi công nhân
Nếu tính trong một năm
NSLĐ=n*g*NSg
Trong đó
n: số ngày làm việc bình quân năm
g: số giờ làm việc bình quân của mỗi lao động
NSg : năng suất lao động bình quân mỗi giờ làm việc của mỗi lao động
Theo cách tính này thì năng suất lao động sẽ được tính theo hướng sát
thực hơn, phản ánh đúng thực chất của doanh nghiệp.Tuy nhiên nếu tính
theo cách này thì sẽ mất thời gian, khối lượng tính toán lớn do phải khảo sát
trên từng công nhân hay một nhóm các công nhân có tính chất công việc như
nhau
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
3.1.Môi trường bên trong doanh nghiệp
Môi trường bên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp phải tự mình tìm ra những
hướng đi thích hợp, tự tìm ra những cơ hội kinh doanh cũng như là tự nhận
ra các yếu điểm để khắc phục nhằm đảm bảo tính cạnh tranh tốt hơn.Để làm
được tất cả các vấn đề đó, doanh nghiệp không những phải có một đội ngũ
lãnh đạo giỏi, có tầm nhìn chiến lược, có đội ngũ nhân công giỏi trình độ,
yêu nghề, hết lòng với công việc mà doanh nghiệp cần phải có những tiền đề
để phát triển tốt như cơ sở hạ tầng, nguồn lực tài chính.Nếu ví cả doanh
nghiệp như một cơ thể thì các bộ phận ,phòng ban trong doanh nghiệp giống
như các bộ phận trên cơ thể.Doanh nghiệp muốn hoạt động tốt thì các bộ
phận trong doanh nghiệp phải có sự phối hợp với nhau một cách linh hoạt
đảm bảo sự phát triển chung của doanh nghiệp
3.1.1.Cơ cấu tổ chức và quy mô của doanh nghiệp

Cơ cấu tổ chức là cách sắp xếp bộ máy,cách tổ chức sản xuất,cách sử dụng
các nguồn lực.Cơ cấu tổ chức thể hiện tính khoa học trong hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp.Nó tác động mạnh mẽ tới hiệu quả SXKD.Cơ cấu tổ
chức có hợp lý thì các nguồn lực mới được phát huy hết tác dụng.Cơ cấu tổ
chưc phải đảm bảo tính thống nhất trong mục tiêu, tính tối ưu trong hoạt
động, tính khoa học trong tổ chức sắp xếp.Tính thống nhất thể hiện ở chỗ cơ
cấu tổ chức phải đảm bảo hướng tới mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra.Nguồn
lực của doanh nghiệp là có hạn.Mục tiêu là doanh nghiệp làm thế nào để đạt
được lợi nhuận cao nhất với nguồn lực hiện tại, làm thế nào để nâng cao khả
năng canh, xây dựng một thương hiệu mạnh.Tổ chức phải làm sao để cac bộ
phận trong doanh nghiệp phải hiểu rõ mục tiêu của công ty, hết lòng vì mục
đích chung của tập thể.Tính tối ưu chính là việc doanh nghiệp sử dụng
nguồn lực của mình ra sao.Nguồn vốn bỏ vào mang lại lợi nhuận cao, các
thành viên trong doanh nghiệp có thể phát huy tối đa khả năng của mình là
một điều không dễ dàng.Chính vì vậy trong quá trình cơ cấu tổ chức bộ máy
doanh nghiệp gặp phải những vướng mắc là điều hết sức bình thường.Doanh
nghiệp phải thường xuyên lắng nghe, quan sát để có thể ngày càng hoàn
thiện hơn bộ máy sản suất của mình.Và tính khoa học chính là chỗ phải làm
sao để cơ cấu tổ chức gọn nhẹ đơn giản, dễ quản lý.Mỗi doanh nghiệp với
những đặc điểm kinh doanh khác nhau sẽ có cơ cấu tổ chức khác nhau
nhưng dù thế nào thì mục tiêu cuối cùng cần hướng tới vẫn là hiệu quả
SXKD
Quy mô của doanh nghiệp không những được thể hiện về số lượng nhân
công, tiềm lực tài chính,quy mô nhà xưởng máy móc thiết bị mà còn thể hiện
ở quy mô thương hiệu, uy tín với khách hàng, vị trí của doanh nghiệp trên
thị trường.Quy mô doanh nghiệp lớn sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho doanh
nghiệp trong việc SXKD.Hiệu quả SXKD không những được thể hiện ở mặt
sản xuất mà còn thể hiện ở quá trình tiêu thụ tìm kiếm khách hàng.Đó là
những giá trị vô hình giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó
thu được lợi nhuận cao.Quy mô doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ doanh

nghiệp tìm kiếm đối tác trên thị trường.Có thêm một đối tác là doanh nghiệp
có khả năng dễ dàng tiếp cận được với thông tin hơn,đồng thời nâng cao
được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
3.1.2.Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Tình hình tài chính của thể hiện sức khỏe của doanh nghiệp trong thời điểm
hiện tại.Tài chính giống như là mạch mấu nuôi dưỡng doanh nghiệp và nếu
nó có vấn đề thì chắc chắn doanh nghiệp không thể hoạt động bình thường
được.Nó là minh chứng rõ ràng nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.Nếu hoạt động kinh doanh thuận lợi doanh nghiệp sẽ có một tình
hình tái chính sáng sủa và ngược lại.Tình hình tài chính của doanh nghiệp
được thể hiện qua các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, khả năng thanh toán,
khả năng thu hồi vốn,các chỉ số về doanh lợi,tỷ lệ chi trả cổ tức,tổng tài sản,
tổng vốn cố định, tổng vốn lưu động v.v.Nó không những là bằng chứng cho
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian qua mà còn
là cơ sở để đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian
tới.Các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc doanh
nghiệp có đủ tiềm lực hay không , có đủ khả năng để thanh toán cho các dự
án của mình hay không.Hoạt động kinh doanh nào cũng cần phải cần một số
vốn đầu tư ban đầu nhất định để mua sắm trang bị máy móc, mua sắm
nguyên vật liệu hoặc đầu tư vào cơ sở hạ tầng.Nếu doanh nghiệp có vấn đề
về khả năng thanh toán thì có thể gây ra các rủi ro cho các hoạt động của
doanh nghiệp từ đó có thể dẫn tới ngưng trệ hoạt động sản xuất và có thể
dẫn tới phá sản.Đặc biệt trong bối cảnh cổ phần hóa,các doanh nghiệp phải
công khai tài chính của mình hàng tháng, quý, năm.Vì vậy bản báo cáo tài
chính chính là để tạo được niềm tin từ khách hàng và các cổ đông của công
ty.
3.1.2.Đội ngũ lao động
Con người đứng ở vị trí trung tâm trong doanh nghiệp.Ngày nay lao động
trí óc ngày càng đi vào chiều sâu.Đối với các doanh nghiệp, lao động chính
là những người trực tiếp tạo ra của cải cho doanh nghiệp, là những người

trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất.Khoa học kỹ thuật càng phát triển,
các công nghệ về tự động hóa đang được ứng dụng rất rộng rãi trong các
doanh nghiệp thì vai trò của con người không những giảm đi mà thậm chí
còn rất quan trọng.Đội ngũ lao động ở đây là bao gồm các chủ doanh nghiệp
và công nhân.Chủ doanh nghiệp là những người lãnh đạo doanh nghiệp, là
bộ não của doanh nghiệp.Trong bối cảnh kinh tế thị trường, cơ hội kinh
doanh rất nhiều nhưng nguy cơ không phải là ít.Chủ doanh nghiệp phải là
những người có tầm nhìn xa trông rộng, có con mắt chiến lược có khả năng
lèo lái doanh nghiệp tiến lên phía trước.Chủ doanh nghiệp có toàn quyền về
việc sử dụng tài sản như thế nào,thuê nhân công ra sao.Chỉ một quyết định
đúng đắn và kịp thời có thể mang lại một hiệu quả SXKD cao cho doanh
nghiệp.Và ngược lại những quyết định sai lầm sẽ phải trả giá đắt.Đối với đội
ngũ công nhân phải là những người có trình độ sản xuất, hiểu và giỏi
việc.Năng suất lao động một phần là phụ thuộc vào máy móc, một phần là
phụ thuộc vào trình độ của người công nhân.Công nghệ ngày càng phát triển
thì công nhân phải là những người đủ trình độ để tiếp nhận công nghệ ,làm
chủ được công nghệ.Vì vậy doanh nghiệp phải không ngừng ý thức, nâng
cao tay nghề của người lao động, tổ chức các lớp hướng dẫn, đào tạo đội ngũ
cán bộ nhân viên giàu kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc, sáng tạo trong
sản xuất, độc lập trong làm việc, biết giúp đỡ nhau trong sản xuất và hăng
hái với các hoạt động của công ty.Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải
thường xuyên cơ cấu lại đội ngũ lao động sao cho có thể đạt được hiệu quả
SXKD cao nhất
3.1.3.Trình độ công nghệ
Mục tiêu của doanh nghiệp là phải chiếm lĩnh thị trường loại bỏ đối thủ
cạnh tranh.Để làm được điều đó thì doanh nghiệp chỉ còn cách là đi trước
đối thủ về các sản phẩm mới trên thị trường,khai thác những thị trường tiềm
năng.Bên cạnh đó doanh nghiệp phải không ngững nâng cao chất lượng sản
phẩm, kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Chính vì vậy doanh nghiệp
phải không ngừng tìm tòi đổi mới công nghệ sản xuất,thay thế những công

nghệ đã lạc hậu.Khoa học kỹ thuật phát triển là cơ hội nhưng cũng là những
thách thức rất lớn cho các doanh nghiệp.Doanh nghiệp nào biết tiếp thu, nắm
bắt công nghệ thì doanh nghiệp đó sẽ thắng.Điều đó không nằm ngoài quy
luật của kinh tế thị trường.
3.1.4.Chiến lược phát triển doanh nghiệp
Chiến lược là cụm từ hiện nay đã trở nên quá quen thuộc.Chiến lược là
cách làm thế nào để chiến thắng đối thủ cạnh tranh,chiếm lĩnh thị
trường.Hay nói một cách khác chiến lược chính là bản phác thảo con đường
đi đến tương lai, xác định những gì mà doanh nghiệp phải làm trong khoảng
thời gian tới.Chiến lược mang tính dài hạn bởi nó chính là kim chỉ nam cho
hoạt động của doanh nghiệp.Tuy nhiên làm thế nào để đưa ra một chiến lược
tốt là điều không hề đơn giản.Một chiến lược tốt là một chiến lược phải đem
lại hiệu quả SXKD trong dài hạn.Ngược lại một chiến lược tồi sẽ làm cho
doanh nghiệp chệch hướng và không đạt được hiệu quả như mong
muốn.Chiến lược có thể là chiến lược chung của cả doanh nghiệp, chiến
lược cho từng sản phẩm hoặc có thể là chiến lược của tưng bộ phận.Chiến
lược phải được xây dựng dựa trên cơ sở nắm bắt tình hình chung của thị
trường, nghiên cứu kỹ đối thủ cạnh tranh, phân tích rõ thế mạnh cũng như
điểm yếu của doanh nghiệp.Chiến lược dẫn tới sự thay đổi cơ bản của doanh
nghiệp về cơ cấu tổ chức, nghành nghề kinh doanh, đội ngũ lao động v.v.Thị
trường cang phát triển, doanh nghiệp càng cần phải có một chiến lược đúng
đắn để khẳng định vị thể của mình trong lòng khách hàng
3.2.Môi trường bên ngoài
3.2.1.Tình hình kinh tế chính trị chung.
a.Chính sách và định hướng của Nhà nước
Tất cả mọi doanh nghiệp nếu muốn kinh doanh thì phải có tư cách pháp
nhân và chịu sự quản lý của Nhà nước bằng hệ thông luật pháp.Nhà nước có
trong tay các công cụ điều hành đủ mạnh để điều chỉnh hoạt động kinh
doanh của nền kinh tế.Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường có
sự điều chỉnh của Nhà nước.Nhà nước đứng giữa nền kinh tế đóng vai trò là

người điều hành các hoạt động của thị trường.Mục tiêu cuối cùng của xã hội
là nâng cao mức sống của người dân, đẩy lùi đói nghèo và đưa đất nước phát
triển theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Nền kinh tế thị trường
phát triển xuất hiện rất nhiều các nghành nghề kinh doanh khác nhau.Nhà
nước phải đứng ra điều hành hoạt động kinh doanh chung của thị
trường.Nhà nước xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách tạo ra sân chơi
chung cho các doanh nghiệp.Hệ thống luật pháp này được xây dựng dựa trên
cơ sở lợi ích chung của toàn xã hội.Có những nghành nghề Nhà nước
khuyến khích kinh doanh vì nó phù hợp với xu thế phát triển chung và tình
hình kinh tế ở trong nước.Nhà nước khuyến khích bằng cách tạo cho doanh
nghiệp những điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất như ưu đãi về thuế,lãi
suất,giúp đỡ về chuyên gia v.v.Ngược lại đối với những nghành sản xuất
không mang lại lợi ích cao cho xã hội và có ảnh hưởng không tích cực đối
với nền kinh tế nói chung thì Nhà nước sẽ kìm hãm hoạt động sản xuất của
nghành đó bằng các công cụ kinh tế vĩ mô.Ví dụ mục tiêu của chúng ta là
đẩy mạnh sản xuất trong nước,xóa đói giảm nghèo,thúc đẩy an sinh xã
hội.Chúng ta khuyến khích những mặt hàng sản xuất đem lại giá trị lớn cho
mọi bộ phận người dân.Đối với những mặt hàng xa xỉ chúng ta đánh thuế
nặng từ đó có thể kìm hãm được hoạt động kinh doanh này.Chính vì vậy đối
với các doanh nghiệp,việc nắm rõ các quy định của Nhà nước là điều cần
thiết.Mặt khác doanh nghiệp cũng nên lựa chọn những nghành nghề kinh
doanh theo định hướng của Nhà nước, được Nhà nước khuyến khích thì sẽ
có điều kiện phát triển hơn, từ đó có thể mang lại một hiệu quả SXKD cao
hơn
b.Các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế
Doanh nghiệp như là một tế bào của nền kinh tế, vì vậy khi nền kinh tế có
biến động doanh nghiệp tất nhiên cũng phải chịu những ảnh hưởng nhất
định.Việc duy trì sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào chính sách
điều hành của Nhà nước về lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ lạm phát v.v.Đó là những
yếu tố tác động trực tiếp nhất tới hoạt động của doanh nghiêp.Nó ảnh hưởng

tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.Khi Nhà nước thắt chặt lãi suất
tức là khi đó doanh nghiệp sẽ khó của khả năng tiếp cận được nguồn vốn tín
dụng.Hay khi lạm phát tăng thì sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp
Đối với doanh nghiệp, một sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng được nhu
cầu của thị trường.Nó phải thỏa mãn về chất lượng và số lượng.Do vậy khi
doanh nghiệp tiến hành SXKD phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường
trên cơ sở nắm bắt quy luật cung cầu, có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù
hợp.Hay doanh nghiệp phải xác định giá cho sản phẩm của mình để làm sao
với mức giá nào cho doanh thu cao nhất.Nếu giá quá cao sẽ khiến cho lượng
mua giảm đi hoặc giá quá thấp sẽ làm tăng được lượng mua nhưng sẽ khiến
cho doanh nghiệp bị lỗ
Tóm lại doanh nghiệp luôn luôn chịu tác động của moi trường kinh tế bên
ngoài.Nếu doanh nghiệp có một chiến lược đúng đắn biết nắm bắt cơ hội thì
doanh nghiệp sẽ thành công còn nếu không doanh nghiệp sẽ để cho những
tác động tiêu cực của thị trường làm ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của
mình
3.2.2.Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp khác cùng kinh doanh những
mặt hàng giống nhau hoặc có tính chất giống nhau,cùng chiếm lĩnh một
phân khúc thị trường.Đối thủ cạnh tranh có thể hiểu là nhưng doanh nghiệp
đang chiếm lĩnh hoặc có ý định chuẩn bị chiếm lĩnh một khúc thị trường
giống với các doanh nghiệp khác.Các đối thủ này luôn luôn tìm cách để
giành giật khách hang của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường,việc
doanh nghiệp phải cạnh tranh với một lúc nhiều đối thủ là một điều rất bình
thường.Vì vậy doanh nghiệp phải có một chiến lược riêng cho mình để luôn
luôn đi trước đối thủ.Doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ sản
xuất,nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng.Điều quan trọng là
doanh nghiệp phải luôn tính tới hiệu quả sản xuất kinh doanh cho mình.Nếu
đối thủ cạnh tranh quá mạnh mà tiềm lực hiện tại của doanh nghiệp không

thể cạnh tranh được thì doanh nghiệp có thể chuyển hướng sang các hoạt
động kinh doanh khác mang lại lợi thế tốt hơn cho doanh nghiệp
3.2.3.Khách hàng
Khách hàng là những người sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.Đó là
nhứng người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp bởi doanh nghiệp dù có
sản xuất ra sản phẩm chất lượng tới đâu nếu không có khách hàng thì doanh
nghiệp cũng thất bại.Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng,xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp trong lòng khách
hàng nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.Khách hàng gồm có khách
hàng hiện tại và khách hang tiềm năng.Doanh nghiệp trên cơ sở thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng hiện tại còn phải biết cách khơi dậy nhu cầu của
khách hàng tiềm năng.Để có thể xây dựng uy tín trong lòng khách hàng
nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định doanh nghiệp phải kịp thời
đáp ứng thị hiếu của khách hàng về chất lượng ,giá cả và thái độ phục vụ
3.2.4.Nhà cung cấp
Nhà cung cấp là những người cung cấp nguyên liệu đầu vào cho quá trình
sản xuất của doanh nghiệp.Tình hình của nhà cung cấp ảnh hưởng rất lớn tới
hoạt động SXKD của doanh nghiệp.Nhà cung cấp quyết đinh tới tính ổn
định trong sản xuất của doanh nghiệp.Để hoạt động sản xuất co thể diễn ra
một cách trôi chảy, doanh nghiệp cần phải đảm bảo được nguồn nguyên liệu
ổn định.Phải mất rất nhiều thời gian cũng như chi phí, doanh nghiệp mới có
thể tìm được một đối tác cung cấp cho doanh nghiệp nguồn nguyên liệu với
chất lượng tốt và giá cả hợp lý.Nếu như nhà cung cấp ngừng cung cấp các
yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp thì điều đó sẽ làm cho hoạt động sản suất
của doanh nghiệp bị ngưng trệ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh
doanh.Hoặc có thể doanh nghiệp sẽ bị nhà cung cấp ép giá dẫn tới làm tăng
chi phí đầu vào dẫn tới tăng giá thành sản phẩm..Để giảm thiểu những rủi ro
kể trên,doanh nghiệp phải thiết lập mối quan hệ với nhiều nhà cung cấp hoặc
tự chủ về nguồn nguyên liệu đầu vào.Nhà cung cấp phải đảm bảo có uy
tín,nguồn hang có chất lượng và ổn định.Như thế doanh nghiệp mới có thể

tự chủ trong hoạt động sản xuất của mình,tạo ra tâm lý tốt cho công nhân
viên,nâng cao được hiệu quả sản xu

CHƯƠNG II
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY ĐIỆN NƯỚC VÀ XÂY DỰNG
1.Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần lắp máy điện nước và
xây dựng
1.1.Ngành nghề kinh doanh
Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng tên giao dịch quốc tế là
COWAELMIC tiền thân là xí nghiệp lắp máy điện nước thuộc Tổng công ty
xây dựng Hà Nội được thành lập cách đây 33 năm.Sau một quá trình phát
triển lâu dài công ty đã cổ phần hóa vào năm 1999 theo quyết định của
Chính phủ.Hiện nay công ty đang hoạt động theo mô hình công ty mẹ con
bao gồm công ty mẹ và bốn công ty con.Từ chuyên môn là lắp máy điện
nước hiện nay công ty đã đa dạng hóa các nghành nghề của mình để đáp ứng
nhu cầu của hội nhập và phát triển.Vẫn tập trung vào lĩnh vực chính của
công ty là lĩnh vực xây lắp hiện nay đang chiếm 55% tổng doanh thu của
công ty bao gồm xây dựng các công trình dân dụng,khu công nghiệp,khu đô
thị.Bên cạnh đó, công ty cũng nhận sửa chữa và tôn tạo các công trình kiến
truc,các di tích lịch sử văn hóa thể thao.Về lĩnh vực lắp máy,công ty nhận
lắp đặt các thiết bị điện trong các công trình như điện nước,thang máy, điều
hòa,hệ thống kho lạnh, hệ thống xử lý độ ẩm.Với bề dày kinh nghiệm trong
lĩnh vực này, công ty đã ,đang và sẽ đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh các phụ
kiện phục vụ sản xuất,phụ kiện xây dựng và cấp thoát nước,các thiết bị
điện.Đây cũng là một hướng phát triển của công ty trong thời gian tới với sự
phát triển mạnh mẽ của thị trường điện máy và sự phát triển của các công
trình xây dựng.Với đội ngũ thi công lành nghề ,cơ sở hạ tầng và máy móc
đồng bộ có thể đảm nhận thi công tất cả các hạng mục công trình.Đối với
các dự án xây dựng công ty nhận thầu một số những hạng mục công trình

hoặc toàn bộ công trình theo hình thức chìa khóa trao tay đảm bảo về tiến độ
và chất lượng thi công.Bên cạnh mảng thi công xây dựng, công ty cũng đang
chú trọng vào lĩnh vực tư vấn thiết kế công trình,thẩm định các dự án đầu
tư,khảo sát xây dựng,kiểm định chất lượng công trình.Công ty đã hoàn thành
và bàn giao một số những công trình lớn, có giá trị.Một số những công trình
tiêu biểu của công ty đã nhận được bằng khen của Chủ tịch nước.Bằng kinh
nghiệm của mình công ty đã kịp thời đáp ứng được nhu cầu của thị
trường,doanh thu của công ty không ngừng tăng lên trong những năm qua.
1.2.Đặc điểm sản xuât kinh doanh của công ty
Đặc điểm chung
*Thế mạnh của công ty
-Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, công ty có những điều kiện lớn để phát
triển.Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, cơ sỏ
vật chất còn thấp thì nghành xây dựng đang là một lĩnh vực then chốt trong
nghành công nghiệp của Việt Nam. Theo Bộ Xây dựng, tốc độ tăng trưởng
công nghiệp vật liệu xây dựng đạt hơn 17%/năm cao hơn tốc độ tăng trưởng
công nghiệp của cả nước. Phấn đấn đạt giá trị xuất khẩu vật liệu xây dựng
khoảng 30 – 35% so với giá trị sản xuất trong nước trước năm 2010. Tốc độ
tăng trưởng bình quân từ năm 2001 trở lại đây của các doanh nghiệp ngành
Xây dựng luôn đạt mức cao, bình quân 16,5%/năm.Hiện nay lĩnh vực sản
xuất vật liệu xây dựng đang chiếm khoảng tỷ trọng là 10% trong cơ cấu
nghành nghề của công ty.Ý thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này,
công ty đang tích cực triển khai xây dựng các nhà máy sản xuất vật liệu xây
dựng song song với việc phát triển các lĩnh vực khác của công ty với tham
vọng có thể tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào và xuất khẩu ra bên
ngoài .Đó là một chiến lược hoàn toàn đúng đắn trong bối cảnh giá cả vật
liệu xây dựng lên xuống thất thường như hiện nay.Với tốc độ phát triển bình
quân 20%/năm như hiện nay, lĩnh vực sản xuất xây lắp đang là một lĩnh vực
chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của công ty với giá trị sản xuất xây
lắp/giá trị sản xuất kinh doanh của toàn công ty vào khoảng 90%..Trong thời

gian tới chiến lược của công ty là tăng dần tỷ trọng doanh thu trong lĩnh vực
kinh doanh dự án.Đây là lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn ,thời gian thu hồi
vôn lâu nhưng với khả năng và kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực xây
dựng công ty đang tích cực triển khai để đưa vào thực hiện
-Với hệ thống thiết bị thi công đồng bộ đủ khả năng thi công mọi loại hình
công viêc, công ty đang đảm nhân rất nhiều các dự án lắp đặt điện nước và
tu sửa công trình xây dựng trên địa bàn cả nước.
*Hạn chế của công ty
-Sản phẩm của công ty thường là các công trình ,hạng mục công trình có quy
mô lớn về kết cấu,kỹ thuật phức tạp và thời gian kéo dài bao gồm nhiều
chủng loại vật tư, chi phí đầu tư cho công trình
-Công ty có tài sản cố định lớn chủ yếu là các thiết bị thi công nên đòi hỏi
công ty phải thường xuyên chi ra số tiền lớn để duy tu, bảo dưỡng.Mặt khác
công ty phải thường xuyên đổi mới công nghệ, đầu tư vào những thiết bị tối
tân hơn để đảm bảo giải quyết chất lượng và tiến độ của công trình
-Do tính chất của công việc phải thi công nhiều công trình trên những địa
bàn khác nhau nên việc chậm tiến độ là điều hoàn toàn có thể xảy ra.Để khắc
phục điều này đòi hỏi công ty phải có một kế hoạch thật tỷ mỉ cũng như sự
phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban và đơn vị thi công

×