Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một vài kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp tình huống có vấn đề trong dạy học GDCD ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.09 KB, 15 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM
KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC GDCD Ở TRƯỜNG THPT

A/ PHẦN MỞ ĐẦU
Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp
trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách
con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại
học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi tốt
nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một
cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở
thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất: Nội dung, chương trình môn GDCD khô khan, nhiều kiến
thức trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy không
gây được sự hứng thú đối với người học.
Thứ hai: Cơ chế thi trường đã len lỏi vào trong nhận thức của các
em học sinh và gia đình chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học.
Các em xem nhẹ môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối
phó. Bên cạnh đấy bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem
nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy,
ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có
sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít
1


đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ
nhàm chán và ngại học. Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh, để học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mối
giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học.
Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút
vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua


đó, học sinh có thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình
dạy học, giáo viên phải huy động, khai thác tối đa năng lực tư duy cho
học sinh, tạo cơ hội và động viên, khuyến khích học sinh bày tỏ quan
điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Để làm được điều đó, ngoài
các phương pháp như: Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề, thảo luận
nóm….thì phương pháp tình huống là một phương pháp có thể phát huy
được tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên, không phải bất kì bài nào
cũng có thể sử dụng phương pháp tình huống và chỉ rập khuôn theo
một cách. Chọn phương pháp cho một tiết học là không khó nhưng làm
sao để sử dụng phương pháp đó một cách có hiệu quả thì là cả một vấn
đề cần bàn luận, nghiên cứu.Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tích lũy
được một số kinh nghiệm trong việc sử dụng phương pháp tình huống có
vấn đề khi giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD. Tôi xin
mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn đồng nghiệp
một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy.
B/ PHẦN NỘI DUNG

2


I. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CÓ
VẤN ĐỀ
Phương pháp tình huống có vấn đề là một phương pháp dạy học,
trong đó học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải
quyết các vấn đề của tình huống đặt ra.
Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những
mâu thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân
nhắc các phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là
một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt chuyện, nhân vật, có chứa
đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để chứng minh một vấn đề

hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống trong dạy học là
những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huống thực, được cấu
trúc hóa nhằm mục đích dạy học.
*Cách tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có thể là:
- Học sinh đọc (hoặc xem hay nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về
nó.
- Giáo viên đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình
huống.
-Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề.
3


- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi
như: Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân
vật A? Nhân vật B?....Vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế
nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình
huống rộng hơn, khái quát hơn.
- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống
cuộc sống, nghề nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở
nhiều hướng giải quyết.
- Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề và có thể có liên quan
đến nhiều phương diện.
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều
kiện cụ thể.

- Tình huống cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong việc giải
quyết các tình huống thực tiễn, không phải bao giờ cũng có những giải
pháp duy nhất đúng.
- Đôi khi, nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay
một băng đĩa mà không phải dựa trên dạng chữ viết.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CÓ VẤN
ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH
Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ nêu lên thực
tiễn áp dụng ở Bài 2 và Bài 6 của chương trình GDCD lớp 12 - THPT.
1. Nội dung
4


Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều
phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vấn đề là dùng phương pháp nào
đem lại hiệu quả giảng dạy tối ưu, học sinh chiếm lĩnh tri thức nhanh
nhất và khắc sâu kiến thức nhất. Thông thường khi giảng bài này giáo
viên thường đưa ra các tình huống liên quan đến bài học, giáo viên phân
tích tình huống và giảng giải sau đó yêu cầu học sinh rút ra kiến thức cơ
bản của bài học. Nhưng nếu các đơn vị kiến thức trong bài đều sử dụng
một phương pháp thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, không kích thích
được sự hứng thú của học sinh.Tuy nhiên cũng bằng phương pháp tình
huống được sử dụng một cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp
làm việc theo nhóm để phát huy tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía
học trò bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Mặt khác, khi sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy nếu
giáo viên chỉ cho học sinh thảo luận các tình huống trong sách giáo khoa
thôi thì bài học sẽ mang tính kinh viện và chỉ đạt được một mục đích của
bài là về kiến thức còn về thái độ, kỹ năng là chưa có. Xuất phát từ thực
tiễn trên khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần xây dựng các tình

huống phải sát với thực tiễn cuộc sống và gần gũi với nhận thức, tâm lý
lứa tuổi học sinh.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “Vi phạm pháp luật
và trách nhiệm pháp lý” giáo vin yêu cầu học sinh giải quyết tình huống
sau:
“ Nam (19 tuổi) đi xe mô tô đến một ngã tư, mặc dù có báo hiệu đèn
đỏ nhưng vẫn không dừng lại. Do không tuân theo chỉ dẫn của tín
5


hiệu đèn nên đã bị cảnh sát giao thông bắt dừng lại và yêu cầu xuất
trình giấy tờ. Nam đã xuất trình đầy đủ giáy tờ cần thiết nhưng cảnh
sát giao thông vẫn lập biên bản và yêu cầu nộp phạt. Nam cho rằng
cảnh sát giao thông xử phạt không có tình, có lý. Vì thực tế đường
vắng, Nam không gây tai nạn cho ai và xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp
pháp.
Hỏi: a. Hành vi của Nam có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
b. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật gì?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống,
thảo luận, đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận. Như
vậy việc tạo ra tình huống để học sinh tự giải quyết, học sinh sẽ hứng
thứ hơn, không lệ thuộc vào sách vở sẽ phát huy được tính tích cực của
học sinh. Tiết học sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một
cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tôi phát
huy tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía học sinh bằng cách yêu cầu
học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Ví dụ: Khi dạy Bài: Công dân với các quyền tự do cơ bản. Giáo viên
phân công cho mỗi nhóm 1 tình huống được chuẩn bị sẵn ở nhà. Giáo
viên chia lớp thành 5 nhóm ứng với mỗi đơn vị kiến thức trong bài học

Nhóm 1: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm
?

6


Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 4: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được
bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Giải
thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 5: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền tự do
ngôn luận của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị
trước ở nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy
những tình huống mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ
chủ động làm việc theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ
được giáo viên phân tích, đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động
viên khích lệ tinh thần học tập của các em. Khi giảng tới mỗi phần kiến
thức đó, học sinh đại diện cho nhóm mình trình bày trước lớp kết quả
chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ phân tích, giảng giải và
yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy ở một số lớp và
kết quả là các nhóm đều đưa ra được các tình huống phù hợp với nội dung, ví
dụ khi giảng dạy ở lớp 12K.


7


* Tình huống của nhóm 1: “Do nghi ngờ An lấy cắp xe máy của mình
nên Minh đã trình báo với công an xã yêu cầu giải quyết. Dựa vào lời
khai của Minh nên công an xã đã ngay lập tức bắt An”.
Trong tình huống trên công an xã đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân. Cụ thể: Công an xã bắt người khi không có
căn cứ chứng tỏ An là người lấy cắp điện thoại.
Tình huống của nhóm 2: “Phong và Mai cưới nhau đã 2 năm.
Nhưng Phong vốn là người hay nhậu nhẹt. Nay tuy đã có con nhưng
Phong hầu như không làm gì để phụ vợ nuôi con mà vẫn thói nào tật
ấy, say xỉn tối ngày. Đã thế, rượu vào là Phong chửi vợ, có khi Phong
còn đánh đập và đuổi vợ ra khỏi nhà. Nhiều lần Phong còn đe dọa
giết vợ”.
Như vậy, Phong đã xúc phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm của vợ mình.
Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được
pháp luật bảo hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ và quy định thành
nguyên tắc trong bộ luật hình sự nước ta.Quyền này có nghĩa là: Công
dân có quyền được pháp luật bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm phạm tới.
+ Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi
hung hãn, côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe
của người khác…

8



+ Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác
như giết người, đe dọa giết người, làm chết người.
+ Không ai ,dù ở bất cứ cương vị nào có quyền xâm phạm tới danh
dự và nhân phẩm của người khác.Trong xã hội ta, danh dự và nhân
phẩm của cá nhân được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, và nhân phẩm
của công dân đều vừa trái với đạo đức xã hội,vừa vi phạm pháp luật,
phải bị xử lí theo pháp luật.
Tình huống của nhóm 3: “Bị một tên trộm ăn cắp điện thoại, hai
người đàn ông đuổi theo, được một lúc rồi bỗng mất hút, không biết
tên trôm chạy đi đâu. Một người nói: Chắc nó chạy vào nhà ông Tài
rồi, ta vào đó xem đi. Đến trước nhà ông Tài, hai người yêu cầu ông
Tài cho vào khám nhà để tìm tên trộm. Ông Tài không thấy đứa nào
chạy vào đây nên không đồng ý cho hai người vào nhà. Nhưng hai
người cứ xông vào nhà ông Tài khám xét khắp nơi trong nhà.
Trong tình huống trên, hai người đàn ông đã vi phạm pháp luật. Vì
pháp luật quy định không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu
như không được người đó đồng ý. Chỉ trong những trường hợp được
pháp luật cho phép và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mới được khám xét chỗ ở của một người.
Như vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú
của học sinh trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề
thực tiễn. Đây là một phương pháp rất hiệu quả trong vấn đề giảng dạy.
Qua đó, học sinh không những tìm ra được mối liên hệ giữa lí luận và
9


thực tiễn mà còn tăng thêm tính chủ động, sự tìm tòi, khám phá nhằm
lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc tự tạo ra tình huống và giải quyết tình huống của nhóm

mình thì mỗi nhóm có thể tham gia giải quyết tình huống với các nhóm
còn lai bằng việc bổ sung những vấn đề còn thiếu. Như vậy tất cả các
nhóm có thể tham gia được công việc một cách hiệu quả nhất.
2. Cách thức tổ chức thực hiện
Sự thành công của một tiết học phần lớn phụ thuộc vào phương pháp
giảng dạy của giáo viên và việc tích cực tiếp thu bài của học sinh, tuy
nhiên không thể không kể đến cách thức tổ chức lớp học của giáo
viên.Vậy khi sử dụng phương pháp tình huống ta phải tổ chức lớp học
như thế nào để đem lại hiệu quả.
Quy định về các nguyên tắc thực hiện cho học sinh . Một lớp học
không phải tất cả học sinh đều có ý thức tự giác trong học tập nên nếu
không quy định nguyên tắc thực hiện thì những học sinh không tự giác
sẽ không làm việc. Chính vì vậy trong các giờ áp dụng phương pháp tình
huống trong giảng dạy tôi luôn phải đề ra các quy định cho các nhóm cụ
thể là: Tất cả học sinh phải tham gia cùng với nhóm. Nếu là tình huống
được giao chuẩn bị tại nhà thì một bạn đọc tình huống, bạn khác chỉ ra
lý do chọn tình huống trên, các bạn khác giải quyết tình huống. Giáo
viên sẽ hỏi bất cứ lúc nào và hỏi bất kì học sinh nào, nếu học sinh trong
nhóm đó không trả lời được thì cho nhóm khác bổ sung và như vậy
nhóm đó sẽ mất điểm. Quy định như vậy để học sinh thấy được trách
nhiệm của mình đối với nhóm. Ngoài ra giáo viên phải quy định rõ về
10


thời gian làm việc cho từng nhóm để tránh tình trạng học sinh trình bày
lan man, không đảm bảo thời gian cho tiết học.
Ngoài ra đối với những tình huống giáo viên đưa ra, giáo viên nên
để học sinh nghiên cứu tình huống và giải quyết tình huống bằng hàng
loạt các câu hỏi do giáo viên đưa ra. Một tình huống có thể sử dụng
xuyên suốt nội dung bài học hoặc được triển khai ở các bước khác nhau

tuỳ thuộc vào cách đặt câu hỏi của giáo viên. Làm được điều đó chính là
cách để giáo viên cung cấp tính liên kết nội dung bài học.
3. Kết quả thực nghiệm.
- Trong quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 12K và đối
chứng ở lớp 12N. Kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

12K

Điểm
0 - > 3.5 3.5- > 5 5- > 6.5
SL TL SL TL SL TL
50 hs 0
0
0
0 11 22

12N

%
30

50 hs

0

0


4

8%

15

6.5 - > 8 8.0 ->10
SL TL SL TL
25 50 14 28
23

%

%
46
%

8

%
16
%

- Ở lớp 12K các em học sinh đều tỏ ra hứng thú khi học môn GDCD, các
em hăng hái thảo luận những tình huống giáo viên đưa ra và nghiêm túc
chuẩn bị những tình huống giáo viên giao một cách có hiệu quả. Phần
lớn các em nắm vững nội dung cơ bản của bài học.
III/ MỘT VÀI KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP
TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ.


11


Qua thực tiễn giảng dạy môn GDCD tôi nhận thấy sử dụng
phương pháp tình huống là một trong những tích hợp nhiều phương
pháp khác nhau trong quá trình giảng dạy của người giáo viên. Tuy
nhiên đây là phương pháp có nhiều ưu thế trong quá trình thực hiện đổi
mới. Và bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, để có những tình huống hay, mang tính thời sự người
giáo viên phải thường xuyên thu thập các thông tin trên báo chí, phương
tiện thông tin đại chúng hay ở ngay địa phương mình sinh sống nhưng
cần điều chỉnh để phù hợp với nội dung bài học.
Thứ hai, nguồn cung cấp tình huống đa dạng phong phú phải kể
đến học sinh. Học sinh có thể đưa ra được những tình huống sát thực với
thực tế và giáo viên cần điều chỉnh cho phù hợp. Nếu là tình huống hay,
giáo viên nên cộng điểm cho học sinh để khuyến khích, động viên kịp
thời nhằm phát huy được tính tích cực của học sinh.
Thứ ba, phải xây dựng được các tình huống gắn với thực tiễn để
học sinh thảo luận, từ đó học sinh nêu lên kiến thức một cách tự nhiên
mà không lệ thuộc vào sách giáo khoa
Thứ tư, cho học sinh thảo luận để tạo ra các tình huống liên quan
đến nội dung bài học nhằm rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức đã
học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cuối cùng, sau khi học sinh đưa ra các tình huống, giáo viên yêu
cầu học sinh nghiêm túc thảo luận tình huống mình nêu, các nhóm khác
theo dõi, bổ sung. Kết quả trình bày tình huống phải được giáo viên
nhận xét, đánh giá (có thể cho điểm hoặc không). Đồng thời, phải rút
12



kinh nghiệm về tinh thần, thái độ làm việc của từng nhóm, từng thành
viên.
C/ KẾT LUẬN
Qua thực tiễn cùng với một số kinh nghiệm tích lũy được trong
suốt quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã bước đầu thu nhận được
những kết quả đáng mừng từ việc vận dụng một cách linh hoạt
phương pháp tình huống theo cách riêng của mình khi giảng dạy một
số bài trong chương trinh GDCD lớp 12
Bằng việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước, học sinh phải tự tìm
hiểu , thâm nhập thực tiễn đầy sinh động đang diễn ra hàng ngày, học
sinh có thể tự rèn luyện cho mình khả năng phân tích, đặc biệt là khả
năng ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Đây cũng là mục
đích, yêu cầu sư phạm của môn học này.
Tuy nhiên nếu người giáo viên không linh hoạt, nhạy bén khi sử
dụng phương pháp này phù hợp thì bài giảng sẽ trở nên khô khan, khó
hiểu như vốn dĩ người ta vẫn nhận xét về môn học này, các kiến thức
sẽ mang tính hàn lâm, kinh viện, tồn tại trên cơ sở lí thuyết suông.
Mặt khác, học trò sẽ không có những bước bứt phá ra khỏi tính thụ
động, tiếp thu bài một cách máy móc, kém hiệu quả. Xuất phát từ
thực tiễn trên, tôi luôn luôn tìm tòi các phương pháp dạy học phù hợp
để giúp cho học sinh hứng thú với bộ môn và tiếp thu bài một cách tốt
nhất. Tuy nhiên đây mới chỉ là những kinh nghiệm bước đầu nên
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của các bạn
13


đồng nghiệp để cho kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn. Tôi xin
chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG


Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2013

ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Tác giả

Phạm Thị Tươi

14


15



×