ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN THANH GIANG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO
ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn: GS.TS. Hoàng Chí Bảo
Hà nội - 2006
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNTB:
Chủ nghĩa tư bản
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CHXHKH:
Chủ nghĩa xã hội khoa học
CSCN:
Cộng sản chủ nghĩa
CĐ:
Cao đẳng
CNH,HĐH:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CTQG:
Chính trị quốc gia
ĐH:
Đại học
ĐH & CĐ:
Đại học và cao đẳng
GVLLCT:
Giảng viên lý luận chính trị
GVC:
Giảng viên chính
GS:
Giáo sư
HSSV:
Học sinh sinh viên
LLCT:
Lý luận chính trị
Nxb:
Nhà xuất bản
PGS:
Phó giáo sư
TBCN:
Tư bản chủ nghĩa
TS:
Tiến sỹ
ThS:
Thạc sỹ
SV:
Sinh viên
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
1
MỤC LỤC
Mở đầu...................................................................................................................
3
Chương 1. Đặc điểm và vai trò của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các
trường đại học, cao đẳng.........................................................................
10
1.1.
1.2.
Đặc điểm của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường
đại học, cao đẳng................................................................................
10
Vai trò của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học,
cao đẳng..................................................................................................
22
Chương 2. Thực trạng xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chí nh trị các
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội hiện
nay.........................
2.1.
2.2.
Đặc điểm của địa bàn Hà Nội đối với sự phát triển của đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng......................
nay.............
3.2.
37
Thực trạng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các trường đại học,
cao đẳng.............................................................................................. 44
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chí nh
trị các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội hiện
3.1.
37
Những yêu cầu và mục tiêu của việc xây dựng đội ngũ giảng viên
lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà
Nội hiện nay........................................................................................
Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
hiện nay...............................................................................................
Kết
65
65
70
82
luận..................................................................................................................
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................
84
Phụ
lục....................................................................................................................
90
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã khẳng định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí nền tảng tư tưởng và là kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta, mà không có một luận
thuyết nào có thể thay được.
Ngày nay, để tiến tới mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong bối cảnh quốc tế có nhiều
phức tạp, nhiệm vụ làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của toàn Đảng, toàn dân là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đó còn là một cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng để khẳng định vị trí, sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong đời sống xã hội.
Gần đây, lợi dụng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, các thế lực thù địch đang điên cuồng chống phá sự nghiệp cách
mạng của chúng ta bằng nhiều hình thức với những chiêu bài, thủ đoạn thâm
độc, hòng làm tan rã hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, xoá bỏ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm mất niềm tin của nhân dân với Đảng,
với con đường cách mạng chọn.
Hội nghị Trung ương lần thứ 12 khoá IX đã nhất trí đánh giá tổng quát
tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân ta hiện nay cơ bản vẫn diễn
ra như nhận định của Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về nhiệm vụ chủ yếu
của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Đó là: “Mặt tích cực và
tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định
chiều hướng phát triển của xã hội, là nhân tố quan trọng tạo nên thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước; tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất
nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên quan đến sự mất còn của Đảng
3
của chế độ”. Hội nghị cũng chỉ ra 6 nhiệm vụ chủ yếu và 7 giải pháp về công
tác tư tưởng, lý luận. Trong đó, nhiệm vụ thứ hai nhấn mạnh: “Nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác truyên truyền, giáo dục LLCT, tạo sự thống nhất
cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân”. Nhận định này liên
quan trực tiếp tới công tác giảng dạy lý luận chính trị trong các trường ĐH &
CĐ ở nước ta hiện nay.
Trong công tác giáo dục và đào tạo ở các trường ĐH & CĐ những năm
gần đây, bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng nổi lên một vấn đề công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên thông qua các môn
LLCT chưa đạt được chất lượng và hiệu quả như mong muốn.
Thực tế cho thấy, một bộ phận sinh viên có biểu hiện suy thoái đạo
đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập
thân, lập nghiệp... Vì vậy, trong chiến lược đào tạo toàn diện của các trường
ĐH & CĐ ở nước ta hiện nay, bên cạnh việc quan tâm nâng cao chất lượng
đào tạo chuyên môn, thì các môn LLCT cũng cần phải được coi trọng hơn
nhằm nâng cao ý thức chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.
Để nâng cao được chất lượng giảng dạy và học tập các môn LLCT trong các
trường ĐH & CĐ cần thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp và phương tiện dạy học... Tuy nhiên, hiệu quả, tác dụng của việc đổi
mới đó lại phụ thuộc chủ yếu ở đội ngũ giảng viên. Đây là khâu then chốt,
quyết định nhất để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa
học này trong các trường ĐH & CĐ.
Địa bàn Hà Nội, nơi tập trung đông đảo các trường ĐH & CĐ, là trung
tâm khoa học và văn hoá của cả nước. Phát triển giáo dục và đào tạo ở Hà Nội
là cơ sở, điều kiện để mở rộng phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo ra cả
nước. Đội ngũ GVLLCT ở các trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội trong
thời gian qua đã có những đóng góp tích cực vào việc đào tạo thế hệ thanh
niên cách mạng cho đất nước, xứng đáng với vị thế và trọng trách của mình ở
4
Thủ đô anh hùng. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ GVLLCT trong các trường ĐH
& CĐ trên địa bàn Hà Nội còn có những bất cập, chất lượng và hiệu quả
giảng dạy chưa cao, thiếu hụt về số lượng, nhất là thiếu những nhà khoa học
đầu ngành. Đội ngũ cán bộ có trình độ cao phần đông đều đã lớn tuổi, đang có
nguy cơ hụt hẫng nghiêm trọng lực lượng kế cận,... Trong thời gian tới, khi
quy mô giáo dục ĐH tăng lên, hệ thống các trường ĐH & CĐ tiếp tục được
mở rộng và đặc biệt do nhu cầu phải nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học
thì đội ngũ GVLLCT nước ta nói chung, ở địa bàn Hà Nội nói riêng càng cần
phải tăng nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng chuyên môn và nghiệp vụ.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc xây dựng đội ngũ GVLLCT ở các
trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội hiện nay là vấn đề cấp thiết được đặt
ra. Bởi vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu này làm đề tài luận văn thạc
sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đội ngũ GVLLCT là một bộ phận cấu thành của tầng lớp trí thức Việt
Nam, một bộ phận quan trọng cùng với giai cấp công nhân và nông dân là lực
lượng nòng cốt trong sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Đã có
khá nhiều học giả, nhà khoa học xem xét, nghiên cứu vị trí vai trò của đội ngũ
này trên các bình diện khác nhau. Như: Phạm Tất Dong (chủ biên), “Trí thức
Việt Nam thực tiễn và triển vọng”, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995; Đỗ Mười, “Trí
thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước”, Nxb. CTQG, Hà Nội,
1995; Đặng Ngọc Dinh (chủ biên), “Thực trạng đội ngũ trí thức khoa học và
công nghệ trong biên chế Nhà nước”, Hà Nội,1998; Các tác giả: Nguyễn Duy
Thông, Vũ Cao Đàm, Nguyễn Trọng Chuẩn, “Chủ nghĩa xã hội và trí thức”,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984; Phan Thanh Khôi, “Đội ngũ trí thức, chuyên gia
và cán bộ quản lý khoa học - Thực trạng và giải pháp”, đề tài KX 05 - 03, Hà
Nội, 4-1998... Những công trình khoa học này đã tập trung làm rõ vai trò,
5
nhiệm vụ của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, khẳng định
phát triển đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ quan trọng, cần được ưu tiên.
Cùng với các công trình nêu trên, trong thời gian qua cũng đã có nhiều
luận án, luận văn viết về đề tài trí thức. Đó là: Phan Thanh Khôi, “Động lực
trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay”, luận án TS triết học,
1992; Phạm Văn Sơn, “Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở nước
ta hiện nay”, luận án TS triết học, 2000; Nguyễn Thanh Tuấn, “Đặc điểm và
vai trò đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”, luận án
TS triết học, 1995; Nguyễn Thị Phương Linh, “Vị trí, vai trò của đội ngũ trí
thức nữ trong các trường ĐH & CĐ ở TP. Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”,
luận văn ThS. Triết học, 1999... Nhìn chung, các đề tài này đã đề cập đến các
mặt, những khía cạnh khác nhau của trí thức Việt Nam với nghĩa là lực lượng
giữ vai trò quyết định chất lượng của nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH nước ta.
Đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu đầy đủ về đội ngũ GVLLCT ở
các trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội. Hiện tại, chúng tôi tìm hiểu được
những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này là: “Phát huy nhân tố
con người - xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh ở Đại học Thái Nguyên hiện nay” của Nguyễn Trường Kháng, luận
văn ThS. Triết học, 1999. Luận văn đã làm rõ việc xây dựng đội ngũ giảng
viên lý luận Mác-Lênin ở Đại học Thái Nguyên từ hướng tiếp cận về nhân tố
con người. Tiếp đó, đề tài: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” của Phạm Văn Thanh, luận án
TS triết học, 2001. Luận án đã nghiên cứu về đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin một cách rộng rãi trên phạm vi cả nước. Bước đầu khái quát chung về
tình hình hoạt động và đề xuất những giải pháp mang tính định hướng, vĩ mô
để xây dựng và phát triển đội ngũ này.
6
Các công trình nghiên cứu trên đây, giúp chúng tôi có cái nhìn tổng thể
vị trí vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và đội ngũ GVLLCT
nói riêng làm sở cho nghiên cứu mới: “Xây dựng đội ngũ GVLLCT các
trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội hiện nay” nhằm góp phần xây dựng
hoàn thiện đội ngũ này ở một địa bàn quan trọng là thủ đô Hà Nội. Dưới góc
độ chuyên ngành CNXHKH, luận văn tập trung khai thác khía cạnh đội ngũ
GVLLCT và không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của đề tài:
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng đội ngũ GVLLCT trong các
trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải
pháp cơ bản để xây dựng, phát triển đội ngũ này, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục LLCT, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH thủ đô và
đất nước giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Để đạt mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Làm rõ các khái niệm LLCT, đội ngũ GVLLCT, đặc điểm và vai trò
của họ.
- Chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của những mặt mạnh, mặt yếu của đội
ngũ này trong các trường ĐH & CĐ ở địa bàn Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ GVLLCT trong các
trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ GVLLCT trực tiếp làm
công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các trường ĐH & CĐ trên địa bàn
Hà Nội.
7
8
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ GVLLCT đang trực tiếp
giảng dạy ở các trường ĐH & CĐ và các học viện có đào tạo đại học trên địa
bàn Hà Nội. Luận văn không nghiên cứu đội ngũ giảng viên này ở các trường
thuộc lực lượng vũ trang, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề,
các trường Đảng.
- Luận văn chỉ tập trung khảo sát hoạt động của đội ngũ GVLLCT các
trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội ở phạm vi giảng dạy cho sinh viên,
không nghiên cứu hoạt động của họ trong giảng dạy với đối tượng học viên
cao học, nghiên cứu sinh.
- Về thời gian, luận văn chủ yếu khảo sát từ giai đoạn nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về trí
thức, về đội ngũ GVLLCT.
- Luận văn tham khảo và kế thừa có chọn lọc những thành quả của các
tác giả và các nhà khoa học đi trước về những vấn đề liên quan.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình đội ngũ trí thức nói chung và
GVLLCT các trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội nói riêng; tình hình giáo
dục ĐH & CĐ nói chung và tình hình giảng dạy các môn LLCT ở các trường
ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
- Thực hiện luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp những tài liệu có được gắn với thống kê, so sánh, đối chiếu làm rõ
thực trạng đội ngũ GVLLCT. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng một số
9
phương pháp khác, như: hệ thống hóa, khái quát hoá; lôgíc - lịch sử và
phương pháp khác để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp về mặt khoa học:
Góp phần xác định rõ khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm và hoạt động
của của đội ngũ GVLLCT trong các trường ĐH & CĐ trên địa bàn Hà Nội.
Góp phần làm rõ thực trạng của đội ngũ GVLLCT các trường ĐH &
CĐ trên địa bàn Hà Nội trong tình hình hiện nay.
Đề xuất được những giải pháp chủ yếu xây dựng, phát triển đội ngũ
GVLLCT trong giai đoạn hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn đem lại một tài
liệu tham khảo cho giảng dạy một số chuyên đề của chuyên ngành CNXHKH
về trí thức, con người, nguồn lực con người.
Luận văn đồng thời là một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVLLCT các trường ĐH & CĐ trên địa
bàn Hà Nội giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
10
Chương 1
ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
1.1. Đặc điểm đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các trường đại
học, cao đẳng
1.1.1. Lý luận chính trị
Lý luận chính trị là một khái niệm khoa học được dùng với nhiều hàm
nghĩa khác nhau:
- Là nội dung khoa học có trong toàn bộ, chỉnh thể chủ nghĩa MácLênin và trong những bộ phận hợp thành của chủ nghĩa đó, đặc biệt là chủ
nghĩa xã hội khoa học.
- Là nội dung khoa học của các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được nghiên cứu và giảng dạy trong các nhà trường ở nước ta.
- Là lý luận chính trị học và các khoa học chính trị.
- Là hệ thống các quan điểm LLCT thể hiện trong đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản cầm quyền, thể hiện trong các văn kiện của Đảng ta.
Trong luận văn này, LLCT được quan niệm với nghĩa xác định trực tiếp
sau đây:
Là khái niệm chỉ nội dung dạy học các môn lý luận bắt buộc trong các
trường ĐH, CĐ, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, gồm: Các môn khoa
học Mác-Lênin, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng ta biết rằng, Chủ nghĩa Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ
XIX. Không phải ngay từ đầu nó đã có tên như vậy, mà phải đến những năm
80 của thế kỷ đó người ta mới thấy xuất hiện thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác”, và
sau này gọi là “Chủ nghĩa Mác-Lênin” vào những năm 20 của thế kỷ XX [65,
tr.508]. Khi gọi là “Chủ nghĩa Mác” đã có nhiều người hỏi vì sao học thuyết
11
chỉ mang tên C.Mác trong khi tên tuổi sự nghiệp và tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen luôn gắn chặt với nhau, từ những ngày đầu các ông bắt đầu tham
gia hoạt động trong phong trào vô sản. Đã có lần Ph.Ăngghen giải thích rõ
điều đó. Ông viết: “Nếu không có Mác thì lý luận thật khó mà được như ngày
nay. Vì vậy, lý luận đó mang tên của Mác là điều chính đáng” [39, tr.428].
Câu nói đó, thể hiện sự khiêm nhường của Ph.Ăngghen đối với C.Mác người bạn vô cùng gắn bó, thân thiết và có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Ph.Ăngghen. C.Mác là một thiên tài
trong sự không tách rời với những cống hiến xuất sắc của Ph.Ăngghen đã làm
nên thiên tài đó. Cũng như vậy, tài năng lỗi lạc kiệt xuất trên nhiều phương
diện của Ph.Ăngghen được hình thành và phát triển trong mối liên hệ mật
thiết với C.Mác. Chủ nghĩa Mác là sản phẩm vĩ đại của trí tuệ nhân loại ở thế
kỷ XIX được xây dựng nên bởi hai người: C.Mác và Ph.Ăngghen - những bộ
óc vĩ đại, những nhân cách vĩ đại của loài người mà tư tưởng của họ có ảnh
hưởng và sức sống bất diệt, vượt qua thử thách của thời gian.
V.Lênin - người đã truyền bá Chủ nghĩa Mác vào nước Nga, đã vận
dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác vào cuối thế kỷ XIX đến những
năm 20 của thế kỷ XX, người đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng
10 Nga năm 1917, khai sinh ra CNXH hiện thực, vạch ra thời đại mới trong
lịch sử.
Thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin”, là thuật ngữ chỉ lý luận của Mác,
Ăngghen và Lênin với tư cách là một hệ thống khoa học hoàn chỉnh bao gồm
những quan điểm, nguyên lý về: Triết học, kinh tế, chính trị, văn hoá trên lập
trường và phương pháp duy vật biện chứng sâu sắc và triệt để nhất. Mặt khác,
thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” còn bao hàm ý nghĩa nhấn mạnh đến sự
đóng góp, kế tục và phát triển sáng tạo của Lênin vào chủ nghĩa Mác. Trong
tác phẩm “Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin” (năm 1924) của I.V.Xtalin
viết: “Chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và
12
cách mạng vô sản”, là sự tiếp tục sáng tạo “phát triển chủ nghĩa Mác trong
những điều kiện mới” [69, tr.6].
Ở nước ta, khái niệm “Chủ nghĩa Mác” được Nguyễn Ái Quốc sử dụng
lần đầu tiên vào những năm 1924 - 1925. Đến năm 1927, trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”, Người dùng thuật ngữ “Chủ nghĩa Lênin”. Lý giải cho
cách dùng từ như vậy, Người viết: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung
“cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu
mới mà Mác ở thời mình không thể có được” [45, tr.465]. Về sau này, trong
các tác phẩm của Hồ Chí Minh và trong các Văn kiện của Đảng ta thường sử
dụng thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin”. Cũng kể từ đó, thuật ngữ “chủ nghĩa
Mác-Lênin” được dùng một cách quen thuộc và rộng rãi ở nước ta cho đến
nay.
Quan hệ giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin và CNXHKH được hiểu theo cả
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Trong các sách báo khoa học Mácxít quan niệm Chủ
nghĩa Mác-Lênin vừa với nghĩa là một hệ thống gồm ba bộ phận Triết học,
Kinh tế, CNXHKH vừa với nghĩa là CNXHKH.
Quá trình hình thành phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin cho thấy, đó
không phải là một học thuyết cứng nhắc, bất biến, mà là học thuyết không
ngừng tự đổi mới, tự phát triển trong quá trình vận động của lịch sử. Xét theo
tinh thần biện chứng, toàn bộ học thuyết, chủ nghĩa Mác-Lênin có giá trị bền
vững, được xây dựng trên tinh thần cách mạng, với những căn cứ khoa học.
Các luận điểm được đúc rút mang ý nghĩa phổ biến, được khái quát từ thực
tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và
tri thức lý luận trên nhiều lĩnh vực khác nhau, được kiểm nghiệm, bổ sung và
phát triển bởi thực tiễn. Vì lẽ đó, chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một hệ thống
lý luận mang tính cách mạng và tính khoa học sâu sắc.
13
Chủ nghĩa Mác-Lênin, với tư cách là một khoa học, một hệ thống lý
luận khoa học, nó được hợp thành bởi các bộ phận cơ bản: Triết học MácLênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin và CNXHKH.
Việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin có nhiệm vụ cơ bản là:
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa MácLênin, chỉ ra các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học và lý luận cho
sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận hợp thành chủ yếu của nó;
chỉ ra được sự khác nhau căn bản về nội dung của chủ nghĩa Mác-Lênin với
các học thuyết trước đó mà nó kế thừa; chỉ ra được các giai đoạn phát triển
của nó từ khi ra đời cho đến nay.
- Tiếp tục nghiên cứu để khẳng định những giá trị khoa học bền vững
của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa và phát triển những giá trị khoa học đó để
vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh cụ thể trong những điều kiện lịch sử mới.
Nhiệm vụ này trước hết thuộc về ba bộ môn khoa học cơ bản hợp thành chủ
nghĩa Mác-Lênin:
Triết học Mác-Lênin “giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy” [27, tr.19].
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin nghiên cứu “quan hệ sản xuất xã hội
trong mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến
trúc thượng tầng (…), đi sâu vạch rõ bản chất của các hiện tượng và quá trình
kinh tế, để rút ra quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng,
tức là rút ra quy luật kinh tế của sự vận động xã hội” [28, tr.29].
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu “các quy luật chính trị - xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa, những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, những con đường
14
và hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để
thực hiện sự chuyển biến từ CNTB lên CNXH và CNCS” [30, tr.25].
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết của hành động, học thuyết
“cải tạo thế giới”, học thuyết đó được các Đảng Cộng sản vận dụng giải quyết
nhiệm vụ cách mạng - thực tiễn ở nước mình, ở đó học thuyết Mác-Lênin tiếp
tục được phát triển một cách sáng tạo. Nước ta, trải qua quá trình vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng đã dần tích luỹ tri
thức, hình thành các bộ môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ
Chí Minh,... là những khoa học độc lập, cùng với ba bộ phận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin tạo thành nội dung giảng dạy LLCT trong các trường ĐH & CĐ.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một ngành của khoa học lịch sử
nghiên cứu quy luật ra đời, phát triển và trưởng thành của bản thân Đảng
Cộng sản Việt Nam; nghiên cứu, nắm vững một cách có hệ thống những quan
điểm, đường lối cách mạng của Đảng ta trên cơ sở nhận thức và vận dụng
sáng tạo lý luận Mác-Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam và toàn bộ phong
trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Lịch sử Đảng
“phản ánh quá trình Đảng vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực
tiễn Việt Nam, đồng thời cũng là quá trình Đảng tổng kết thực tiễn cách mạng
Việt Nam để phát triển và làm phong phú thêm lý luận đó” [29, tr.12-13].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ môn mới ra đời, có đối tượng nhiệm
vụ nghiên cứu riêng, có nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu làm rõ: Nguồn gốc, quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh; nội dung bản chất
cách mạng và khoa học, đặc điểm của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng
với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò nền tảng, kim
chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam. Giá trị tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại. Từ đó
vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn các h
mạng Việt Nam.
15
Từ sự trình bày trên đây, chúng ta có cái nhìn toàn diện về nội dung
giảng dạy LLCT ở các trường ĐH & CĐ. Nội dung đó bao gồm: Ba bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tuỳ theo trình độ đào tạo và ngành đào tạo, các môn
LLCT được giảng dạy ở các trường ĐH & CĐ với thời lượng giảng dạy, kết
cấu nội dung và chương trình khác nhau. Tất cả các môn học đó có một tên
gọi chung là các môn LLCT.
Nội dung các môn học đó quy định số lượng, cơ cấu đội ngũ GVLLCT.
Ở đây có một vấn đề về thuật ngữ: Tại sao không dùng khái niệm đội ngũ
giảng viên Mác-Lênin, mà lại dùng khái niệm GVLLCT? Chúng ta biết rằng:
Chính trị là lĩnh vực của các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là phạm
vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn xã hội, hay quốc
gia dân tộc, mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền
nhà nước. Hoạt động chính trị ở xã hội ta từ khi có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và ý thức hệ của giai cấp công nhân đứng trên lập trường của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hay nói cách khác là lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động. Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
tư tưởng chính thống cho hoạt động chính trị, là mặt lý luận chung cho hoạt
động chính trị của xã hội ta. Những người giảng dạy, truyền bá hệ tư tưởng đó
cho học sinh, sinh viên được gọi chung là GVLLCT. Khái niệm GVLLCT
còn bao quát cả đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu LLCT trong hệ thống
các trường Đảng, các trường đoàn thể, quân đội ở nước ta.
1.1.2. Quan niệm về đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các trường
đại học, cao đẳng
Để chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cần có một đội ngũ cán bộ nghiên
cứu, vận dụng, giảng dạy, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
16
Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong toàn Đảng, toàn
xã hội. Đội ngũ này gồm nhiều loại: Các cán bộ nghiên cứu; các cán bộ giảng
dạy trong hệ thống các trường học; các cán bộ tuyên truyền trong các cơ quan
đoàn thể trong hệ thống chính trị (như đội ngũ báo cáo viên, cán bộ tuyên
huấn).
Theo Luật Giáo dục nước ta, những người làm công tác giáo dục, giảng
dạy tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên. Những người làm công tác giáo dục, giảng dạy trong
các trường đại học, cao đẳng được gọi là giảng viên. Mỗi giảng viên lại được
đào tạo và giảng dạy một môn học cụ thể. Do đó có các tên gọi: giảng viên
toán, giảng viên văn, giảng viên triết học,... Và, chúng ta có khái niệm
GVLLCT.
Thuật ngữ “đội ngũ” được hiểu là tập hợp những người có đặc điểm
hoạt động, có chức năng riêng được tổ chức thành một lực lượng xã hội.
Giảng viên là những người làm công tác giảng dạy ở trường ĐH & CĐ. LLCT
như đã nói ở phần trên, bao gồm: Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối chính sách của Đảng và
nhà nước. Vì vậy, đội ngũ GVLLCT là tập hợp những người làm công tác
nghiên cứu, giảng dạy và giáo dục LLCT ở các trường ĐH & CĐ, được tổ
chức thành một lực lượng hoạt động theo mục đích đề ra.
Giảng viên LLCT các trường ĐH & CĐ là một bộ phận cấu thành đội
ngũ trí thức ngành khoa học Mác-Lênin, đồng thời là một bộ phận của đội
ngũ giảng viên các trường ĐH & CĐ thực hiện nhiệm vụ giáo dục LLCT ở
các trường ĐH & CĐ.
Công tác giáo dục LLCT được Đảng ta thường xuyên quan tâm, coi đó
là trọng tâm trong công tác tư tưởng của Đảng. Thực hiện quan điểm đó, giáo
dục LLCT trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong các trường
17
ĐH & CĐ. Trong các trường ĐH & CĐ giáo dục LLCT được chúng ta đã tiến
hành một cách đồng thời cùng với giáo dục các khoa học chuyên ngành, trau
dồi các tri thức chuyên môn nghề nghiệp cho sinh viên. Mục tiêu giáo dục ở
các nhà trường ĐH & CĐ là đào tạo ra những cán bộ khoa học trẻ không chỉ
giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn tốt cả về phẩm chất chính trị, tư tưởng
và đạo đức..., đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, theo định
hướng XHCN.
Giáo dục LLCT trong các trường ĐH & CĐ là một quá trình nhằm
trang bị những kiến thức khoa học về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước cho sinh viên. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, nhân sinh
quan và phương pháp luận khoa học cho sinh viên.
Nhiệm vụ của giáo dục LLCT là nâng cao phẩm chất cách mạng, trình
độ chính trị, năng lực vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn; năng lực tổ chức và
hoạt động thực tiễn của mỗi người để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Thực tiễn cho thấy, giáo dục LLCT trở thành một bộ phận quan trọng
không thể thiếu trong đào tạo ĐH & CĐ, góp phần đào luyện nhân cách người
cán bộ có trình độ ĐH & CĐ ở nước ta. Để nâng cao chất lượng của giáo dục
LLCT, trước hết và cần phải xây dựng đội ngũ GVLLCT. Đây là quá trình
làm cho đội ngũ này trở thành một lực lượng đủ mạnh theo một phương
hướng nhất định, để đội ngũ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
1.1.3. Đặc điểm của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các trường
đại học, cao đẳng
Đội ngũ GVLLCT cũng có đầy đủ những đặc trưng của trí thức Việt
Nam, như: Giàu lòng yêu nước, gắn bó với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có tâm huyết với sự nghiệp cách mạng, có năng lực sáng tạo và
18
tiếp thu khoa học và công nghệ mới... Tuy nhiên, do đặc thù của lĩnh vực hoạt
động quy định nên đội ngũ GVLLCT còn có một số đặc điểm riêng. Tổng hợp
ý kiến từ các hội thảo khoa học và các tài liệu nghiên cứu từ nhiều nguồn
khác nhau có độ tin cậy cao và bằng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia,
chúng tôi đúc kết được các đặc điểm sau đây của đội ngũ GVLLCT:
- Một là, đội ngũ GVLLCT là những người có năng lực về tư duy trừu
tượng, khái quát:
Khoa học nào cũng có lý luận, lý thuyết của nó thể hiện trong hệ thống
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. LLCT với tư cách là khoa học, là
một tập hợp các môn khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh càng thể hiện nội bật ở nội dung lý luận của nó, hơn nữa, đó là sự thống
nhất hữu cơ giữa lý luận với phương pháp luận, với phương pháp, giữa thế
giới quan, phương pháp luận, hệ tư tưởng, đặc biệt là trong triết học.
Khoa học LLCT đòi hỏi tư duy trừu tượng và khái quát cao. Bởi vậy,
giảng viên của những môn học này nhất thiết phải là những người có khả
năng về tư duy trừu tượng và khái quát. Đây là cơ sở cho việc nắm vững sâu
sắc hệ thống tri thức khoa học lý luận thông qua hệ thống khái niệm, phạm
trù, nguyên lý, quy luật. Bên cạnh đó, để nắm vững sâu sắc hệ thống tri thức
lý luận, ngoài khả năng tư duy trừu tượng và khái quát còn phải có phương
pháp tư duy biện chứng, bởi vì chính nghề nghiệp của họ có chức năng hình
thành phương pháp luận duy vật biện chứng cho sinh viên. Tri thức LLCT chỉ
được chứng minh và làm sáng tỏ khi tri thức đó gắn bó với thực tiễn sinh
động, gắn bó với các khoa học khác làm cơ sở. Vì vậy, đội ngũ giảng viên này
còn phải có vốn sống thực tế phong phú đa dạng, trình độ học vấn với kiến
thức liên ngành, sâu rộng về nhiều lĩnh vực.
- Hai là, đội ngũ GVLLCT ở các trường ĐH & CĐ có đạo đức cách
mạng, phẩm chất chính trị, bản lĩnh chính trị và khoa học vững vàng.
19
Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng là một trong những tiêu chuẩn
đòi hỏi mỗi giảng viên trong các trường phải không ngừng nâng cao để trở
thành người giảng viên tốt. Đạo đức cách mạng như Bác Hồ đã dạy: đó là sự
quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đây là điểm cốt lõi
nhất trong đạo đức cách mạng của bất kỳ người cán bộ nào.
Đối với người GVLLCT, đạo đức cách mạng đòi hỏi càng cao hơn, bởi
vì họ không chỉ là giảng viên khoa học, có nhiệm vụ giáo dưỡng cho HSSV
các tri thức khoa học lý luận mà còn là người tuyên truyền chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước, giảng dạy niềm tin, hình thành lý tưởng, lẽ sống,
chuẩn mực đạo đức cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách mạng của người GVLLCT
biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp - say mê giảng dạy, say mê nghiên cứu;
là sự trung thành với khoa học, ở đây là với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; là sự vững vàng trên lập trường giai cấp công nhân, tin tưởng
vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Đạo đức
cách mạng của người GVLLCT vừa chứa đựng cả trí tuệ khoa học, tình cảm
cách mạng, đạo đức phẩm chất và nhân cách đồng thời còn là ý thức và bảo
hành chính trị.
Phẩm chất khoa học và chính trị của người GVLLCT trong các trường
ĐH & CĐ biểu hiện ở sự truyền đạt trung thực, chính xác nội dung LLCT cho
sinh viên; hướng dẫn cho sinh viên phương pháp nhận thức chân lý khoa học,
trên cơ sở đó họ có thể vận dụng sáng tạo lý luận vào đời sống thực tiễn một
cách hiệu quả nhất.
Bản lĩnh chính trị của người GVLLCT thể hiện ở sự nhạy cảm về tình
hình chính trị, sắc sảo trong phân tích khoa học, đánh giá đúng bản chất
những hiện tượng chính trị - xã hội mới xuất hiện của đời sống hàng ngày ở
trong và ngoài nước, từ đó có định hướng cho bản thân mình trong cuộc đấu
tranh gay go và phức tạp chống kẻ thù trên mặt trận tư tưởng hiện nay. Trong
20
giảng dạy phải kết hợp nhuần nhuyễn LLCT với tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội sinh động ở trong nước và thế giới.
Bản lĩnh chính trị dựa trên lập trường của giai cấp công nhân của mỗi
người GVLLCT là cái gốc cơ bản để họ hoàn thành nhiệm vụ được giao trong
bất kỳ tình huống khó khăn nào thể hiện tính nhất quán về quan điểm, tính
nguyên tắc trong cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị hiện nay để bảo vệ Đảng,
bảo vệ CNXH. Bản lĩnh khoa học của người GVLLCT thể hiện ở năng lực
hoạt động sáng tạo, sự trung thực, có chính kiến khoa học, không lẩn tránh
những vấn đề phức tạp và tế nhị của cuộc sống.
- Ba là, đội ngũ GVLLCT các trường ĐH & CĐ có năng lực và phẩm
chất của nhà giáo, nhà khoa học và nhà chính trị:
Đội ngũ GVLLCT các trường ĐH & CĐ, họ vừa là nhà giáo, nhà khoa
học, đồng thời là nhà chính trị. Cũng như những người giảng viên khác,
GVLLCT có nhiệm vụ chính là giảng dạy các môn LLCT. Do đặc điểm
chuyên môn là một môn lý luận, kiến thức liên quan rộng rãi đến nhiều lĩnh
vực của cuộc sống, liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau, nên
GVLLCT phải là những người giỏi về nghệ thuật sư phạm, giỏi về khả năng
diễn thuyết. Họ phải là một nhà sư phạm thực thụ. Mặt khác, là GVLLCT,
nhất là những giảng viên có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, phải tiến hành nghiên cứu
khoa học ở lĩnh vực LLCT và phương pháp giảng dạy làm sáng tỏ những vấn
đề LLCT, nhất là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong đường
lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. GVLLCT trong các trường ĐH
& CĐ phải là những nhà khoa học gắn liền công tác giảng dạy với công tác
nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, do sự gắn bó giữa trí dục và đức dục, bản thân
hoạt động giảng dạy LLCT đã mang tính giáo dục, tuyên truyền nền tảng tư
tưởng của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên đội ngũ
GVLLCT không chỉ là những nhà giáo, những nhà khoa học, mà họ còn là
chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng chính trị, nhất là trong tình hình
21
hiện nay. Cùng với đó, GVLLCT còn có nhiệm vụ làm công tác tư tưởng,
chính trị trong cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên các trường ĐH
& CĐ thông qua các phong trào của nhà trường. Kết hợp hoạt động chuyên
môn với hoạt động chính trị - xã hội, thể hiện mình là nhà chính trị.
Đội ngũ Giảng viên LLCT vừa là nhà giáo dục, nhà khoa học, đồng
thời là nhà chính trị đó là đặc điểm nổi bật nhất của đội ngũ này so với giảng
viên các chuyên ngành khác trong các trường ĐH & CĐ. Cần lưu ý là: Đã là
nhà giáo, nhà khoa học trong các trường ĐH & CĐ thì bất luận ở lĩnh vực
chuyên môn nào (kể cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội
và nhân văn…) người thầy giáo cũng phải chú trọng giáo dục đạo đức, rèn
luyện nhân cách cho sinh viên. Là trí thức cách mạng, họ càng phải không
ngừng rèn luyện trong thực tiễn, gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc và nhân dân. Do đó, họ càng là nhà chính trị. Song
những tố tất chất này phải được kết hợp nhuần nhuyễn, não luyện nhất ở
người GVLLCT.
- Bốn là, đội ngũ GVLLCT có đối tượng sinh viên thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau:
Trong chương trình đào tạo ở các trường ĐH & CĐ, các môn LLCT là
môn học bắt buộc đối với sinh viên của các chuyên ngành. Ngày 23 tháng 02
năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 02/2004/QĐ-BGD&ĐT,
Trong đó, tại Điều 13 nêu rõ: “Sinh viên các trường đại học, cao đẳng hệ
chính quy phải thi cuối khoá các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh”. Chính vì vậy, GVLLCT có đối tượng sinh viên rất đông đảo từ nhiều
chuyên ngành khác nhau, các hệ đào tạo khác nhau. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ giảng dạy của mình, người GVLLCT đã phải không ngừng phấn đấu học
tập, trau rồi về chuyên môn và mở rộng vốn kiến thức khoa học liên ngành.
Mỗi khi đứng giảng trước một đối tượng sinh viên, người GVLLCT có thể lựa
chọn phương pháp giảng dạy phù hợp, có thể lấy ví dụ, liên hệ với tri thức
22
chuyên ngành của sinh viên hoặc mở rộng đến những vấn đề khác trong cuộc
sống,... từ đó bài giảng thêm sinh động, làm cho sinh viên có được sự hứng
thú học tập và tiếp thu những tri thức lý luận tốt hơn. Cũng chính vì có nhiều
đối tượng sinh viên, nên đã hình thành ở người GVLLCT khả năng tương đối
nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý sinh viên để kịp thời điều chỉnh tốt nhất.
Trên đây là những đặc điểm của đội ngũ GVLLCT, được hình thành do
những điều kiện đặc thù trong lĩnh vực hoạt động của họ ở các trường ĐH &
CĐ. Tất nhiên với những đặc điểm kể trên chưa thể là đầy đủ đối với đội ngũ
GVLLCT, hoặc là đúng hoàn toàn đối với từng người giảng viên LLCT
nhưng đó là những đặc điểm chính, cơ bản của đội ngũ GVLLCT đồng thời
cũng là những yêu cầu đặt ra từ khoa học, từ cuộc sống thực tiễn, từ sự nghiệp
cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH đòi hỏi để có thể nhận thấy nét đặc
trưng của đội ngũ GVLLCT so với đội ngũ giảng viên khác trong các trường
ĐH & CĐ. Các đặc điểm trên không tách bạch mà chúng có quan hệ mật thiết
với nhau trong nhân cách và hoạt động của GVLLCT.
1.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các
trường đại học, cao đẳng
Đội ngũ GVLLCT góp một phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu giáo dục và đào tạo của các trường đại học cao đẳng. Qua nghiên cứu
hoạt động của đội ngũ GVLLCT ở các trường ĐH & CĐ, chúng ta có thể thấy
rõ vai trò của họ được thể hiện trên những khía cạnh sau:
1.2.1 Giảng dạy các môn lý luận chính trị
Là người thầy giáo, người GVLLCT, trước hết có vai trò tổ chức hướng
dẫn sinh viên tiếp thu, nắm vững những tri thức cơ bản của các môn học.
- Thứ nhất: Giúp sinh viên tiếp thu các kiến thức cơ bản về các môn
học LLCT theo chương trình đào tạo ở hệ ĐH & CĐ.
23
Ở nước ta hiện nay, nội dung giáo dục LLCT cho sinh viên các trường
ĐH & CĐ bao gồm: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin với 3 bộ
phận hợp thành là Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị học Mác-Lênin và
Chủ nghĩa xã hội khoa học; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó là
những nội dung bắt buộc được thể hiện trong mục đích đào tạo, dạy học, được
thể hiện cụ thể trong chương trình môn học, chương trình đào tạo ở các
chuyên ngành đào tạo ĐH & CĐ.
Trong giáo dục LLCT, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin được coi là
nội dung cơ bản và quan trọng nhất. Chủ nghĩa Mác-Lênin vừa là bộ phận
hợp thành vừa là cơ sở lý luận và phương pháp luận của giáo dục LLCT, có
tác động trực tiếp đến việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận cho sinh viên. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết, là hệ
thống các quan điểm triết học, kinh tế, chính trị, xã hội hoàn chỉnh, luôn được
bổ sung và phát triển cùng với thực tiễn. Do đó, giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin cho sinh viên chính là quá trình thực hiện việc giảng dạy một cách
đồng bộ ba bộ môn, ba bộ phận hợp thành của nó. Thực tiễn cách mạng
XHCN đã cho thấy, không chỉ đối với sinh viên mà việc giáo dục tư tưởng
chính trị, giáo dục về CNXH, CNCS cho quần chúng nhân dân, cũng như mọi
hoạt động khác của cách mạng, của Đảng đều... “Phải được tiến hành trên cơ
sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, với tư cách là thế giới quan khoa học chân
chính, hiện đại” [53, tr.10].
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận của đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Bởi vậy, giáo dục LLCT cho sinh
viên, trong nội dung của nó không thể thiếu được việc giảng dạy của Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một nội dung mang tính thực tiễn chính trị
cao của giáo dục LLCT. Nội dung này nhằm làm sáng tỏ sự vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng ta trong từng giai đoạn phát
24