Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

chính sách của đảng và nhà nước về tôn giáo trường hợp phật giáo từ 1981 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.58 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
************
PHẠM THỊ VƯỢNG

CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN
GIÁO - TRƯỜNG HỢP VỚI PHẬT GIÁO TỪ NĂM 1981
ĐẾN NĂM 2008

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch Sử Đảng
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn: GS. TS Đỗ Quang Hưng

Hà nội, 2010


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ……………………………………………………………..

3

Chương 1: Tổng quan chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn
giáo từ năm 1981 đến năm 2008 ………………………………......

9

1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo …….......

9



1.1.1 Khái niệm mácxít về tôn giáo …………………………...

9

1.1.2 Về nguồn gốc của tôn giáo ………………………………

12

1.1.3 Thái độ của đảng mácxít với tôn giáo …………………...

15

1.2



tưởng

Hồ

Chí

Minh

về

tôn

giáo


18

1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nói chung …………..

18

1.2.2 Hồ Chí Minh và Phật giáo ……………………………….

26

1.3 Vài nét về tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay ……………

30

1.4 Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo

35

………………………….

…………...
1.4.1 Giai đoạn trước năm 1990 ……………………………….

35

1.4.2 Giai đoạn sau năm 1990 …………………………………

40


Chương 2: Chính sách của Đảng và nhà nước với Phật giáo từ khi
giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981 đến năm 2008
……..

49

2.1 Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam ………………………….

49

2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Phật giáo trước năm
1981 ………………………………………………………………….
2.2.1 Ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa

53
53

……………………………
2.2.2 Với Phật giáo ở miền Nam ………………..……………..
2.3 Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Phật giáo từ năm

1

58


1981 đến năm 2008 …………………………………………………

62


2.3.1 Về vấn đề Giáo hội ………………………………………

62

2.3.2 Về đường hướng và hành đạo của Phật giáo …………….

70

Chương 3: Giáo hội Phật giáo Việt Nam với chính sách của Đảng


Nhà

nước

77

………………………………………………………..
3.1 Xây dựng thống nhất tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam
từ

Trung

ương

đến

địa

phương


77

………………………………………..
3.2 Thúc đẩy đường hướng đúng đắn của Giáo hội và tôn thể
phật tử, tu sĩ ……………………………………………………….

82

3.2.1 Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc Việt
Nam ………………………………………………………………..

82

3.2.2 Thực hiện đường hướng “Đạo pháp - Dân tộc - Xã hội
chủ nghĩa” trong thực tiễn …………………………………………

87

3.3 Đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc ………………………………………………..

91

Kết luận ……………………………………………………………

99

Tài liệu tham khảo …………………………………………………


104

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân loại, gắn liền với sự vận động và phát triển của lịch sử loài người.
Tuy vậy, tôn giáo cũng là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của mỗi quốc gia.
Song không vì thế mà chúng ta “lờ đi”, lảng tránh hoặc không giải quyết triệt
để vấn đề tôn giáo. Ngược lại, nếu làm tốt công tác tôn giáo sẽ là một động
lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển, phát huy được những nhân tố tích cực,
tranh thủ được bộ phận có tín ngưỡng góp phần sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp
chung của cách mạng.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Để thực hiện “đại đoàn kết dân
tộc”, củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo, Đảng, Nhà nước
ta cần phải xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo. Pháp luật hoạt động
tôn giáo là công cụ quan trọng bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự
do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đồng thời là cơ sở pháp lý để
đấu tranh chống lại mọi âm mưu, hoạt động của thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo xâm phạm đến độc lập chủ quyền của đất nước.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất chú trọng
đến việc hoàn thiện chính sách về hoạt động tôn giáo. Pháp luật về tôn giáo
trong những năm qua không ngừng được bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện
cho phù hợp với tình hình nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Khẳng
định sự trưởng thành của Đảng, Nhà nước trong lý luận và trong thực tiễn về

3



công tác tôn giáo. Điều đó đem đến cho đời sống các tôn giáo một hơi thở
mới, một luồng sinh khí mới.
Phật giáo là một tôn giáo có mặt ở Việt Nam gần 20 thế kỷ, hoà mình
cùng dân tộc và trở thành tôn giáo của dân tộc. Suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước đến nay, Phật giáo bao giờ cũng là một thành viên trong
khối đại đoàn kết dân tộc, đã có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng đất
nước. Phật giáo ở Việt Nam không chỉ thuộc lĩnh vực của thể giới tâm linh,
mà còn ăn sâu trong tiềm thức người Việt, trở thành một đặc trưng văn hoá,
một nét đẹp truyền thống trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của dân tộc ta.
Hơn nữa, tín đồ Phật giáo chiếm số lượng đông đảo nhất ở Việt Nam và trở
thành một tôn giáo không thể thiếu trong đời sống văn hoá tâm linh của người Việt.
Đặc biệt với sự kiện thống nhất Phật giáo Việt Nam trong cả nước, ra
đời Giáo hội Phật giáo Việt Nam (năm 1981) có ý nghĩa quan trọng trong lịch
sử Phật giáo nước nhà, thực hiện sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của
Đức Phật trên nước ta, nhất là tổ chức lãnh đạo tinh thần tăng ni, phật tử trong
cả nước phát huy khả năng, trí tuệ của mình đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, cũng không vì thê mà chúng ta nghĩ rằng mối quan hệ của
Đảng và Nhà nước với Phật giáo là luôn thuận lợi, đơn giản, xuôi chiều,
không có những xung đột, không có mâu thuẫn.
Phật giáo cũng như các tôn giáo (Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà
Hảo…) tồn tại ở Việt Nam đều mang bản chất, về phương diện xã hội học,
chính trị học, là “mọi tổ chức tôn giáo, giáo hội đều có thể là các đoàn thể áp
lực”[34, tr. 454]. Cho nên tổ chức Giáo hội Phật giáo nói riêng dù không phải
là một tổ chức chính trị nhưng nó cũng không đứng ngoài đời sống chính trị
và công quyền. Ngược lại, áp lực của nó là rất mạnh khi sử dụng vào mục
đích chính trị. Hơn thế nữa, ở nước ta, “cũng như hầu hết các tôn giáo khác,
Phật giáo cũng không thể an bình “đứng ngoài” sự can thiệp, lợi dụng của các

thể lực đế quốc, thực dân và bọn tay sai” [34, tr. 454.].
Do vậy, yêu cầu đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta là cần phải hoàn thiện
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo, cụ thể là đối

4


với Phật giáo, nhằm phát huy hơn nữa những truyền thống tốt đẹp sẵn có
trong mối quan hệ giữa Phật giáo và Đảng Cộng Sản Việt Nam, thúc đẩy sự
gắn bó hơn nữa giữa tôn giáo Phật giáo nói riêng trong khối đại đoàn kết dân
tộc.
Với tất cả những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Chính sách của
Đảng và Nhà nước về tôn giáo - Trường hợp với Phật giáo từ năm 1981
đến năm 2008” làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tình hình tôn giáo Việt Nam tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp và tiềm
ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định chính trị xã hội. Xây dựng chính sách tôn
giáo và thực hiện chính sách tôn giáo là yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta. Khi Nghị quyết 24 ra đời, việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ
trương, chính sách tôn giáo ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Vì vậy, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu mảng đề tài này. Tiêu
biểu như :
- “Tình hình và xu thế tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề đặt
ra cho công tác quản lý và lãnh đạo” năm 2002 do GS. TS Lê Hữu Nghĩa làm
chủ nhiệm đề tài. Công trình đã nêu nên thực trạng và xu hướng biến động
của tôn giáo thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời phân tích
công tác lãnh đạo và quản lý đối với vấn đề tôn giáo ở ta. Từ đó, công trình đề
xuất một số kiến nghị và phương hướng cho công tác quản lý và lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước về tôn giáo.

- “Đổi mới chính sách tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo hiện
nay - những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể” năm 2002 do TS
Nguyễn Đức Lữ làm chủ nhiệm. Đề tài đã khái quát được quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo trong quá trình
cách mạng. Đề tài đã phân tích quá trình lãnh đạo và quản lý của Đảng trong

5


thời gian qua. Công trình đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách
tôn giáo của Đảng.
- GS Đặng Nghiêm Vạn: “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Đây là kết quả kế
thừa đề tài khoa học cấp nhà nước “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn
giáo ở Việt Nam”. Cuốn sách trang bị cho chúng ta những kiến thức cơ bản
nhất về tôn giáo. Trình bày đặc điểm và tình hình tôn giáo ở Việt Nam cũng
như những đặc trưng, vai trò cụ thể của những tôn giáo lớn. Ngoài ra, cuốn
sách cũng đã phân tích và làm rõ một số vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc xây dựng chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
- GS Đỗ Quang Hưng: “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam. Lý
luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007
(tái bản lần 2, lần đầu in năm 2005). Đây là một công trình tổng hợp, đã khái
quát được các nội dung cơ bản liên quan đến lĩnh vực tôn giáo. Trước hết, tác
giả khái quát bối cảnh quốc tế của vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, phân tích dưới
góc độ triết học quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề tôn giáo cũng như bước đầu nhận thức của Đảng Cộng Sản về vấn
đề tôn giáo. Điểm đáng lưu ý, tác giả còn hệ thống hoá quan điểm, đường lối
của Đảng với vấn đề tôn giáo; đưa ra những kinh nghiệm ứng xử của Đảng và
Nhà nước ta đối với mỗi tôn giáo cụ thể; từ đó tác giả đề cập đến vấn đề hoàn
thiện luật pháp tôn giáo. Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu công phu,

chứa đựng nhiều tâm huyết của tác giả, có giá trị lý luận và thực tiễn rất cao.
Cụ thể về Phật giáo, cũng có rất nhiều cuốn sách, bài viết, cũng như các
tạp chí nghiên cứu về Phật giáo. Tuy nhiên, nội dung tập trung chủ yếu vào
trình bày quá trình du nhập và phát triển của đạo Phật ở Việt Nam, ảnh hưởng
của Phật giáo đến đời sống văn hoá tinh thần, giới thiệu nội dung của giáo lý
nhà phật, v.v. Năm 1988, cuốn sách “Tìm hiểu chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với đạo Thiên Chúa Giáo” của Nguyễn Văn Đông, do nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Song chưa có một công trình chuyên khảo nào
nghiên cứu về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Phật giáo - một tôn
giáo chính và có ảnh hưởng lớn đến văn hoá Việt Nam. Chính sách của Đảng

6


với Phật giáo nói riêng, đều được đề cập trong các công trình kể trên nhưng chỉ
là một phần nội dung nhỏ, mà các tác giả nghiên cứu cùng với các tôn giáo khác.
Vì vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu chính sách của
Đảng và Nhà nước với riêng tôn giáo Phật giáo từ năm 1981 đến năm 2008.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn muốn làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Tìm hiểu chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, để thấy được sự
tiến bộ trong việc dần hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo hiện nay.
- Tìm hiểu cụ thể chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với
Phật giáo, đặc biệt là từ năm 1981.
- Quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước đối với Phật giáo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, làm rõ đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước với Phật giáo.
Có cái nhìn khái quát về quá trình đồng hành của Phật giáo với dân tộc
ta từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981 đến nay. Vai trò, ý
nghĩa của Giáo hội với phát triển của Phật giáo ở nước ta.
Rút ra những nhận xét, cũng như bài học kinh nghiệm.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những chủ trương, đường lối và chính sách tôn giáo, cụ thể là chính
sách tôn giáo của Đảng đối với Phật giáo,
Quá trình thực hiện sự chỉ đạo của Đảng về chính sách tôn giáo đối với
Phật giáo
Kết quả và ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

7


Công tác tôn giáo gồm nhiều mặt, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu tôn giáo Phật giáo, về
thời gian từ năm 1981 đến năm 2008.
Điều kiện lịch sử ảnh hưởng, có tác động đến chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng về công tác tôn giáo nói chung, về chính sách với Phật
giáo nói riêng.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về với Phật giáo.
Kết quả của việc tổ chức thực hiện chính sách đối với Phật giáo từ năm
1981 đến năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng về tôn giáo

như một cơ sở lý luận quan trọng. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật, các văn bản hưỡng dẫn áp dụng
pháp luật về hoạt động tôn giáo, hoạt động của Phật giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi triển khai luận văn có sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lôgíc: nhằm mô tả, làm
rõ vấn đề mang tính quy luật, tất yếu cần hoàn thiện chính sách về hoạt động
tôn giáo, cần thiết nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà nước và vấn đề tôn
giáo, cụ thể trong luận văn là chính sách tôn giáo của nhà nước với Phật giáo.
- Ngoài ra, người viết còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so
sánh, tổng hợp để đánh giá, nhận xét, rút ra ưu điểm, hạn chế trong quá trình
thực hiện chính sách.
6. Đóng góp của luận văn
Có cái nhìn khái quát, hệ thống quan điểm mácxít và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo nói chung, về tôn giáo Phật giáo nói riêng.
Tìm hiểu về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã được đề cập
nhiều trong các cuốn sách, công trình nghiên cứu, bài viết, v.v. Song đây là

8


một đề tài chuyên sâu nghiên cứu về chính sách tôn giáo của Đảng với tôn
giáo Phật giáo. Nó có những ý nghĩa nhất định.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, đóng góp một
phần nhỏ bé cho công tác nghiên cứu xây dựng chính sách tôn giáo Phật giáo.
Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho nghiên cứu khoa học, công tác giảng dạy.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo,
nội dung chính được chia làm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo từ
năm 1981 đến năm 2008.
Chương 2: Chính sách của Đảng và Nhà nước với Phật giáo từ khi Giáo
hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981 đến năm 2008.
Chương 3: Giáo hội Phật giáo Việt Nam với chính sách của Đảng và
Nhà nước.

9


Chương 1

TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ
TÔN GIÁO TỪ NĂM 1981 ĐẾN NĂM 2008
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm mácxít về tôn giáo
Ngày từ buổi bình minh của xã hội loài người, tôn giáo đã bắt đầu xuất
hiện. Nó vận động, phát triển cùng với các hình thái kinh tế xã hội và tham
gia vào mọi mặt của đời sống. Để hiểu rõ bản chất, các nhà khoa học, các nhà
hoạt động chính trị luôn mong muốn tìm ra một khái niệm chung nhất về tôn
giáo. Song cho đến nay, khái niệm tôn giáo vẫn đang là vẫn đề tranh luận
trong giới xã hội học tôn giáo.
Các nhà duy vật trước C.Mác và Ph.Ăngghen đều coi tôn giáo là sự lừa
bịp, giả dối, là kết quả của sự ngu dốt. Cụ thể như, Phơbách thì cho rằng: tôn
giáo là sự phản ánh sự tồn tại của chính bản thân con người, con người suy
nghĩ, suy tâm thế nào thì thượng đế của họ là đúng như vậy; ý thức về chúa là
ý thức con người rút ra về chính bản thân nó.
Trong tác phẩm Góp phần phê phán chủ nghĩa pháp quyền của Hêghen,
C. Mác khẳng định: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
người, chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần

nữa nhưng con người không phải là sinh vật trìu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài
thế giới. Con người là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước
ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược, vì bản thân
chúng là thế giới lộn ngược” [58, tr. 569 - 570]. Hay “Tôn giáo là tiếng thở
dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng
như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” [58, tr. 570]. Ph. Ăngghen cho rằng: “Tôn giáo sinh ra từ
thời đại hết sức nguyên thủy… Do đó, những khái niệm tôn giáo ban đầu ấy
thường là chung cho một tập đoàn dân cư, cùng dòng máu, sau lại phân chia
ra, phát triển một cách riêng biệt ở mỗi dân tộc” [59, tr. 443]. Ph. Ăngghen

10


cũng đưa ra quan điểm của mình: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người - của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”
[60, tr. 437]. Nó được coi là định nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn
giáo.
Từ những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen cho thấy, tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội, phản ánh những tâm tư nguyện vọng, những ước
mơ của người dân lao động về một cuộc sống hạnh phúc, không có bất bình
đẳng, không có điều ác. Qua tôn giáo, mọi người đều có một cuộc sống ấm
no, tràn đầy tình yêu thương giữa con người với con người, được giải thoát
khỏi áp bức, bất công. Song những ước mơ đó lại không phải do người lao
động đấu tranh mà có được, mà do một đấng siêu nhiên ban cho nên nó chỉ là
một thế giới hạnh phúc tưởng tượng; đúng như C. Mác nói: “Tôn giáo là hạnh
phúc hư ảo của nhân dân”, là những “bông hoa giả” nhưng lại được quần
chúng tiếp nhận một cách hồ hởi, nhiệt tâm và đầy thỏa mãn. Đây chính là

chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.
Như vậy có thể thấy, các nhà chủ nghĩa Mác - Lênin đã tập trung đi sâu
làm sáng tỏ bản chất của tôn giáo, coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội,
thuộc kiến trúc thượng tầng; cho rằng tôn giáo “ru ngủ” quần chúng, làm nhụt
ý chí đấu tranh và biến những người lao động thành kẻ thụ động cam chịu áp
bức, nó giam cầm con người trong các quan niệm duy tâm, thần học - hướng
họ về các lực lượng siêu nhiên mà họ hoàn toàn quy phục, nó hạn chế tính
tích cực của xã hội. Tuy nhiên, theo Mác - Lênin, niền tin tôn giáo còn là “sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy”; tôn giáo là biểu lộ thái độ
không chấp nhận, không bằng lòng với cuộc sống thực tại - dù sự phản kháng
yếu đuối, tiêu cực, không phải từ những đấu tranh để giành lại.
Không dừng lại ở quan điểm đó, cùng với thời gian, khái niệm tôn giáo
được các nhà khoa học, những người hoạt động chính trị, kể cả những học giả
vẫn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp cận ở nhiều khía cạnh,

11


góc độ khác nhau, rất khó để thống nhất và đưa ra một khái niệm chung về
tôn giáo. Tuy nhiên, theo GS.TS Đỗ Quang Hưng có thể tiếp nhận các luận
điểm của Mác, Ăngghen thành ba loại:
“Loại thứ nhất, lấy thể nghiệm cá nhân của chủ thể tín ngưỡng làm
tiền đề tiên quyết cho bản chất và định nghĩa tôn giáo (…)
Loại thứ hai, lấy chức năng xã hội của tôn giáo làm hạt nhân định nghĩa
và khẳng định bản chất của tôn giáo (…)
Loại thứ ba, từ góc độ “bản thể luận” của tôn giáo mà định nghĩa (…).
Theo đó, cho dù có hơn 150 định nghĩa về tôn giáo, nhưng nhìn chung người
ta vẫn cho rằng tôn giáo là tương quan giữa con người với sự linh thiêng
(Sacred), với quyền năng (Power), đấng siêu việt (Transcendent), cái tuyệt đối
(Absolute), thực tại tối cao (Supreme reality)…” [34, tr.130].

Tôn giáo còn được M. Bertrand tiếp cận như một lực lượng xã hội:
“Một tôn giáo không chỉ là tập hợp những biểu tượng, những niềm tin, mà
còn là những thực hành có tính nghi thức và văn hóa. Nó cũng còn là một thể
chế xã hội, một tổ chức có tính chất của một cộng đồng” [34, tr. 130]. Một
học giả người Trung Quốc, tên Lữ Đại Cát, đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo là sự
phản ánh hư ảo lực lượng chi phối cuộc sống hàng ngày của con người thành
một ý thức xã hội về lực lượng siêu trần thế, là một chỉnh thể văn hóa xã hội
tổng hợp những loại ý thức và hành vi này và làm cho nó quy phạm hóa” [34, tr.
131].
Đã có rất nhiều sách báo giải thích các luận điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo, nhiều học giả đã nhận thức được đúng thực chất, cốt lõi
của luận điểm Mác - Lênin về tôn giáo nhưng có những quan điểm thậm chí
giải thích sai lệch, áp đặt, mang nặng tư tưởng “tả” khuynh, coi tôn giáo như
là một hiện tượng hoàn toàn tiêu cực, có khi còn nâng tôn giáo mang tính
phản động. Thực tế đã cho thấy, những luận điểm giải thích trên đã bị bác bỏ.
Quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với tôn giáo, khắc phục
những mặt tiêu cực, hạn chế trong tôn giáo là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp giải phóng con người, đấu tranh chống các thế lực xuyên tạc, lợi dụng
tôn giáo, đấu tranh thủ tiêu chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới.

12


Nhưng điều đó không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn tôn giáo, không kế thừa
những giá trị nhân bản tốt đẹp trong nó. Theo các ông, muốn thay đổi ý thức
xã hội phải thay đổi tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng ở con người phải
xóa bỏ nguồn gốc làm nảy sinh nhu cầu cần có ảo tưởng; muốn đẩy lùi về ước
mơ thiên đường bên kia, phải kiến tạo được thiên đường ở thế giới hiện hữu.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện
rất rõ trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (tháng 6 năm 2004) của nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Điều 3 như sau:

1. Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng
thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân
gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
2. Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng
đồng, bao gồm đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở tương
tự khác.
3. Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà
nước công nhận.
4. Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo ban đầu
bao gồm ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo
Công giáo, chi hội của đạo Tin Lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự xã,
phường, thị trấn của Phật giáo Hòa Hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo
khác.
5. Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
6. Hội đoàn tôn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập
ra nhằm phục vụ hoạt động tôn giáo.
7. Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt
động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo
được Nhà nước công nhận.
8. Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.

13


9. Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
10. Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.

1.1.2. Về nguồn gốc của tôn giáo
Các nhà lý luận theo trường phái duy tâm thường cho rằng tôn giáo là cái
tự có, thần thánh là cái hữu hiệu ngoài thế giới vật chất hoặc cho rằng tôn giáo
“là thuộc tính vốn có trong ý thức con người mà không lệ thuộc vào hiện thực
khách quan; hay nói cách khác tôn giáo là sản phẩm mang tính nội sinh của ý
thức con người” [104, tr. 6 - 7].
Theo thuyết duy vật mácxít, thì những gì nằm trong ý thức con người,
kể cả tôn giáo, đều là sự phản ánh của thế giới vật chất. Tôn giáo là sự phản
ánh thế giới vật chất vào ý thức con người một cách đặc biệt song cũng không
nằm ngoài quy luật phát triển mang tính lịch sử, một hiện tượng thuộc kiến
trúc thượng tầng. Căn nguyên sự tồn tại của tôn giáo “là sự bất hợp lý trong
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người,
khiến cho các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành một lực lượng có tính
“siêu tự nhiên”, kỳ thị và mù quáng đối với con người” [34, tr. 133]. Lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng để lý giải nguồn gốc ra đời, quá trình hình
thành của tôn giáo.
Về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, trong xã hội nguyên thủy,
do trình độ sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước
thiên nhiên rộng lớn và huyền bí. Vì vậy, họ gán cho tự nhiên sức mạnh và
quyền lực to lớn, thần thánh hóa sức mạnh đó. Đồng thời với sự phụ thuộc
vào thiên nhiên, con người còn gặp phải sự tác động của xã hội như chiến
tranh giữa các bộ lạc,… càng làm gia tăng tâm lý sợ hãi cái chết. Đó là hình
thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo. Theo C. Mác, hiện tượng tôn giáo nguyên
thủy là sản phẩm của nhận thức con người khi con người còn “tối tăm” về bản
thân mình và về thế giới tự nhiên.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh thiên nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những

14



sức mạnh tự phát của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc sự phân hóa
giai cấp và xã hội, của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người lại ảo
tưởng vào “thế giới bên kia”. Sự bần cùng về kinh tế, áp lực về chính trị, nỗi
thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Về nguồn gốc nhận thức của tôn giáo, khả năng nhận thức có giới hạn
của con người về nguyên nhân phát sinh các hiện tượng tự nhiên và bất bình
đẳng xã hội đã dẫn tới sự thừa nhận tồn tại của linh hồn sau khi chết. Cũng
bằng cách hoàn toàn giống như thế, sự nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên
làm nảy sinh vị thần linh đầu tiên. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận
thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa
học có nhiệm vụ khám phá những điều chưa biết. Song khoảng cách giữa
những điều chưa biết và biết luôn luôn tồn tại. Điều gì khoa học chưa giải
thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế
giới khách quan, khái quát hóa thành các khái niệm, quy luật. Nhưng càng
khái quát hóa, trìu tượng hóa, thì sự vật hiện tượng được con người nhận thức
càng có khả năng xa rời hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hóa, cường điệu
hóa của chủ thể nhận thức sẽ dẫn tới thiếu khách quan, mất dần cở sở hiện
thực để trở thành siêu nhân thần thánh. Khi bàn về nguồn gốc của tôn giáo, C.
Mác viết: “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con
người” [58, tr.569 - 570].
Nguồn gốc nhận thức về tâm lý, chính “sự sợ hãi sinh ra thần thánh”,
con người luôn sợ hãi trước sức mạnh huyền bí của tự nhiên và những biến cố
của xã hội đã đẩy họ vào xuống vực thẳm. Khi đã rơi vào trạng thái tuyệt
vọng, thậm chí tiêu cực con người tìm giải thoát ở tôn giáo, tin tưởng có một
lực lượng nào đó quyết định vận mệnh của mình.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội, những
tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, yêu thương trong quan hệ con người

với tự nhiên, con người với con người được thể hiện qua tín ngưỡng tôn giáo.
Tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nhân dân, góp phần

15


bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi
vỗ về, xoa dịu lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế mà tôn giáo dù chỉ là hạnh phúc hư ảo,
song người ta vẫn cần đến nó trong cuộc sống.
Như vậy, nguồn gốc của tôn giáo, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, không
phải là thuộc tính vốn có trong ý thức con người, không phải là cái tự có, tồn
tại bên ngoài thế giới vật chất. Ngược lại, tôn giáo nằm trong thế giới vật chất,
nằm ngoài ý thức con người. Tôn giáo là hiện tượng xã hội xuất hiện bởi
nguồn gốc kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lý. Vì vậy, tôn giáo sẽ mất đi khi
những tồn tại làm cơ sở nảy sinh ra nó không còn nữa, đặc biệt là cơ sở kinh
tế - xã hội. Theo Mác, tôn giáo sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp và áp
bức giai cấp, không còn bất bình đẳng, không còn tồn tại sự bóc lột giữa
người với người; khi mà con người không cần phải “trốn chạy” hiện thực để
tìm nguồn an ủi ở thế giới tâm linh, mà hài lòng với thế giới hiện hữu. Nói
cách khác, tôn giáo chỉ mất đi khi cơ sở kinh tế - xã hội của nó không còn.
Thủ tiêu chế độ bóc lột và xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, đó cũng là
nhiệm vụ của cách mạng.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, cơ sở kinh tế - xã hội không phải là điều
kiện duy nhất làm tiêu vong tôn giáo. Một số học giả cho rằng, đấy là sự hạn
chế lịch sử ở Mác, tiêu biểu như M. Bertrand: “Những người mácxít tin rằng
nhận thức ngày càng phát triển về các quan hệ xã hội, về nhân cách và một
cuộc thay đổi cách mạng về xã hội, có tác động trong đời sống thực tiễn của
con người và lâu dài sẽ thay đổi các trạng thái tinh thần nhưng bằng cách nào
và trong những giới hạn nào thì không thể nói chắc chắn một cách khách
quan” [34, tr. 134 - 135].

1.1.3. Thái độ của đảng mácxít với tôn giáo
Bàn về mối quan hệ giữa đảng mácxít với tôn giáo, cũng như thái độ và
chính sách của chính Đảng đối với tôn giáo là một nội dung được C. Mác, Ph.
Ăngghen và V. Lênin rất quan tâm.

16


Mác và Ăngghen khẳng định cần tách tôn giáo ra khỏi chính quyền để
tránh sự thao túng về quyền lực của các tổ chức tôn giáo “Tách giáo hội ra
khỏi nhà nước và tước đoạt tài sản của tất cả những giáo hội nào là những tập
đoàn hữu sản” [61, tr. 350], phê phán nghiêm khắc chủ trương cấm đoán tôn
giáo, thực hiện quyền tự do tôn giáo cho công dân. Lênin cũng đưa ra quan
điểm của mình: “Tôn giáo phải được tuyên bố là một việc tư nhân, đó là câu
nói mà người ta thường dùng để chỉ thái độ của những người chủ nghĩa xã hội
đối với tôn giáo”. “Nhà nước không dính dáng đến tôn giáo, các đoàn thể tôn
giáo không được dính đến chính quyền nhà nước. Bất kỳ ai cũng được hoàn
toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không thừa nhận một tôn giáo nào”.
“Mọi sự phân biệt quyền lợi giữa những công dân có tín ngưỡng tôn giáo
khác nhau đều hoàn toàn không thể dung thứ được” [49, tr. 169]
Trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo, Lênin phê phán nghiêm khắc ý
định của những nhà chủ nghĩa xã hội cực đoan muốn xóa bỏ tôn giáo bằng sắc
lệnh, bằng sự cấm đoán. Lênin từng phê phán hai khuynh hướng giải quyết
vấn đề tôn giáo: khuynh hướng dùng tuyên truyền thuần túy đấu tranh với tôn
giáo và khuynh hướng tả khuynh vô chính phủ muốn đưa cuộc đấu tranh
chống tôn giáo lên trên cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp. Lênin cho
rằng: “Đấu tranh chống lại các thành kiến tôn giáo thì phải cực kỳ thận trọng;
trong cuộc chiến đấu này, ai làm tổn thương đến tình cảm tôn giáo, người đó
sẽ gây thiệt hại lớn. Cần phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục.
Nếu hành động thô bạo, chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức giận; hành động

như vậy sẽ càng gây thêm chia rẽ trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà
sức mạnh của ta là ở sự đoàn kết” [50, tr. 221]. Vì vậy, đấu tranh với tôn giáo
không có nghĩa là trực tiếp “tấn công” vào thần thánh, “truy kích” thượng đế,
mà đấu tranh với cái thế giới niềm vui tinh thần là tôn giáo, “chỉ đơn giản là
việc thức tỉnh sự tự giác”.
Người cũng chỉ rõ: cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị thắng lợi sẽ tạo
điều kiện cần thiết cho cuộc “cách mạng ý thức” để thủ tiêu toàn bộ tôn giáo.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa cộng sản và Thiên đường mà các tôn giáo hứa

17


hẹn là ở chỗ, tôn giáo hướng con người đến một thế giới trong tưởng tượng
còn những người cộng sản chủ trương xây dựng “thiên đường” ngay trong xã
hội hiện thực và do chính con người tạo ra. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không xúc phạm, không
mưu toan ngăn cản, cấm đoán, không nhằm thủ tiêu quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo: “Cách mạng vô sản nhất định sẽ đạt đến mục đích làm cho tôn giáo
thực sự trở thành một việc tư nhân đối với nhà nước”[49, tr. 175].
Tiếp cận vấn đề tôn giáo trên quan điểm mácxít, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin có một cái nhìn biện chứng về tôn giáo, khắc phục
được những cái nhìn duy tâm thần học về tôn giáo hay duy vật vô thần của
Phơ - bách trước đó. Đó là những đóng góp to lớn, vĩ đại cho lịch sử nhân
loại. Từ đó, tôn giáo được tiếp cận dưới nhiều góc độ, trên mọi bình diện,
đúng như GS. Đỗ Quang Hưng nhận xét: “Công lao lớn của Mác và Ăngghen
là các ông đã đâm thủng tấm bình phong “tôn giáo” để thực sự có một cái
nhìn duy vật biện chứng, đó là việc chuyển phê bình thuần túy tôn giáo thành
việc phê bình thực tại dưới mặt đất, coi đó không phải là chuyện thuần học
trên trời và luận đề con người sáng tạo ra tôn giáo phải trở thành nguyên tắc
tiên quyết cho phương pháp luận mácxít về tôn giáo” [34, tr. 518]. Tôn giáo điều khó hiểu nhất trong những điều khó hiểu của con người, dần được chủ

nghĩa Mác chiếu ánh sáng vào tận góc cạnh của mọi vấn đề:
- Trước hết, nhìn thẳng và chỉ rõ bản chất, nguồn gốc nảy sinh nhu cầu
tôn giáo, đó là sự nghèo nàn, thiếu hiểu biết, sự bất lực không làm chủ được
tự nhiên và xã hội của con người. Do đó, cuộc cách mạng sẽ “làm cho tôn
giáo thực sự trở thành một việc tư nhân đối với nhà nước”[49, tr. 175] và việc
giải quyết vần đề tôn giáo mang ý nghĩa giải phóng con người.
- Sau nữa, chủ nghĩa mácxít cũng khẳng định, phải thấy tôn giáo là một
nhu cầu của một bộ phận nhân loại, như những thực tại xã hội, là một hình
thái ý thức xã hội, không phải là một khái niệm trìu tượng, nằm ngoài khả
năng nhận thức của con người.

18


Song để lý giải cho đầy đủ, biện chứng và khoa học quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, ngoài những ưu điểm kể trên, xuất hiện không
ít những luận điểm giải thích sai lệch, khuynh hướng áp đặt, “tả” khuynh
trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, đó là:
- Nhìn tôn giáo chỉ như một hiện tượng hoàn toàn tiêu cực, “ru ngủ”
quần chúng, làm nhụt ý chí đấu tranh và thậm chí nhìn nhận tôn giáo với tính
chất phản động.
- Từ đó, gắn tôn giáo với chính trị, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh
tôn giáo, đấu tranh giai cấp; làm tổn thương đến các tín đồ tôn giáo và càng
đẩy xa các tín đồ tôn giáo với cuộc cách mạng.
Cùng với thời gian, theo quan điểm của mácxít, tôn giáo dần được
khẳng định: “Là một hình thái ý thức, một thực tại xã hội có nguồn gốc lịch
sử và còn tồn tại lâu dài với xã hội loài người. Tôn giáo, tín ngưỡng là một
nhu cầu (chính đáng) trong hệ thống nhu cầu đời sống của một bộ phận dân
cư mỗi cộng đồng, dân tộc. Tôn giáo là một sự kiện xã hội và văn hóa có tính
phổ biến và đặc thù” [34, tr. 518]. Đối với công tác tôn giáo, các nhà kinh

điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo và không tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, người
cộng sản không tuyên chiến với tôn giáo; khắc phục những hạn chế của tôn
giáo là nhiệm vụ của cuộc cách mạng, là quá trình gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; phân biệt giữa nhu cầu tín ngưỡng tôn
giáo chính đáng của quần chúng nhân dân với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo cho mục đính chính trị.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nói chung
Ở Người có lĩnh hội đầy đủ và sâu sắc cốt lõi quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về tôn giáo, đồng thời cũng tiếp thu những giá trị tốt đẹp của các
tôn giáo. Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa và kỳ diệu mặt tốt đẹp nhất của
con người “trần thế” với các giá trị tư tưởng nhân bản của tôn giáo: “Hình ảnh

19


của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật,
lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình
cảm của một người chủ gia tộc” [24, tr. 19].
Chúng ta dễ dàng nhận ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là: đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn
trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đó cũng chính là tư tưởng xuyên suốt và chủ
đạo của Người về vấn đề tôn giáo thuở sinh thời.
Chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng chủ trương ái mộ
Công giáo, nhằm mục đích khoét sâu mối bất hòa của đồng bào các tôn giáo,
phân biệt giữa bộ phận Kitô giáo và không Kitô giáo. Chống lại âm mưu thâm
độc của thực dân, Chính phủ ta, mà điển hình là Hồ Chí Minh kiên quyết vạch
rõ bộ mặt phản động, lợi dụng tôn giáo của thực dân Pháp. Mặt khác, “Hồ Chí

Minh luôn gắn vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng với độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Quan trọng hơn, Người luôn đặt nó trong và dưới vấn đề đại đoàn kết
dân tộc, phục vụ mục tiêu cứu nước, giành độc lập dân tộc và cũng là điều
kiện tiên quyết cho quyền tự do tôn giáo” [34, tr. 177].
Với tinh thần đoàn kết Lương Giáo, hòa hợp dân tộc, Hồ Chí Minh đã
tập hợp được đông đảo quần chúng, kể cả đồng bào tôn giáo, các tín đồ, chức
sắc tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Người hiểu rằng, sự nghiệp cách
mạng chỉ giành được thắng lợi trọn vẹn khi tập hợp được sức mạnh của cả
dân tộc, của tất cả tín đồ tôn giáo khác nhau, trên cơ sở “đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết”. Người cũng khẳng định khi nào đất nước được độc lập thì các
tín đồ mới được tự do tín ngưỡng: “Toàn thể đồng bào ta, không chia rẽ lương
giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để gìn giữ non sông Tổ quốc
và cũng để gìn giữ tín ngưỡng tự do” [64, tr. 325].
Đóng góp đầu tiên của Hồ Chí Minh sau cách mạng Tháng Tám là việc
khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân và Chính phủ
đảm bảo thực hiện quyền tự do ấy. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 3
tháng 9 năm 1945, trong phiên họp Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đã đề ra Những

20


nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có
đề cập đến vấn đề tôn giáo: “Vấn đề thứ sáu: thực dân phong kiến thực hiện
chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ bề thống trị; Tôi đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết” [63, tr.
9].
Tiếp đến, Chính cương của Mặt trận Liên Việt tại điểm thứ 7, Điều 1:
“Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của mọi người”. Điều này
được ghi trong Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa: “Điều 4. Bảo vệ đền chùa, nhà thờ, trường học, nhà thương và các cơ

quan văn hóa khác… Chính quyền, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tín
ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào”9[65, tr. 152]. Trong lễ công khai
ra mắt Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng
tuyên bố: “Chúng tôi xin nói thêm hai điểm, nói rõ để tránh mọi sự có thể
hiểu lầm: Một là, vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người”[65, tr. 183]. Kế đến là Sắc lệnh
197 - SL do Hồ Chí Minh ký, ngày 19 tháng 12 năm 1953, với những quy
định rất rõ ràng về phần tài sản thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tôn giáo,
khẳng định Chính phủ không chỉ tôn trọng mà còn đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Vào thời điểm năm 1954, các thế lực thù địch và tay sai ra sức dụ dỗ
cưỡng ép đồng bào Công giáo di cư từ Bắc và Nam. Nhiều đồng bào do bị
địch lừa phỉnh và do không hiểu rõ đường lối chính sách tôn giáo của Chính
phủ cách mạng, nên đã nghe theo địch. Trước tình hình đó, Hồ Chủ Tịch đã
viết nhiều bài báo nói rõ quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo. Trong Thư
chúc mừng đồng bào Công giáo trong dịp Noen (1954), Người một lần nữa
khẳng định: “Tôi xin nhắc lại cho đồng bào rõ: Chính phủ ta thật thà tôn trọng
tín ngưỡng tự do. Đối với những giáo hữu đã nhầm di cư vào Nam, Chính phủ
đã ra lệnh cho địa phương giữ gìn cẩn thận ruộng vườn, tài sản của những
đồng bào ấy và sẽ giao trả lại cho những người trở về” [103, tr. 38].

21


Thêm một bước tiến, ngày 14 tháng 6 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo. Điều 1 của Sắc lệnh khẳng định:
“Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân.
Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có
quyền tự do theo một tôn giáo nào hoặc không theo một tôn giáo nào”. Đồng
thời chỉ rõ: “Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo cho tín

đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền
nhân dân và pháp luật Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Sắc lệnh 234/SL ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện rõ quan
điểm của chế độ ta đối với vấn đề tôn giáo. Nhất là đối với đồng bào có tôn
giáo càng thêm vững tâm đi theo cách mạng, tránh tâm lý hoài nghi, lo sợ
cách mạng sẽ thủ tiêu tôn giáo. Ngược lại, Chính phủ cách mạng còn bảo hộ
cho tôn giáo được hoạt động một cách bình đẳng.
Người luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo ở mỗi tín đồ, bản thân Người có
sự dung hòa tuyệt vời giữa các thành phần tôn giáo và lý tưởng, không hề có
xung đột, mâu thuẫn hay “kẻ thù cá nhân”. Qua thư từ gửi cho đồng bào các
tôn giáo, cũng như thư từ trao đổi với các chức sắc. Người tập trung khơi dậy
tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của mỗi cá nhân; thức tỉnh ý thức tự tôn
dân tộc trong mỗi con người Việt Nam, dù có đức tin khác nhau. Vì vậy,
Đồng bào tôn giáo vẫn dành tình cảm đặc biệt đối với Hồ Chí Minh, không
đơn thuần là tình cảm dành cho một vị lãnh tụ, mà hơn thế, đó là sự kính
trọng, yêu quý dành cho một con người cả đời đấu tranh vì độc lập cho dân
tộc và vì quyền tự do cho con người, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo tín
ngưỡng. Hồ Chí Minh vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với đồng bào các tôn giáo
và thu hút được các thành phần ủng hộ cách mạng, cụ thể có thể kể đến những
người như: Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng, Phạm Bá Trực.
Đặc biệt hai Giám mục Hồ Ngọc Cẩn và Lê Hữu Từ còn được Chủ Tịch Hồ
Chí Minh mời làm cố vấn trong Chính phủ. Hay người của Phật giáo Hòa Hảo
như Huỳnh Văn Trí, người đạo Cao Đài như Cao Triều Phát, với những người
Nho giáo như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố,
người Tây học như Phan Anh, Hồ Đắc Điểm. Về thái độ của Hồ Chí Minh với

22


đồng bào tôn giáo, ngay đến Xanh Tơni, một đại diện của Chính phủ Pháp ở

Việt Nam thời kỳ năm 1945 đến năm 1947 cũng phải thừa nhận: “Về phần
tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi các chương trình
của Cụ Hồ một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi hoặc chế
giễu một tôn giáo bất kỳ nào” [13, tr. 13].
Vượt lên trên sự kỳ thị tôn giáo, Hồ Chí Minh thấy ở các ý thức hệ và
tôn giáo khác nhau có nhiều điểm tương đồng: “Học thuyết của Khổng Tử có
ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm
của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương
pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính
sách của nó phù hợp với nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng
có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người,
mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp
lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị
ấy”[83, tr. 45]. Điều này thể hiện rất rõ quan điểm tôn trọng sự khác biệt, đề
cao tính tương đồng. Người luôn tìm thấy mẫu số chung làm nền tảng cho tư
tưởng đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo là độc lập dân tộc, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, mọi người đều có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, vừa kính Chúa vừa yêu nước, phụng sự Tổ quốc và phục sự nhân
dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, một người dân Việt Nam có thể vừa
là một người dân Việt Nam yêu nước, đồng thời cũng là một tín đồ chân
chính. Đối với một người có tôn giáo thì đức tin tôn giáo và lòng yêu nước
không hề mâu thuẫn với nhau. “Đức Phật đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn,
muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải đấu tranh diệt lũ ác ma.
Nay đồng bào ta đoàn kết hi sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng
để đánh tan bọn thực dân phản động, để cứu dân ra khỏi khổ nạn, để giữ
quyền thống nhất và độc lập Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại
bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô
lệ”[64, tr. 197]. Còn “Chúa Cơ Đốc hi sinh để cứu loài người khỏi ách nô lệ
và đưa loài người về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do. Chúng ta kháng


23


chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm
cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là việc của Chính phủ và
nhân dân ta làm đều hợp với tinh thần Phúc Âm”[64, tr. 197]
Hồ Chí Minh tìm cách kéo đồng bào tôn giáo đứng về phía dân tộc, để
các tín đồ hiểu rằng dù thuộc các tôn giáo khác nhau nhưng trước hết họ đều
là con Lạc, cháu Rồng. Người luôn tin tưởng: “Tôi cũng không bao giờ nghi
ngờ rằng đồng bào Công giáo chống Việt Minh, vì hơn ai hết, đồng bào Công
giáo càng mong cho Tổ quốc độc lập, cho tôn giáo hoàn toàn tự do; và tôi
chắc ai cũng tuân theo khẩu hiệu: Phụng sự Thượng đế và Tổ quốc” [81, tr.
72]; Đồng thời lý giải cho đồng bào hiểu tôn giáo không đối lập với Tổ quốc,
không đối lập với lý tưởng Cộng sản, trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ
ngày 2 tháng 3 năm 1947, Người viết: “Đường lối của Chính phủ gồm ba mục
tiêu sau đây:
1. Giải phóng nhân dân khỏi đói rét (khổ sở) và khỏi dốt
2. Đem lại cho nhân dân tự do, tự do sống và tự do tín ngưỡng.
3. Bảo vệ nền độc lập Tổ quốc.
Nếu Cộng sản thực hiện những việc trên đây thì tôi tin chắc rằng mọi
người sẽ chấp nhận thứ Cộng sản đó”[86, tr. 75]. Người khẳng định: Làm
cách mạng để cứu nước, cũng là để cứu mình, để được tự do thờ phụng, cúng
lễ, cầu nguyện, xây dựng cuộc sống thanh bình ấm no hạnh phúc cũng là làm
theo mong muốn của Đức Chúa, Đức Phật. Và chỉ có cách mạng mới đem lại
cơm no áo ấm cho đồng bào, mới đảm bảo cho đồng bào tự do sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo. Nước được độc lập thì tôn giáo mới được tự do, nước có
vinh thì đạo mới sáng. Chính tấm gương sáng ngời của Hồ Chí Minh, từ lời
nói, thái độ đến việc làm trong thực tiễn của Người, đã làm cho các tín đồ,
chức sắc tôn giáo tin tưởng vào Chính phủ cách mạng, giải tỏa tâm lý băn

khoăn, mặc cảm của đồng bào tôn giáo, đồng thời đập tan luận điệu xuyên tạc
của kẻ thù.
Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục
cán bộ làm công tác tôn giáo. Trong Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ
về công tác Mặt trận, Người dặn dò: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào

24


×