Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.89 KB, 128 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của
sự bùng nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước
đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây
đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh
tế, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày
từng giờ thay đổi diện mạo của mình.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau
gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào.
Về cơ bản, chúng ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã
có sự tăng trưởng về kinh tế, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ
đối ngoại, tình hình kinh tế chính trị cơ bản là ổn định, quốc phịng an ninh
được tăng cường, thế và lực ngày càng được củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu" trong sự
phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối
sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang
từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị
trường đã tạo ra một bộ phận khơng nhỏ lớp người trong xã hội nói chung,
một bộ phận thanh niên, sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo đồng tiền,
bng thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.


2



Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường,
đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII,
ngun Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn
dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường,
hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản
sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác,
của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển của một dân tộc phải
vươn tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn.
Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội
nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi
là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một
phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng,
thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện
mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết
và khơng thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc", những truyền thống đáng tự
hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta "hội
nhập" mà không bị "hịa tan", phát triển mà khơng bị "mất gốc", trọng truyền
thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho thanh niên
Việt Nam nói chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản
lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện
đại.



3

Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là
vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả
của luận văn chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở
thành phố Hà Nội)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã
đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị
tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp
chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng,
Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thơng tin
Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí
Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội,
1994; "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn
Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và
những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài
nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện
nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự biến đổi
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế
và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn
Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị
trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí



4

Nghiên cứu lý luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo
đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết
học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Vấn
đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của Nguyễn
Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc
biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 4,
2000; "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện
nay" của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa và đổi mới
các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý,
2000; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội" của Mai
Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001; "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục
lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn
Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với
xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc
Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị
trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Kế thừa tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay"
của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số biểu hiện của sự biến
đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002;

"Khoa học công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của
Nguyễn Đình Hịa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái thiện"truyền thống


5

đến "cái thiện"trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hùng
Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống
và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay", Luận
án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phịng, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 5, 2003 v.v...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to
lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện
nay ở nước ta. Tuy nhiên, những cơng trình này chưa đề cập một cách trực
tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên
nhân của nó, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác
định tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.



6

- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo
dục đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà
Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống.
Ngoài ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các cơng
trình nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lơgíc, phân
tích và tổng hợp quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học... nhằm thực hiện
mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
những giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.



7

- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, bước
đầu đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở các trường đại học và
cao đẳng. Đồng thời, nó cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò
của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai
đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá
trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân
tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà mỗi con người Việt Nam luôn
hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8

Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY


1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ g" iá trị"ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói cách khác,
ngay từ đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trước
thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức triết học.
Sau này, khi khoa học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn
khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử
dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học,
kinh tế học... Trong lĩnh vực kinh tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này
khống chế lại vật khác khi trao đổi với nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm
được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống con người và đáp ứng được nhu cầu
của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị là yếu tố hàng đầu. C.Mác
viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được
nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị
cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [40, tr. 104-105].
Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng
của ý thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách
thể mà người đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử của
giá trị, đồng thời khẳng định giá trị có thể nhận thức được và giá trị có tính


9

thực tiễn. Tất cả mọi cái gọi là giá trị đều có nguồn gốc xuất phát từ chính
cuộc sống lao động thực tiễn của con người. Do vậy, có thể nói, chỉ trong xã
hội lồi người mới có cái gọi là giá trị. Và chính "con người là giá trị cao nhất
của mọi giá trị là thước đo của mọi giá trị. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển người kinh tế - xã hội" [66, tr. 11]

Trong hoạt động thực tiễn, giá trị của một sự vật hiện tượng đều được
xác định bởi sự đánh giá của con người. Sự đánh giá đó nằm trong quy luật
của sự vận động và phát triển tiến lên trong thế giới, nó phục vụ ngày càng tốt
hơn cho cuộc sống con người, cho lợi ích và tiến bộ xã hội. Có thể nói, "mọi
giá trị đều thể hiện mối quan hệ giữa người với vật; chỉ khi nào sự vật khách
quan có ích với con người thì mới là giá trị" [38, tr. 32] và "nói đến giá trị là
nói đến cái có ích, có lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho sự phát triển của xã
hội, nói đến những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu và lợi ích của con người
trong lịch sử" [67, tr. 136].
Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển có viết như sau: "Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực,
mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái
đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thơi thúc con người
hành động và vươn tới" [2, tr. 16].
Trong cuốn Từ điển Bách khoa tồn thư Xơ viết định nghĩa:
Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối
tượng thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm của
tồn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định khơng phải bởi bản
thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lơi cuốn)
của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người,
phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các
chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu


10

hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng,
tâm thế và mục đích [63, tr. 1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây, có thể khái quát
lại như sau:

Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với
cái đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu
hoặc có một vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu
góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó
ln vận động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong
từng thời điểm nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế khơng phải những cái gì
đã có giá trị trong quá khứ đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho
thấy giá trị mang tính lịch sử khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một
giá trị nào đó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người mà do yêu cầu của
từng thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trị hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội, giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá
trị giúp con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình,
là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí
mục đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá
trị: Giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm
chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập quán... Những phẩm chất
đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn


11

mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong
đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con người, con người
với xã hội.

Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống
xã hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng
xử giữa con người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị
đạo đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề "truyền thống". Theo Từ điển Bách khoa Triết học
của Liên Xô, "truyền thống" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển
giao, lưu truyền lại - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ
những thế hệ trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội
nhất định. Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn
cầu hóa có đoạn viết: "Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở
thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn
cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của
chúng ta" [3, tr. 23].
Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức tính, thói
quen, những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, nó mang
các đặc trưng: cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. "Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập qn, thói quen, những phong tục, lối
sống, cách ứng xử, ý chí... của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch
sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [3, tr.
16-19].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa
thứ nhất, truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ đời này


12

qua đời khác, nó đứng vững được trong thời gian và có thể đương đầu với
những biến động của lịch sử. Hơn nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo ra sức

mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con người.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi là "truyền
thống" nhưng khơng đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự
phát triển đây là nghĩa thứ hai, nghĩa tiêu cực của phạm trù này. Trong cuốn
Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte, C.Mác viết rằng:
"Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc
những người đang sống". Cịn Hồ Chí Minh, trong bài "Đạo đức cách mạng"
(tháng 12-1958) cũng đã viết: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ
địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể
trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết
yếu của đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống
của chúng ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá
trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân
tộc. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của
dân tộc được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng,
những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của
truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã rèn luyện
và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con
người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó... Những đức tính
đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng
ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng.


13


Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói
đến truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị
bình ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần
được giữ gìn phát huy phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền
thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị
tinh thần đó. Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc ta, là nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo
lưu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta được cô đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ
khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm
năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc
Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong
quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù
riêng vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo.
1.1.2. Nội dung cơ bản của một số giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc Việt Nam
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình
thành, lắng đọng và phát triển qua hàng mấy nghìn năm lao động sáng tạo,
chiến đấu kiên cường của cả dân tộc. Là kết quả của sự thống nhất biện chứng
giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á, với địa hình chạy
dài theo bờ biển và tiếp nối giữa ba vùng: miền núi, đồng bằng, bờ biển. Khí
hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều, giàu tài nguyên thiên nhiên, tạo
điều kiện thuận lợi và cũng không ít khó khăn cho nghề trồng lúa nước.


14


Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hẹp lại phải trải qua rất
nhiều cuộc đấu tranh chống ách đơ hộ, chống kẻ thù từ bên ngồi mà thường
là những kẻ thù hùng mạnh hơn ta gấp bội phần. Vì lẽ đó người dân Việt Nam
ln ln tập hợp lại thành một khối đại đoàn kết, đấu tranh chống giặc ngoại
xâm và mở mang bờ cõi.
Chính trong q trình ấy, văn hóa Việt Nam đã có dịp giao lưu với
văn hóa bên ngồi, trong đó văn hóa phương Đơng đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nền văn hóa tín ngưỡng và tơn giáo của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là tư
tưởng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu và đã
đi sâu vào đời sống tín ngưỡng người dân Việt Nam.
Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, yêu thương
chúng sinh. Phật giáo cho rằng, có một thế giới vĩnh hằng, tồn tại tích cực
siêu việt, đó là cõi "niết bàn", nhưng muốn đến được nơi cực lạc đó thì con
người phải sống từ bi, ăn hiền, ở lành, xa lánh mọi ham muốn vật chất, mọi
thú vui hưởng lạc, sống không tranh giành, yêu thương nhau. Đương nhiên, tư
tưởng này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng
ảnh hưởng đến những truyền thống vốn có của ta, làm sâu đậm thêm truyền
thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con
người, là một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người
khởi xướng) đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt
Nam. Những nội dung tư tưởng của Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam
cương; ngũ thường... cũng dần thấm sâu vào đời sống, trở thành lối sống,
cách ứng xử ở đời của người Việt Nam và được Việt hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền
thống vốn có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đồn
kết thân ái, gắn bó và tinh thần chống áp bức, đơ hộ khi có thời cơ.


15


Văn hóa Việt Nam khơng chỉ giao lưu với văn hóa phương Đơng mà
cịn có sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy
nhiên, khi các trào lưu văn hóa, tơn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được
nhân dân Việt Nam kế thừa có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng
đặc trưng cho mình, nhưng cái riêng đó nó vẫn luôn ẩn chứa cái chung tạo
nên sự tương đồng trong việc hình thành nên các giá trị đạo đức của các dân
tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương
diện nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập
mà khơng hịa tan, khơng đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo
đức truyền thống tốt đẹp quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá
trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng
nàn; lịng tự tơn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức hy
sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân;
là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [10, tr. 10-11].
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt
Nam, đã có rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn
đề này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động


16


cần cù và sáng tạo; trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống
giá trị đạo đức của dân tộc [25, tr. 74-86].
Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta
với bảy nội dung như sau: "Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa" [22, tr. 108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền
của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc,
đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng
tạo trong lao động..." [15, tr. 19].
Trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Con người
Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07) đã
khẳng định: Cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách
con người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lịng thương người...
Tuy cịn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp thang giá trị đạo
đức. Nhưng nhìn chung, các quan điểm các ý kiến đều thống nhất cao độ ở
một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xun qua tồn
bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [20, tr. 100], là "tiêu điểm của các
tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [22, tr. 94], là "động lực tình cảm lớn nhất
của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức của dân tộc ta" [48, tr. 74].
Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm u q hương đất
nước mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước
là một thứ tình cảm hết sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng
gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên


17


trên hết, khi có giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hịa bình
biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng yêu nước của
dân tộc ta đã trở thành triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa
yêu nước. GS. Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của
bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người
đối với quê hương mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm
chủ của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương
lược xây dựng và bảo vệ nước nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã
gắn bó con người với thiên nhiên, với q hương xứ sở của mình, chính vì
vậy truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình u đối
với q hương làng xóm, u cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ơng bà, cha
mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ
tiên. Nơi con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và
xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại
xâm. Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm
của dân tộc. Cho dù ở hồn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn ln kiên
cường bất khuất, "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "cịn
cái lai quần cũng đánh". Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc
thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả
tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Kiên quyết chống lại chính
sách đơ hộ của ngoại bang, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ
hoàn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam khơng hề giảm sút
mà nó ln ln được hun đúc, âm ỉ cháy trong lịng mỗi người dân nước
Việt.



18

Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ thuở vua
Hùng dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000
năm đấu tranh giành độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam
Hán với chiến thắng giòn giã, đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ
938 - 1789 dân tộc ta liên tiếp đánh tan quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh,
Thanh... Đến thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ XIX đến
năm 1975, chúng ta đã đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp, Mỹ. Với chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải phóng hồn tồn miền Nam, thống
nhất đất nước, giang sơn thu về một mối, nước nhà hoàn toàn độc lập. Tại Đại
hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (11-2-1951), Bác Hồ nói: Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử
thách và được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung
và phát triển qua từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao
quý và bền vững nhất của dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của
nhân dân Việt Nam thể hiện trong xây dựng đất nước, trước hết là chăm lo
xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa... Thể hiện ở sự nhất
trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực
tự cường của mình trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại Hồ Chí
Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng:
sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì
hạnh phúc của nhân dân...



19

Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái - yêu thương con
người là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền
thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt cơng xã nông thôn, được
củng cố và phát triển qua quá trình chung lưng, đấu cật khai phá giang sơn,
giữ gìn đất nước. Tấm lịng nhân nghĩa, nhân ái đó chính là cơ sở cho cách xử
thế ở đời của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Hết lịng
vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà khơng hề tính tốn,
lên án mạnh mẽ những kẻ tàn ác "táng tận lương tâm", "phụ tình bạc nghĩa".
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam ln ln gắn tình
u q hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy,
người Việt Nam ln xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người
yêu dân gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta
luôn luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng
ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị
tha cao thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng
biết lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngơ đại
cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lịng nhân ái đó. Người Việt
Nam lấy tình yêu thương làm cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí cịn
mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân
Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ
lòng thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã
bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy
sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố
Hữu viết: "Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người".



20

Lòng nhân ái của Người đã trở thành sức mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng
vạn con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ
như là những đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang. Bác nói: Giống như bàn
tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay.
Trong mấy chục triệu người, có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả
đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại
lượng. Hàng năm, Đảng và Nhà nước thường có những đợt giảm án cho các
phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại
của Đảng: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển". Lịng nhân ái của người
Việt Nam cũng là lịng u chuộng hịa bình và tình hữu nghị giữa các dân
tộc. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng
tình hịa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống
nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng,
các gia đình thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không
nơi nương tựa. Phát động phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc
vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách thành thị - nông thơn miền xi miền ngược... Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định:
Người Việt Nam vốn có lịng u nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình
đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước - thương nhà,
thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có
tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn
năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng,
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và




×