Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

chủ trương của đảng bộ tỉnh bắc ninh về bảo tồn và phát huy di sản dân ca quan họ bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 153 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

ĐINH THỊ DUYẾN

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN DÂN CA
QUAN HỌ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN QUANG LIỆU

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

ĐINH THỊ DUYẾN

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN DÂN CA
QUAN HỌ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số


: 60.22.03.15
Mã số: 60.22.03.15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN QUANG LIỆU

Hà Nội - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ Bắc Ninh về bảo tồn,
phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2005. ..................... 9
1.1. Tình hình bảo tồn, phát huy di sản dân ca Quan họ trước năm 2001 ......... 9
1.1.1. Vài nét về tỉnh Bắc Ninh. ......................................................................... 9
1.1.2. Quá trình bảo tồn, phát huy di sản dân ca Quan họ trước năm2001. ... 13
1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chủ trương bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan
họ từ năm 2001 đến năm 2005 ......................................................................... 27
1.2.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về công tác bảo tồn và
phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2005. ........................ 27
1.2.2. Quá trình thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về công tác
bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2005 .......... 41
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo đẩy mạnh công tác bảo tồn
và phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2006 đến năm 2011. .............. 46
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan
họ. ..................................................................................................................... 46
2.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa từ năm 2006 đến năm 2011. ............................................ 46
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về công tác bảo tồn và phát huy
di sản dân ca Quan họ từ năm 2006 đến năm 2011. ....................................... 49
2.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh thực hiện chủ trương về công tác bảo tồn và phát

huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2006 đến năm 2011. ................................. 61
2.2.1. Quá trình thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh. ............... 61
2.2.2. Kết quả đạt được .................................................................................... 65
Chƣơng 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu. .................... 75


3.1. Nhận xét chung ......................................................................................... 75
3.1.1. Thành tựu ............................................................................................... 75
3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 80
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu. .................................................................... 83
3.2.1. Kinh nghiệm về chỉ đạo. ......................................................................... 83
3.2.2. Kinh nghiệm về thực hiện....................................................................... 86
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 97
PHỤ LỤC


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Quang Liệu. Các tài liệu, số liệu được
sử dụng trong luận văn trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 2014
Tác giả luận văn

Đinh Thị Duyến



LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới thầy giáo, tiến sỹ Nguyễn Quang Liệu - Trưởng phòng Chính trị và
Công tác sinh viên, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình chuẩn bị và hoàn thành luận văn.
Trân trọng cảm ơn toàn thể các thầy giáo, cô giáo Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. đã
hết sức nhiệt tình trong quá trình giảng dạy giúp tôi có được những kiến thức,
tư liệu quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình hoàn thiện luận văn.
Chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện Quốc gia, Trung tâm
Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình
khai thác nguồn tư liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình,
bạn bè đã động viên, chia sẻ khó khăn trong quá trình học tập và nghiên cứu
để tôi hoàn thành được bản luận văn này.


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NXB

Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

Văn hóa, Thể thao & Du lịch


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ trương xây dựng một “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta về văn hóa nhằm khẳng
định vị trí của văn hóa truyền thống Việt Nam trong xu thế hội nhập. Thực
hiện chủ trương đó, văn hóa được xem là nền tảng tinh thần của xã hội, là
mục tiêu, động lực để phát triển kinh tế, xã hội. Báo cáo chính trị của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng một lần nữa khẳng định “Đẩy mạnh
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa làm cho văn hóa thấm sâu vào
từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con
người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc, tăng sức đề
kháng chống những văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa
trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và hoạt động của nhân dân”.
Một trong những nội dung quan trọng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
thông qua tại Đại hội XI Đảng ta đã nêu lên định hướng về văn hóa với nội

hàm toàn diện, sâu sắc: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của việc xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa truyền thống.
Có thể nói, di sản văn hóa là sự kết tinh trí tuệ, tình cảm, truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Các giá trị di sản văn hóa được hình thành tạo nên một
môi trường văn hóa làm tăng sức mạnh của cộng đồng dân tộc đồng thời có ý

1


nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại với
tư cách là nguồn lực quan trọng đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn
chú trọng quan tâm đến vấn đề gìn giữ và phát huy các giá trị di sản văn hóa
của dân tộc tạo điều kiện làm sống dậy mọi tiềm năng như là một nguồn nội
sinh mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII đã nêu rõ khái niệm di sản văn hóa và khẳng định
nhiệm vụ bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa trong bối cảnh mới ở nước
ta: “di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa
truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể”. Cũng với vai trò quan trọng đó, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X,
Luật di sản văn hóa được ban hành và cũng khẳng định “di sản văn hóa Việt
Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận
của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta [35; 29]. Như vậy việc ban hành Luật di sản văn hóa

đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn
hóa ở nước ta.
Hiện nay, di sản văn hóa ở nước ta bao gồm các giá trị văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể. Là một loại hình di sản văn hóa phi vật thể, dân ca
Quan họ Bắc Ninh đã ra đời từ nhiều thế kỷ trước và phát triển cho đến nay.
Với ý nghĩa là vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
đã chú trọng quan tâm đầu tư và phát triển loại hình di sản văn hóa này. Sau
gần 5 năm (2005-2009) triển khai lập hồ sơ khoa học đề cử di sản, ngày
30/9/2009, tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) đã công nhận dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại. Sau sự kiện này, vấn đề đặt ra bức thiết là chúng ta

2


sẽ giữ gìn, phát huy loại hình văn hóa này như thế nào để nó sống mãi với
cộng đồng. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca Quan họ là
một chương trình hành động Quốc gia, cần đến sự chung tay của cả cộng
đồng”. Với lí do đó, tôi lựa chọn vấn đề “Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh về bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm
2011” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Bắc Ninh - mảnh đất “ngàn năm văn hiến” không chỉ được biết đến là
một kho tàng di tích lịch sử - văn hóa phong phú và đặc sắc mà còn là nơi ghi
dấu đậm nét những yếu tố sinh hoạt văn hóa mang tính truyền thống của dân
tộc Việt Nam tiêu biểu là dân ca Quan họ Bắc Ninh - di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại. Vì thế, từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về đề tài này, có thể chia ra thành 2 mảng đề tài chính:
Thứ nhất, mảng đề tài viết về quê hương Kinh Bắc - Bắc Ninh với
nhiều sắc thái văn hóa khác nhau: Năm 1982, cuốn Địa chí Hà Bắc của tác

giả Trần Linh Quý được xuất bản. Năm 1981, hai tác giả Tô Nguyễn Trịnh Nguyễn có viết cuốn Hà Bắc - Kinh Bắc. Ngô Đức Thịnh với Vùng
văn hóa Kinh Bắc, Trần Đình Luyện - Lễ hội Bắc Ninh giá trị lịch sử - văn
hóa. Phạm Đức Dương - Kinh Bắc và sự giao lưu tiếp xúc văn hóa từ
truyền thống; Đặng Việt Bích - Kinh Bắc ngã tư đường của nhiều tộc
người và nhiều nền văn hóa; Ngô Văn Doanh - Đất Kinh Bắc và Phật giáo
Việt Nam; Trịnh Sinh - Bắc Ninh - Một vùng văn hóa Việt cổ; Trần Quốc
Vượng - xứ Bắc ngày xưa và Xứ Bắc - Kinh Bắc một cái nhìn địa - văn
hóa; Hội Lim - truyền thống và hiện đại do Sở Văn hóa - Thông tin Bắc
Ninh xuất bản năm 2004… Đây là những bài viết sâu sắc về lịch sử vùng
đất Kinh Bắc, về giao lưu tiếp xúc văn hóa và những bản sắc văn hóa
truyền thống nơi mảnh đất ngàn năm văn hiến này.

3


Thứ hai, mảng đề tài chuyên khảo về Quan họ có thể thấy một số cuốn
sách như: Chu Ngọc Chi với công trình “Hát Quan họ” vào năm 1928. Năm
1962, Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc đã xuất
bản công trình “Dân ca Quan họ Bắc Ninh”, phần phụ lục của công trình này
bao gồm hơn 300 bài Quan họ đã được sưu tầm và chỉnh lý. Đặng Văn Lung,
Trần Linh Quý và Hồng Thao với cuốn “Quan họ - nguồn gốc và quá trình
phát triển”, Nhà xuất bản khoa học xã hội năm 1978. Trong cuốn “Một số vấn
đề về dân ca Quan họ” tập hợp một số bài tham luận tại Hội nghị khoa học
các năm từ 1965 - 1971 do Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1972 giúp
người đọc có cái nhìn tổng quát về dân ca Quan họ với nhiều phương diện
khác nhau. Năm 2005, Viện âm nhạc cho xuất bản cuốn “300 bài dân ca
Quan họ Bắc Ninh” của Hồng Thao. Đây là công trình gồm 174 làn điệu
Quan họ khác nhau và hơn 100 dị bản chọn lọc. Tổng cộng là 300 bài dân ca
Quan họ, trong đó có đủ giọng cổ (lề lối), giọng vặt và giọng giã bạn, được
nhạc sĩ Hồng Thao sưu tầm, kí âm, sắp xếp hệ thống, chú giải một cách hết

sức kỹ lưỡng trong hơn 20 năm.
Năm 2006, Viện Văn hóa – Thông tin kết hợp với Sở Văn hóa – Thông
tin Bắc Ninh tổ chức Hội thảo quốc tế “Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã
hội đương đại (qua trường hợp Quan họ ở Bắc Ninh, Việt Nam)”. Sau cuộc
hội thảo lớn này, tập kỷ yếu “Không gian văn hóa Bắc Ninh - Bảo tồn và phát
huy” được xuất bản tập hợp hơn 50 tham luận của rất nhiều tác giả trong và
ngoài nước. Hội thảo đã nêu bật được nội dung, lề lối sinh hoạt dân ca Quan
họ, nghệ thuật âm nhạc Quan họ, đặc biệt hội thảo nhấn mạnh tới sự tồn tại
của Quan họ trong xã hội hiện đại và phương hướng bảo tồn, phát huy các giá
trị của dân ca Quan họ trong trong xã hội ngày nay. Đây thực sự là nguồn tư
liệu quý giá, xem xét, đánh giá mọi khía cạnh của dân ca Quan họ một cách
sâu sắc và toàn diện nhất. Cùng thời gian này, cuốn sách “Vùng văn hóa quan

4


họ Bắc Ninh” đã ra mắt công chúng. Đây là kết quả của chương trình hợp tác
giữa Bộ Văn hóa - thông tin và Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh xây dựng bộ
hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Quan họ Bắc Ninh là kiệt tác di sản
truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số bài viết: Hai tác giả Bùi Quang
Thanh và Phạm Thanh Nam có bài “Có một vùng Quan họ bắc sông Cầu”;
Tác giả Nguyễn Trọng Ánh với bài viết “Hệ thống làn điệu trong dân ca
Quan họ Bắc Ninh”; Tác giả Dương Anh với bài “Tính khép mở trong dân ca
Quan họ Bắc Ninh”. Các tác giả Nguyễn Đình Bưu trong Bàn thêm về Quan
họ; Nguyễn Tiến Chiêu - Tìm hiểu nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh; Lê Thị
Chung - Tìm hiểu lối chơi Quan họ qua làng Quan họ Diềm; Lê Danh Khiêm
- Những tiêu chí xác định làng Quan họ và danh sách những làng Quan họ
gốc và Quan họ hội Lim - truyền thống và hiện đại; Đặng Văn Lung - Về hai
chữ “Quan họ” và Hình thức sinh hoạt dân ca Quan họ đã phát triển đến độ

cao. Nguyễn Đình Phúc - Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu Quan họ; Trần
Linh Quý - Bước đầu tìm hiểu về quê hương và lề lối hát Quan họ và Làng
gốc Quan họ và bảo tồn bảo tàng đối với Quan họ.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu kể trên đã phân tích một cách
sâu sắc và minh chứng một cách khá đầy đủ về tính tổng thể của văn hóa
Quan họ. Đó là những giá trị về phong tục tập quán, về đức tin tín ngưỡng, về
thế ứng xử và lối ứng xử của người dân Quan họ, về sự kế thừa và phát triển
ngày một cao theo hướng hoàn thiện, hoàn mỹ về trí tuệ, tình cảm và tâm
nguyện của đông đảo nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những bài viết
này cũng đã giới thiệu những nét cơ bản về vùng quê Quan họ cũng như
những làn điệu trong loại hình di sản văn hóa này. Mặc dù vậy nhưng vẫn
chưa có công trình chuyên khảo về công tác bảo tồn và phát huy di sản Quan
họ từ năm 2001 đến năm 2011.

5


3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung làm sáng tỏ quan điểm, đường lối và các Nghị quyết của
Đảng bộ Bắc Ninh về lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa mà tiêu
biểu là di sản dân ca Quan họ. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác
bảo tồn, phát triển di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2011, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hiểu biết về vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của tỉnh Bắc Ninh nói chung và Đảng bộ Tỉnh nói riêng trong sự
nghiệp bảo tồn, phát triển di sản dân ca Quan họ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Làm rõ các yếu tố tác động đến quá trình hoạch định và thực thi
chính sách của Đảng bộ Bắc Ninh về bảo tồn, phát huy di sản dân ca Quan họ
trong cộng đồng từ năm 2001 đến năm 2011.

+ Phân tích hệ thống các chính sách của Đảng bộ Bắc Ninh về bảo tồn,
phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2011.
+ Đúc kết một số kinh nghiệm về hoạch định và thực thi chính sách bảo
tồn và phát huy di sản dân ca Quan họ trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo công tác bảo tồn, phát huy
di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những chủ trương, đường lối, quan điểm
của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đối với công tác bảo tồn và phát triển di sản dân
ca Quan họ.
- Thời gian: từ năm 2001 đến năm 2011.
- Không gian: tỉnh Bắc Ninh

6


5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tư liệu sơ cấp: được khai thác từ các cơ quan lưu trữ, các văn
kiện, nghị quyết của Trung ương Đảng; các văn kiện, nghị quyết của Tỉnh ủy
Bắc Ninh trong giai đoạn 2001 - 2011.
- Nguồn tư liệu thứ cấp: được khai thác từ các công trình nghiên cứu
liên quan (báo, tạp chí, đề tài khoa học, chuyên khảo).
- Nguồn tư liệu hồi cố: được khai thác từ các nhân chứng lịch sử.
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là các phương pháp tiếp cận chung
liên ngành gồm có phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp hệ
thống và một số phương pháp hỗ trợ khác như khai thác tài liệu, xử lý thông
tin, thống kê.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là: lịch sử, phân tích và tổng hợp, so
sánh…sử dụng trong phân tích, đánh giá các nguồn tư liệu đặc biệt luận văn
sử dụng phương pháp khảo sát thực tế các địa phương trong địa bàn tỉnh.
6. Đóng góp của luận văn
- Về mặt tư liệu: xây dựng một tập hợp tư liệu về chính sách bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa Quan họ của Đảng bộ Bắc Ninh từ năm 2001 đến
năm 2011.
- Về mặt nhận thức luận:
+ Làm rõ chính sách của Đảng bộ ở cấp độ địa phương trên một lĩnh
vực văn hóa cụ thể.
+ Rút ra một số nhận định, kết luận góp phần vào phát triển khoa học
lịch sử Đảng, nhất là nghiên cứu về chính sách địa phương, về di sản văn hóa.

7


- Về mặt thực tiễn: Đúc kết một số kinh nghiệm về hoạch định và thực
thi chính sách của Đảng bộ Bắc Ninh về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Quan họ trong cộng đồng giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về bảo tồn, phát huy
di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2005.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo đẩy mạnh công tác bảo tồn
và phát huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2006 đến năm 2011.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu.

8



Chƣơng 1:
Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về bảo tồn, phát
huy di sản dân ca Quan họ từ năm 2001 đến năm 2005
1.1. Tình hình bảo tồn, phát huy di sản dân ca Quan họ trƣớc năm 2001
1.1.1. Vài nét về tỉnh Bắc Ninh.
* Điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế.
Về địa lý hành chính: Bắc Ninh là tỉnh có diện tích vùng là 823km2.
Theo điều tra dân số ngày 01/4/2009, tỉnh có 1.024.151 người. Đây là một
tỉnh có từ lâu đời, bao gồm cả quận Long Biên, huyện Đông Anh (Hà Nội),
huyện Văn Giang (Hưng Yên) ngày nay. Bắc Ninh và Bắc Giang trước đây là
2 tỉnh độc lập. Ngày 06 tháng 11 năm 1996 tỉnh Bắc Ninh được tái lập theo
Nghị quyết của quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 lúc này gồm có 6 đơn vị hành
chính gồm thị xã Bắc Ninh và 5 huyện: Quế Võ, Yên Phong, Tiên Sơn, Thuận
Thành, Gia Lương.
Về địa giới hành chính: Bắc Ninh là một tỉnh thuộc khu vực phía Bắc
của vùng đồng bằng sông Hồng và tiếp giáp với vùng trung du Bắc Bộ tại tỉnh
Bắc Giang. Bắc Ninh là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô. Phía Tây và Tây
Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông và Đông
Nam giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có các hệ thống
giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh trong vùng như quốc lộ 1A, đường
cao tốc 18, quốc lộ 38, trục đường sắt xuyên Việt chạy qua Bắc Ninh đi Lạng
Sơn và Trung Quốc, mạng lưới đường thủy sông Cầu, sông Đuống, sông Thái
Bình. Đây là những yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và giao
lưu kinh tế - văn hóa với cả nước.

9



Địa hình của Bắc Ninh tương đối bằng phẳng, đồng bằng chiếm phần
lớn diện tích. Toàn tỉnh có độ cao phổ biến từ 3-7m so với mực nước biển và
một số vùng thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế
Võ. Địa hình trung du đồi núi chiếm tỉ lệ rất nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích
tự nhiên toàn tỉnh được phân bố rải rác thuộc thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ
Sơn, huyện Quế Võ.
Bắc Ninh hiện nay là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh nhất miền bắc cũng như của cả nước. Năm 2010, Bắc Ninh tăng
trưởng 17,86% cao nhất từ trước đến nay và tính chung trong giai đoạn 2006 2010 Bắc Ninh tăng trưởng 15,3%. Năm 2011 trong bối cảnh kinh tế trong
nước rất khó khăn, Bắc Ninh vẫn đạt tốc độ tăng trưởng lên đến 16,2%, một
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong cả nước...Năm 2010 giá trị sản xuất
công nghiệp trên địa bàn đạt trên 36880,6 tỷ, tăng 57,3% so với năm 2009 và
trở thành tỉnh có quy mô công nghiệp đứng thứ 9 cả nước. Năm 2011 Bắc
Ninh tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng trên 70% cũng là tốc độ tăng trưởng cao
nhất cả nước, đạt giá trị 65 ngàn tỷ, vươn lên trở thành tỉnh có quy mô công
nghiệp đứng thứ 6 cả nước. Tổng thu ngân sách năm 2011 đạt mốc 7 nghìn
100 tỷ, là năm đầu tiên Bắc Ninh đã ổn định ngân sách và là một trong 13 tỉnh
có đóng góp ngân sách cho Trung ương. Năm 2011, GDP bình quân đạt
2125USD/1 người, là một trong những tỉnh dẫn đầu miền Bắc. Năm 2011,
Bắc Ninh cũng đạt kim ngạch xuất khẩu là 7.414 triệu USD, và là một tỉnh
xuất siêu, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt
22.000 tỷ đồng.
Hiện nay, Bắc Ninh đã và đang xây dựng 15 khu công nghiệp tập trung
quy mô lớn và hàng chục khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Số vốn FDI của
Bắc Ninh đứng thứ 7 cả nước và thứ 2 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.

10



* Sắc thái văn hóa vùng Bắc Ninh
Kinh Bắc xưa - Bắc Ninh ngày nay từng là cái nôi của nền văn hóa văn
minh đất Việt. Nó tích tụ đậm đặc cả bề rộng lẫn chiều sâu của hàng ngàn
năm lịch sử với những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo và hấp dẫn. Những
phát hiện khảo cổ học cho thấy, vùng đất này đã sớm tụ cư thành làng, thôn,
cùng với sự phát triển kinh tế rất phong phú và sầm uất. Ngược dòng lịch sử,
quê hương Quan họ có nhiều tên gọi khác nhau và địa bàn rộng, hẹp khác
nhau qua các triều đại. Từ xa xưa đã nổi tiếng một vùng Kinh Bắc, xứ sở của
Quan họ. Dưới thời Pháp thuộc, cuối thế kỉ XIX, từ ngày 10/10/1895 bắt đầu
tồn tại hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Từ năm 1963 hai tỉnh đó lại được sáp
nhập lại thành một tỉnh Hà Bắc rộng lớn. Đến năm 1997 hai tỉnh Bắc Ninh,
Bắc Giang lại được tách ra. Song nói đến xứ Bắc - Kinh Bắc thì tỉnh Bắc
Ninh ngày nay là địa bàn cốt lõi, trung tâm của xứ Bắc - Kinh Bắc xưa.
Trải chiều dài lịch sử, Kinh Bắc - Bắc Ninh có vị thế và vai trò đặc biệt
quan trọng trong lịch sử dân tộc. Đó là mảnh đất vốn là một trong những cái
nôi sinh thành của dân tộc Việt, trung tâm diễn ra cuộc đấu tranh lâu dài và
khốc liệt của dân tộc chống xâm lược và đồng hóa trong suốt thiên niên kỷ
đầu công nguyên. Nơi đây là quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế triều đại mở đầu nền văn minh Đại Việt. Kinh Bắc - Bắc Ninh còn là một
vùng đất lịch sử của những anh hùng, cội nguồn của văn hóa - văn minh Đại
Việt, đồng thời cũng là vùng đất cổ, giàu truyền thống văn hiến, hiếu học,
khoa bảng. Văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc phong phú và đặc sắc được thể hiện
qua những công trình kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử - văn hóa, phong tục tập quán, các sinh hoạt văn hóa dân gian.
Là nơi du nhập Phật giáo đầu tiên và đã từng là một trung tâm Phật
giáo quan trọng của nước ta từ đầu công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu
có sự kết hợp các tín ngưỡng bản địa đã biến mảnh đất Dâu trở thành “vùng

11



đất Thánh” thu hút tăng ni, phật tử từ nhiều nơi đến đây với sự truyền bá đạo
Phật của sư Khâu Đà La. Tại vùng đất này cũng xuất hiện truyền thuyết Phật
giáo Việt Nam đầu tiên là truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương
Phật Mẫu.
Bắc Ninh từng là trị sở Giao Châu thời thuộc Hán. Nơi đây đã đi vào
lịch sử Việt Nam với tư cách là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của
nước ta thời kì Bắc thuộc. Bước sang thời phong kiến độc lập, vùng đất này
đã trở thành một vùng phên dậu cho kinh thành Thăng Long đóng vai trò hết
sức quan trọng bảo vệ cho cửa ngõ phía Bắc của kinh thành. Tuy nhiên, Bắc
Ninh không chỉ mang những giá trị về lịch sử và chính trị mà nơi đây còn
được thừa nhận như một xứ sở của chùa chiền với việc bảo tồn nhiều di tích
lịch sử, văn hóa như đình, chùa, miếu, đền, thành quách. Theo số lượng thống
kê toàn tỉnh Bắc Ninh có tới 447 ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau. Cho đến năm
1997, toàn tỉnh có hơn 190 di tích lịch sử văn hóa đã được Bộ Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa công nhận.
Bên cạnh đó, Bắc Ninh được biết đến với một hệ thống các làng nghề
thủ công truyền thống còn được phát triển cho đến ngày nay như gỗ Đồng Kỵ,
đúc đồng Đại Bái, giấy Đống Cao, pháo Đồng Kỵ…Không chỉ có vậy, đất
văn hiến Kinh Bắc có nền nghệ thuật phát triển khá cao, tiêu biểu cho nền văn
hóa dân tộc. Những sinh hoạt văn hóa trong đời sống nhân dân mang đậm hồn
quê hương, đất nước, có thể lấy ví dụ như loại hình dân gian truyền thống
chèo Chải Hê - loại hình văn hóa mới được quan tâm, đặc biệt là di sản dân ca
Quan họ đã được UNESCO ghi nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại năm 2009.
Qua đó ta thấy Kinh Bắc là biểu tượng về một mảnh đất có nền văn
hiến lâu đời với nhiều giá trị văn hoá tốt đẹp. Đó là nền văn minh nông
nghiệp lúa nước với cơ tầng giá trị văn hoá xóm làng, lấy nghề nông làm gốc

12



“dĩ nông vi bản”. Nói đến xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh là chúng ta nói đến vùng
đất của những huyền thoại và truyền thuyết, những đình chùa, đền miếu cổ đi
vào lịch sử, là những lễ hội sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa mang tính cộng
đồng cao, là những làng nghề thủ công truyền thống cùng những sản phẩm
thủ công đặc sắc, đặc biệt nơi đây đã hội tụ, sản sinh ra dân ca Quan họ Bắc
Ninh - một loại hình nghệ thuật đặc sắc, độc đáo và tiêu biểu trong các hình
thức diễn xướng dân gian của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Có thể nói,
hiếm có một vùng quê nào trên đất nước lại thấm đượm truyền thống văn hóa
và hồn dân tộc như vùng đất này. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu về di sản
dân ca Quan họ - một nét văn hóa đặc sắc và độc đáo của Bắc Ninh càng trở
thành một việc làm có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Quá trình bảo tồn, phát huy di sản dân ca Quan họ trước năm 2001.
* Nguồn gốc tên gọi “Quan họ”
Tên gọi Quan họ có nhiều cách giải thích khác nhau, có thể chia thành
hai luồng chính: người dân Quan họ truyền miệng về những cách giải thích
của làng mình và những người nghiên cứu giải thích theo sự khảo cứu của
từng người. Trước hết, theo cách giải thích của người vùng Quan họ, họ
thường giải thích bằng trí nhớ truyền miệng những truyền thuyết tồn tại lâu
đời ở làng. Người vùng Bịu (Hoài Thị, Bịu Sim, Tiên Du) và vùng Diềm
(Viêm Xá, thành phố Bắc Ninh), vốn là hai nơi kết bạn Quan họ bền vững, lâu
dài nhất cho rằng gọi là hát Quan họ vì tiếng hát ấy là tiếng hát giữa hai họ
nhà quan kết bạn với nhau [31; 17]. Truyền thuyết gắn tiếng hát với một
người có thật trong lịch sử là Trạng Bịu, tức Nguyễn Đăng Đạo, đỗ trạng
nguyên khoa 1684, người Hoài Thượng, Tiên Du, cho rằng ông có công đặt ra
cách ca hát Quan họ [32; 161].

13


Người vùng Châm Khê (Bùi Xá, Yên Phong) truyền rằng: lối hát Quan

họ là lối hát giữa quan viên họ nhà trai và quan viên họ nhà gái. Vì thế, tiếng
hát của quan viên hai họ được gọi tắt là hát Quan họ.
Người vùng Chè, Quả Cảm, Thị Cầu…lại gắn tiếng hát Quan họ với
những truyền thuyết. Chuyện kể về Chúa Trịnh Sâm đi du xuân gặp một
người con gái đang cắt cỏ trên núi vừa cắt cỏ vừa hát. Tiếng hát hay khiến
quan quân phải dừng lại để nghe. Thấy người đẹp, hát hay, chúa mời về cung,
trở thành bà chúa. Dân gian cho là tiếng hát kia tạo nên sự may mắn, nên đua
nhau hát, trở thành lối hát gọi là hát Quan họ. Cũng gần giống truyền thuyết
trên nhưng lại gắn với cuộc du xuân cầu duyên, cầu tự của Lý Thánh Tông
qua vùng Cầu Lự, Siêu Loại (Thuận Thành) gặp cô gái Ỷ Lan, sau thành
nguyên phi, rồi hoàng hậu, cuối cùng là hoàng thái hậu nhà Lý. Người vùng
Hồi Quan (Tương Giang, Từ Sơn) thì kể rằng: Lý Công Uẩn chạy giặc, dân
muốn cản quan quân giặc nên ùa ra đường hát làm quan quân họ phải dừng
lại, để Lý Công Uẩn chạy thoát…[32; 162]. Tuy chi tiết mỗi vùng giải thích
khác nhau, nhưng các truyền thuyết trên đều giải thích Quan họ là tiếng hát
làm quan quân phải dừng lại.
Trong cuốn “Dân ca Quan họ Bắc Ninh”, cho rằng “…Quan họ là một
danh từ kép. Trong ngôn ngữ, dưới chế độ phong kiến chữ họ với chữ phường
là hai danh từ gần đồng nghĩa với nhau, chỉ một tập thể người nhất định. Chữ
phường thường dùng với ý nghĩa kinh miệt, chỉ những người làm cùng một
nghề, không được coi trọng. Chữ họ thường dùng với ý nghĩa coi trọng, chỉ
những nhóm người thuộc lớp trên của xã hội: sĩ, nông cùng sinh hoạt kết bạn
với nhau, như họ tư văn, họ võ phả…Các người trong họ tư văn, họ võ phả
gọi là quan viên họ tư văn, quan viên họ võ phả, gọi tắt là Quan họ tư văn,
Quan họ võ phả. Các quan cụ, quan trùm, quan đám, quan anh, chính là các
quan viên, lớp người có quyền ăn nói…Chữ quan trước kia dùng để chỉ các

14



quan viên thực sự, nhưng đến sau này, bất cứ nam hay nữ hễ ai được tôn trọng
đều được gọi là quan. Do đó, danh từ quan anh, quan chị, quan bác bắt đầu
xuất hiện…”[48; 136].
Như vậy, các tác giả cuốn sách “Dân ca Quan họ Bắc Ninh” cho Quan
họ là danh từ kép chỉ nhóm người ca hát với ý nghĩa coi trọng. Và lối hát,
tiếng hát gắn liền với tập thể gọi là Quan họ nên cũng gọi là hát Quan họ.
Thời gian gần đây, dựa vào phương pháp nghiên cứu văn bản cổ và sự
suy luận, tác giả Nguyễn Hùng Vĩ cho biết, quan họ là từ quan hộ mà ra: “Sau
khi đã tìm hiểu Quan họ trong thư tịch cũ thì hiểu từ quan họ là đơn giản. Đó
chỉ là những sinh hoạt ca hát thuộc về nhà quan, trong nhà quan, phục vụ nhà
quan [85; 25].
Nhìn chung, sự giải thích về tên gọi Quan họ thì có nhiều, tuy nhiên
chưa có cách giải thích nào có thể coi là hoàn toàn thỏa đáng. Vấn đề này còn
phải được tiếp tục nghiên cứu.
* Không gian và đặc trưng của văn hóa Quan họ:
Dân ca Quan họ là loại hình văn hóa phi vật thể. Theo các nhà nghiên
cứu văn hóa, Quan họ có từ thế kỷ XVII, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các
xóm làng. Về mặt sáng tạo nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao
của nghệ thuật thi ca bởi nội dung lời ca thì đặc sắc, ngôn từ thì giản dị nhưng
được chau chuốt, chọn lựa. Đây là loại hình dân ca truyền khẩu dựa trên nền
thi ca lục bát với 5 cung bậc: cung, thương, giốc, chủy, vũ, phần nhạc của
Quan họ với cung bậc vừa phải, phần lời tha thiết, đằm thắm, phản ánh tài
tình tâm tư, tình cảm của người dân trong lao động sản xuất, sinh hoạt, nhiều
lứa tuổi đều có thể tiếp thu. Số liệu thống kê cho thấy, từ đầu thế kỷ XX, dân
ca Quan họ Bắc Ninh đã được thực hành ở 49 làng, mà cộng đồng xác định đó
là những làng Quan họ cổ, trong đó có 44 làng thuộc về Bắc Ninh, 5 làng
thuộc tỉnh Bắc Giang.

15



Quá trình hình thành lời ca, làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh gắn liền
với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn vinh các
mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa. Cũng vì lẽ đó, sinh hoạt Quan họ
thường gắn liền với những sinh hoạt hội hè, ca hát, giao lưu, gắn với đời sống
tình cảm, tinh thần của người lao động biết hướng tới cái đẹp. Dân ca Quan
họ Bắc Ninh mang nhiều nét độc đáo và được chia thành 2 loại chính:
- Dân ca Quan họ Bắc Ninh truyền thống:
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, Quan họ truyền thống với
hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng,
vừa cổ xưa mà rất Việt Nam. Quan họ truyền thống hát không nhạc đệm và chủ
yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân ở các làng quê. Trong
Quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội,
hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi
là hát chúc, hát mừng, hát thờ…Hát Quan họ truyền thống không có khán giả,
người trình diễn đồng thời cũng là người thưởng thức.
- Dân ca Quan họ Bắc Ninh mới:
Còn gọi là “hát Quan họ”, đây là hình thức biểu diễn Quan họ chủ yếu
trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng, như Tết đầu xuân, lễ hội,
hoạt động du lịch…Từ sau năm 1954, dân ca Quan họ được khai thác làn
điệu, đặt lời mới và được diễn nhiều trên sân khấu. Dân ca Quan họ mới
không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra nhiều nơi, đến với thính
giả trong nước và các quốc gia trên thế giới. Dân ca Quan họ mới có hình
thức biểu diễn phong phú hơn Quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát
đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa…
Thực tế cho thấy Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian,
diễn xướng dân gian độc đáo, hấp dẫn, có giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật
to lớn và có sức sống lâu bền bậc nhất trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Nói

16



đến Quan họ là nói đến nền văn hóa tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn
hóa nghệ thuật dân gian trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều tầng,
nhiều lớp trong một chỉnh thể văn hóa, gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã,
thu hút và biểu hiện những ước mơ, tập hợp và hành động chung cho những
nguyện vọng, những khao khát của con người xứ Bắc từ nhiều đời đối với
quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người trên bình diện văn hóa xã hội. Về hình thức, sinh hoạt dân ca Quan họ Bắc Ninh đòi hỏi tính chất
quy củ, khuôn phép chặt chẽ, tuân theo lề lối nhất định thông qua nhiều hình
thức diễn xướng như: hát canh, hát hội, hát chúc, hát mừng, hát thờ…Trong
đó, hát canh và hát đối đáp là hai hình thức đặc trưng tiêu biểu và độc đáo của
dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Theo chiều dài lịch sử, Quan họ đã sáng tạo, dung nạp, chuyển hóa,
sinh thành và đào thải trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với các
hình thức sinh hoạt văn hóa khác của địa phương, ở trong nước và các nước
láng giềng để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu phát triển qua từng thời đại
nên giá trị nội dung, nghệ thuật của văn hóa Quan họ giàu có, phức tạp, đa
diện, phát triển và biến hóa không ngừng. Quan họ không đơn giản chỉ là một
loại hình dân ca như các loại hình dân ca khác. Quan họ là một loại hình sinh
hoạt văn hóa tổng hợp với sự cấu thành của 5 mặt hoạt động:
- Tục kết bạn Quan họ (là biện pháp sinh hoạt, giao lưu kết nghĩa, là
cách tốt nhất cho sự tồn tại, thăng hoa của Quan họ).
- Hành vi văn hóa Quan họ (là nét ứng xử nhân văn của của con người
vùng Quan họ).
- Dân ca Quan họ (là trung tâm, là đỉnh cao của đời sống văn hóa, là
phương tiện thể hiện văn hóa Quan họ qua lời ca tiếng hát).
- Lễ hội Quan họ (là môi trường thể hiện văn hóa Quan họ).
- Văn hóa tín ngưỡng Quan họ (thể hiện đức tin của con người).

17



Năm mặt này hòa quyện, thống nhất và chi phối lẫn nhau, mặt nọ là
điều kiện, là môi trường của mặt kia, tất cả tạo ra một không gian văn hóa rất
quy chỉnh. Trong đó, dân ca Quan họ là mặt hoạt động trọng tâm, hay nói
cách khác, tiếng hát Quan họ là phương tiện cơ bản để người Quan họ thực
hiện có hiệu quả tất cả các mặt hoạt động của mình.
Như thế, có thể nói, dân ca Quan họ nổi trội lên như một hiện tượng
văn hóa độc đáo, đặc thù trong hệ thống dân ca vùng trung du và đồng bằng
Bắc Bộ, nơi gắn liền với thiết chế xóm làng truyền thống và cư dân sinh sống
chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Chính nếp sống đó đã trở thành tính cách
văn hóa trong sinh hoạt Quan họ. Với đặc tính truyền khẩu, âm nhạc dân gian,
dân ca tồn tại, lưu truyền và phát triển thông qua trình diễn, sự tái tạo bằng trí
nhớ trên chính môi trường đặc hữu của nó. Đó là sự phục hiện lại kí ức văn
hóa. Đối với dân ca Quan họ, sự độc đáo của lề lối, thủ tục sinh hoạt và sự
phong phú về không gian, môi trường diễn xướng được nhiều nhà văn hóa
nhận định là một trong những hiện tượng độc đáo hiếm có trong di sản văn
hóa dân tộc. Như quyết định số 4.COM 13.76 - Ủy ban Chính phủ Công ước
UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đã ghi: “Các bài Quan họ
thể hiện tinh thần, triết lý và bản sắc địa phương của cộng đồng ở trong vùng,
thắt chặt mối quan hệ ở trong làng và giữa các làng cùng chia sẻ thực hành
diễn xướng văn hóa này”
Là một trong những loại hình dân ca đặc trưng của nước ta, bắt nguồn
từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Quá trình hình thành lời ca, làn điệu Quan
họ gắn liền với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn
vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa. Nét đặc trưng tiêu biểu
nhất của Quan họ chính là ở hình thức đối đáp giữa một bên là liền anh và
một bên là liền chị trong không gian văn hóa Quan họ. Những liền anh trong
trang phục truyền thống khăn xếp áo the và những liền chị duyên dáng trong


18


×