Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước với việc quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.88 KB, 16 trang )













LUẬN VĂN:
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước với việc quản lý và kinh doanh của
doanh nghiệp







Lời nói đầu
Trong những năm gần đây, với nhận thức về vai trò quan trọng của các thành phần
kinh tế, trong đó các doanh nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế đất nước là bộ phận chủ yếu cấu thành nền kinh tế quốc dân đã phát triển rộng
khắp cả nước, đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội
vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách
Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Trước tình hình đó
Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp và chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi


cho sự phát triển các loại hình doanh nghiệp này. Việc ban hành "luật doanh nghiệp"
ngày 12 tháng 6 năm 1999 theo các đánh giá của xã hội và của các nhà kinh doanh, được
coi là một bước cải cách có ý nghĩa lớn của Đảng và Nhà nước, góp phần cải thiện một
cách đáng kể môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta.
Tuy nhiên, các loại hình doanh nghiệp ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém
như: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, Còn nhiều
khó khăn, vướng mắc về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội. Do vậy, để tạo
điều kiện cho kinh tế doanh nghiệp tiếp tục phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa
và có những đóng góp to lớn hơn cho nền kinh tế đất nước thì không thể thiếu đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là công
cụ hữu hiệu trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế nói chung và kinh tế doanh
nghiệp nói riêng.
Kết cấu tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 3 chương.
Chương I: Quản lý Nhà nước đến doanh nghiệp
Chương II: Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước với việc quản lý và kinh
doanh của doanh nghiệp
Chương III: Quan điểm, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển các
doanh nghiệp




Chương I
Quản lý Nhà nước đến doanh nghiệp
I. khái niệm và sự cân thiết phải quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
1. Khái niệm doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua năm 1999 thì doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.

2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
+ Khai thác mọi nguồn tiềm năng nội bộ trong nước và ngoài nước, ứng dụng khoa
học công nghệ, tổ chức sản xuất và quản lý tiên tiến để tạo ngày càng nhiều sản phẩm
dịch vụ đa dạng chất lượng cao, giá thành hạ nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.
+ Hạch toán kinh tế bảo đảm kinh doanh có lãi.
+ Làm tròn nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp ngân sách theo pháp luật.
+ Nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn đảm bảo việc làm, không ngừng cải
thiện đời sống người lao động.
+ Bảo vệ tài nguyên môi trường, giữ vững an ninh chính trị làm tròn nghĩa vụ quốc
phòng.
+ Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản, là tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi
trực tiếp quản lý và sử dụng các nguồn nhân lực sản xuât, nơi trực tiếp thử nghiệm và
thực hiện mọi chủ trương chính sách kinh tế xã hội của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nơi giải quyết việc làm đào tạo con người.
+ Doanh nghiệp là nơi sản xuất hàng hoá, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ và mọi
của cải vật chất, nơi gắn sản xuất với thị trường, nơi tạo ra nguồn tích luỹ cho ngân sách
và để tái sản xuất cho doanh nghiệp.



3. Sự cần thiết quản lý Nhà nước đến với doanh nghiệp.
3.1. Do doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta nên
Nhà nước cần quản lý đối với doanh nghiệp nhằm đảm bảo :
+ Hoạt động của doanh nghiệp theo định hướng của kế hoạch Nhà nước.
+ Hạn chế hoạt động tự phát, cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế rủi ro, sự phá
sản của doanh nghiệp.
+ Hoạt động đúng pháp luật, thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản và phát huy vai
trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Trong cơ chế thị trường doanh nghiệp được quyền tự chủ kinh doanh không có

nghĩa là doanh nghiệp hoạt động tự do hoàn toàn theo sự chi phối thị trường, mà phải
trong khuôn khổ pháp luật trong sự quản lý vĩ mô của Nhà nước ở tất cả mọi khâu thực
hiện quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cạnh tranh lẫn nhau. Trong khi đó thị
trường của ta hiện nay lại chưa hình thành toàn diện doanh nghiệp quốc doanh hiện nay
đã có nhiều biểu hiện lỗi thời, phải tổ chức lại, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì bung
ra tự phát vô tổ chức, có nhiều tiêu cực mà Nhà nước chưa kiểm soát nổi nhiều lĩnh vực
thị trường chưa phát triển như thị trường vốn, thị chường chứng khoán, thị trường lao
động Tình trạng độc quyền của nhiều cơ sở quốc doanh, cạnh tranh phi pháp luật.
3.2. Vai trò và chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp thể hiện trong
việc giải quyết những vấn đề sau:
+ Làm thế nào để các doanh nghiệp có đủ sức vươn lên, phát huy được vai trò quan
trọng của nền kinh tế trong điều kiện thị trường còn kém phát triển.
+ Làm thế nào Nhà nước có thể kiểm soát hữu hiệu các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đang bung ra hoạt động chủ yếu theo hướng tự phát hết sức phức tạp.
+ Nhà nước tác động như thế nào để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho
doanh nghiệp ở mức cao nhất ngoài sự vận động chính bản thân doanh nghiệp.
+ Các hình thức xử lý khi mỗi doanh nghiệp gặp rủi ro có thể dẫn đến phá sản, nhất
là hậu quả kèm theo về mặt xã hội.



Sự quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp thông qua thị trường không có nghĩa
là xem thường các quy luật và yếu tố tác động khách quan của thị trường, mà ngược lại
phải nhận thức và vận dụng tự giác, linh hoạt những quy luật, yếu tố đó cho phù hợp với
thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng nơi, từng vùng, từng địa phương nhất
định.




Chương II
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước với việc quản lý và kinh doanh của
doanh nghiệp
I. Chính sách thương mại
1. Những cải cách chính sách thương mại
Chính sách "mở cửa" thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những
yếu tố quan trọng trong việc đổi mới kinh tế, góp phần vào sự phát triển nhanh chóng
nền kinh tế. Các biện pháp đổi mới chủ yếu có liên quan đến thương mại quốc tế và đầu
tư trực tiếp nước ngoài được áp dụng như bộ phận cho quá trình đổi mới kinh tế, gồm các
biện pháp như: ban hành và sửa đổi bổ sung luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy định
các loại thuế xuất khẩu nhập khẩu đặc biệt gần đây nhất chính phủ ra Nghị định
57/1998/NĐ - CP ngày 31/7/1998 được ban hành để hướng dẫn chi tiết thi hành luật
thương mại trong các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng
hoá với nước ngoài. Theo Nghị định này tất cả các loại hình doanh nghiệp được tham gia
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong phạm vi giấy phép kinh doanh mà không cần phải
có giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
2. Những điều kiện mới cho việc tham gia xuất nhập khẩu
Nhờ có những chính sách cải cách kinh tế, kể từ năm 1991 cho đến nay nhiều doanh
nghiệp đã được phép xuất khẩu các sản phẩm do chính họ sản xuất và đã được phép nhập
khẩu các đầu vào trung gian cần thiết cho quá trình sản xuất của mình. Nghị định
57/1998/NĐ - CP Là một bước tiến lớn trong quá trình tự do hóa thương mại mà Đảng
và Nhà nước đã tạo ra cho tất cả các doanh nghiệp.
Trước đây khi chưa có Nghị định 57 của Chính phủ các doanh nghiệp không đáp
ứng các điều kiện về xuất nhập khẩu, nếu muốn xuất khẩu sản phẩm của mình thì phải uỷ
thác thông qua các doanh nghiệp được phép chuyên doanh xuất nhập khẩu.Tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà các khoản phí dịch vụ xuất khẩu mà doanh nghiệp không được
phép xuất khẩu trả cho doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu dao động từ 5% đến
10% và doanh nghiệp uỷ thác xuất khẩu còn chịu nhiều rủi ro do bị tiết lộ thông tin mật




về hợp đồng thương mại của mình hoặc bị doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu
chiếm luôn đối tác kinh doanh.
3. Kiểm soát thương mại phi thuế quan
Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng cách ban hành danh mục các mặt hàng cấm
nhập khẩu, có điều kiện theo hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu. Đôi khi, chính phủ
còn ban hành danh mục các mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu.
Trong năm 1997 - 1998 hoàn thiện cơ cấu ngoại thương theo hướng khuyến khích
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Chính sách tự do hoá xuất khẩu, nhập khẩu được phản
ánh trong nghị quyết IV Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện chính sách này, Chính phủ đã cố gắng nới lỏng các hạn chế về xuất khẩu
bằng một loạt các biện pháp. Trước tiên chính phủ cho phép các tổ chức được phép xuất
khẩu mọi mặt hàng không thuộc diện bị kiểm soát, Quyết định 55/1998/QĐTTG của Thủ
tướng Chính phủ cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được xuất
khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh mà không cần giấy phép xuất
nhập khẩu.
4. Kiểm soát ngoại hối:
Ngoại tệ là huyết mạch của hoạt động ngoại thương và đầu tư trong phạm vi mà
máy móc, thiết bị, linh kiện, công nghệ, và các sản phẩm trung gian khác cần phải nhập
khẩu từ nước ngoài. Nếu không có ngoại tệ, thì doanh nghiệp trong thực tế không thể tiếp
cận với thị trường quốc tế để có sản phẩm nhập khẩu cần thiết. Do đó, việc kiểm soát
ngoại tệ thắt chặt gần đây lại có tác động tiêu cực tới khả năng tiếp cận thị trường quốc tế
của doanh nghiệp.
Việc kiểm soát ngoại hối được ghi nhậ trong quyết định 175. Nhưng các biện pháp
gần như không thực hiện. Theo ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp trong thực tế đều
không bản ngoại tệ cho các Ngân hàng vì các doanh nghiệp không biết chắc liệu họ có
thể mua lại ngoại tệ khi cần hay không do cả các biện pháp kiểm soát và vì nếu được
phép mua ngoại tệ họ sẽ phải trả giá cao hơn.
Như vậy việc sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu và thanh toán cho các nhân tố sản xuất
còn bị hạn chế và không đảm bảo độ tin cậy chắc chắn đối với cả các doanh nghiệp.




5. Kiểm soát xuất nhập khẩu bằng các biện pháp thuế quan
Thuế xuất nhập khẩu là cơ chế chủ yếu để điều tiết hoạt động thương mại và sự vận
hành của nền kinh tế. Đối với Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế kém phát
triển, thuế xuất nhập khẩu là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách, nét đặc trưng của
thuế xuất nhập khẩu Việt Nam là thuế xuất nhập khẩu có xu hướng tăng lên ở mức rất
cao và tỏ ra rất phức tạp, số lượng thuế xuất nhập khẩu tối đa của Việt Nam còn cao hơn
rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Trên lý thuyết thuế nhập khẩu cao được sử
dụng làm cơ chế bảo hộ công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh tranh từ nước ngoài.
Nhưng trên thực tế. các ngành công nghiệp dự kiến được bảo hộ lại không được bảo hộ vì
các hàng rào thuế quan cao đã làm cho các ngành công nghiệp ít có khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế vì rốt cuộc ngành công nghiệp này sẽ lại phải cạnh tranh với hàng
nhập lậu của nước ngoài, bởi vì thuế quan cao chính là nguyên nhân làm cho nạn buôn
lậu tấn công.
Như vậy, việc bảo hộ bằng hàng rào thuế quan cao hoàn toàn không đem lại lợi ích
cho các doanh nghiệp trong nước. Vì thế cách duy nhất để giảm nguy cơ cạnh tranh với
hàng lậu bằng cách giảm mức thuế quan xuống bằng hoặc thấp hơn mức thuế quan hiện
đang được áp dụng phổ biến ở các nước trong khu vực. Hơn nửa việc giảm mức “bảo hộ”
bằng thuế quan cao còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng có
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
II. chính sách tiền tệ tín dụng
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam nhận được sự đánh giá cao của
cộng đồng tài chính quốc tế về các biện pháp quản lý vĩ mô hợp lý, việc ban hành các
loại thuế mới kết hợp với chính sách “mở cửa” thương mại và đầu tư, Việt Nam đã được
mức tăng trưởng cao với tỷ lệ lạm phát thấp. Điều này đã đem lại lợi ích cho tất cả cách
ngành và các doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành có liên quan đến chính sách tín dụng các doanh nghiệp, kể
cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có thể tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng. Tuy

nhiên do những hạn chế trong các thể lệ tín dụng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
không thể tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng để thành lập cơ sở kinh doanh mới của
mình. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng tài sản



thế chấp từ những khó khăn trong việc sử dụng tài sản thế chấp từ những khó khăn trong
việc xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thủ tục định giá tài sản cầm cố. Điều này
có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
III. Chính sách thuế
Chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường và trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực. Thuế là một nguồn thu
chủ yếu của ngân sách Nhà nước hiện nay.
Việt Nam thi hành thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp từ ngày 01/01/1999 là
một bước ngoặt đáng kể của hệ thống chính sách nước ta. Việc áp dụng thuế VAT khắc
phục được sự trùng lặp của thuế doanh thu và thuế thu nhập thay cho thuế lợi tức, mở
rộng thêm nguồn thu cho ngân sách.
Tuy nhiên với việc thực hiện hai luật thuế trên qua thực tế các doanh nghiệp cho
biết, doanh nghiệp nào có thuế doanh thu từ 1% - 4% nay áp dụng thuế VAT 10% thì
không thay đổi mức thuế phải nộp, doanh nghiệp nào có thuế doanh thu lớn hơn hoặc
bằng 8% nay áp dụng thuế VAT 10% thì cơ hội hơn.
Thuế VAT chỉ áp dụng được với doanh nghiệp nào có hoạt động ghi chép sổ sách
kế toán sử dụng hoá đơn chứng từ theo quy định chặt chẽ của pháp luật, trong khi đó các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ khó đảm bảo được yêu cầu này. Nhưng nếu không đáp ứng
được yêu cầu đó thì các doanh nghiệp nhỏ vẫn phải chịu áp dụng một mức thuế khác biệt
tính tiền tổng. Việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thu nhập chịu thuế
của doanh nghiệp bao quát có lợi cho Nhà nước, nhưng các căn cứ tính thuế nhìn chung
vẫn phức tạp, rườm rà. Trong hệ thống thuế mới các ưu đãi về thuế vẫn chưa áp dụng về
mặt quy mô, nghĩa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn phải nộp thuế như doanh nghiệp
lớn.

Hiện nay ở Việt Nam, áp dụng một loại thuế suất duy nhất cho lợi nhuận của tất cả
các doanh nghiệp không phân biệt phương thức và bản chất kinh doanh, với mức thuế
thống nhát là 32%.
Từ những phân tích về thuế ở trên có thể nói rằng đối với các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ cần được có chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế trong thời gian tới.



IV. chính sách đất đai
Việc cải cách đất đai có ảnh hưởng quan trọng đối với phát triển công nghệ và các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyền sử dụng đất được thể chế hoá và được xác nhận
bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy này có thể sử dụng làm vật thế chấp cho
các khoản vốn vay và tín dụng. Việc công nhận quyền sử dụng đất còn tuỳ thuộc vào
thẩm quyền sử dụng còn tuỳ thuộc vào thẩm quyền của các cấp chính quyền. Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất có ảnh hưởng quan trọng đến các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Hiện tại có rất ít các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
giấy chứng nhận này.
Những tồn tại của vấn đề đất đai như quy hoạch quyền sử dụng đất, thuế đất, đánh
giá giá trị thị trường của đất, giao đất, thuê đất, khai thông vấn đề đất đai còn giúp lành
mạnh hoạt động tín dụng.
Tóm lại, các vấn đề liên quan đến đất đai đang là một thách thức lớn đối với doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
+ Rất khó có được đất dùng cho mục đích đầu tư.
+ Hệ thống xét duyệt của Chính phủ đối với việc thực hiện các quyền sử dụng đất là
phức tạp và rắc rối, không có hiệu quả kinh tế và tạo cơ hội cho các hành vi trục lợi và
các hành vi lạm dụng khác.
+ Nếu các quyền sử dụng đất phục vụ cho các mục đích thương mại và công nghiệp
không được quy định một cách rõ ràng và các điều kiện dùng đất để thế chấp không được
nới lỏng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể phát triển một cách đúng đắn.
Hiện nay các doanh nghiệp này đang buộc phải thực hiện các thủ tục và quy định không

rõ ràng và đôi khi đã có những hoạt động vi phạm pháp luật.
V. Chính sách về công nghệ và đào tạo
Điều trước tiên mà các doanh nghiệp đều biết là khi tham gia vào thị trường quốc tế
thì phải có công nghệ hiện đại, để có thể nâng cao hiệu khả năng cạnh tranh và chất
lượng sản phẩm. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang phải sử dụng công nghệ hết
sức lạc hậu, tụt hậu so với mức công nghệ trung bình trên thế giới từ 3 đến 4 thế hệ. Hơn



nữa những kiến thức và kỹ năng chuyên môn của người lao động Việt Nam không đủ cao
để làm chủ được công nghệ hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực và trình độ công nghệ là yếu tố
quyết định cho sự phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến chính
sách đào tạo và chính sách công nghệ mà Đảng và Nhà nước đã có những chính sách để
thực hiện vấn đề này.



Chương III
Quan điểm, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp
I. Quan điểm của đảng và Nhà nước về việc phát triển doanh nghiệp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986)
đã đánh một dấu mốc quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới
đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế mới của Đảng và
Nhà nước, các doanh nghiệp được hồi sinh và phát triển trong một nền kinh tế hoạt động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đường
lối, chính sách và cơ sở pháp lý tạo đủ các điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Trên thực tế trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế vừa qua sự phát triển của các doanh
nghiệp đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, tạo
thêm nhiều việc làm tăng nguồn thu cho ngân sách kinh tế mới do Đảng và Nhà nước

khởi xướng là hoàn toán đúng đắn. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần làm rõ thêm về quan
điểm chính sách và nhất là tìm ra các giải pháp phát triển doanh nghiệp vì mục tiêu phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới - giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
II. sự phát triển của các doanh nghiệp và những trở ngại
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát
triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác nhau đan xen nhau. Tạo nên sự đa dạng
trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ. Trong đó các doanh nghiệp đã và sẽ
đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Trong công cuộc đổi mới
kinh tế vừa qua ở Việt Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã coi trọng sự phát triển của các doanh nghiệp và điều đó đã
đem lại những thành công đáng kể.
Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vẫn còn nhiều tồn
tại và vướng mắc. Trong các cấp lãnh đạo và quản lý Nhà nước về chủ trương, chính sách
còn thể hiện sự phân biệt đối xử, dành lợi thế cho các doanh nghiệp Nhà nước gây phiền
hà cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.



Những hạn chế nói trên đã gây ra nhiều hậu quả: Sự hoài nghi về tính nhất quán của
chủ trương, đường lối chính sách với việc tổ chức thực hiện, giữa lời nói và việc làm ,
chưa tạo được lòng tin vững chắc cho nhà doanh nghiệp và sự đồng thuận xã hội đối với
đường lối chủ trương của Đảng. Vì vậy muốn cho các thành phần kinh tế trong đó có
doanh nghiệp phát triển lâu dài và ổn định thì Đảng và Nhà nước phải đưa ra chủ trương,
chính sách cụ thể sát hợp với thực tế, loại bỏ những chính sách quy định không còn phù
hợp Tạo môi trường pháp lý và môi trường kinh tế xã hội lành mạnh cho các hình thức
kinh tế phát triển.
III. phương hướng và giải pháp phát triển
1. Phương hướng phát triển

Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước có nghĩa là chuyển dịch
nền kinh tế của đất nước từ nông nghiệp sang công nghiệp nâng cao tỷ trọng các ngành
sản xuất công nghiệp theo các chỉ tiêu về giá trị sản xuất về tỷ trọng lao động công
nghiệp Muốn thực hiện được các mục tiêu này cần phải khuyến khích đầu tư nhiều hơn
cả chiều rộng lẫn chiều sâu cho phát triển công nghiệp xuất phát từ các mục tiêu, nhiệm
vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, đồng thời tính đến các đặc điểm về quy mô của các
doanh nghiệp mà khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu vực, lĩnh vực sau:
- Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
- Nhóm ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động như ngành dệt, may, giầy da,
phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
- Nhóm ngành cơ khí chế tạo phục vụ sản xuất nông, ngư nghiệp như sản xuất máy
cày, máy kéo máy xay xát, Đây chính là những ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho sản
xuất nông nghiệp.
- Nhóm ngành tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ xuất khẩu



2. Giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp
2.1. Giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp lý
Từ khi vận dụng các chính sách đổi mới kinh tế đến nay đã hình thành một hệ thống
pháp lý điều chỉnh và chi phối các hoạt động của các khu vực kinh tế bao gồm hệ thống
luật pháp và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, cho đến nay hệ thống văn bản pháp lý liên
quan đến các hoạt động của các pháp nhân kinh tế vẫn chưa được thống nhất và còn
phân biệt thu hinh thức sở hữu. Chẳng hạn, doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật
doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã, doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động theo luật doanh nghiệp và
Nghị định chính.
Do có các luật khác nhau cho các pháp nhân kinh tế thuộc các hình thức sở hữu
khác nhau nên đã làm cho quan điểm về sự bình đẳng trước pháp luật giữa các khu vực

kinh tế không được phản ánh một cách đúng mức và đầy đủ. Đây là một trong những trở
ngại trong việc phát huy các nguồn lực cho phát triển hiện nay. Như vậy giải pháp về
hoàn thiện môi trường pháp lý trước tiên là phải tiến tới ban hành một luật doanh nghiệp
chung cho mọi khu vực kinh tế, chi phối và điểu chỉnh hoạt động của các pháp nhân kinh
tế không phụ thuộc vào hình thức sở hữu để đảm bảo cho chúng cùng tồn tại, phát triển
và bình đẳng trước pháp luật.
Để đảm bảo cho sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, trong đó có doanh nghiệp
ngoài việc có một luật doanh nghiệp chung cần có thêm đạo luật về chống độc quyền
trong kinh doanh, và đạo luật bảo vệ quyền sở hữu. Hai đạo luật này ra đời sẽ thể
hiệnđầy đủ đường lối kinh tế đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời để cho các doanh
nghiệp yên tâm bỏ vốn đầu tư lâu dài phục vụ chiến lược phát triển theo hướng công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Để hoàn thiện về quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp thì phải hoàn thiện cơ
sở pháp lý tinh giản thủ tục đăng ký kinh doanh, củng cố hệ thống tổ giám sát hoạt động
của doanh nghiệp liên quan đến 3 cơ quan quản lý Nhà nước trước tiên là ngành kế hoạch
và đầu tư, ngành thuế và ngành ngân hàng.



2.2. Biện pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Muốn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất chế biến, đầu tư
thiết bị công nghệ hiện đại cần phải có các chính sách ưu đãi, bao gồm: Chính sách tín
dụng ngân hàng như hỗ trợ thông qua tín dụng trung hạn dài hạn, chính sách thuế khuyến
khích đầu tư bằng việc miễn giảm thuế cho các ngành công nghiệp truyền thống của các
địa phương, những ngành thu hút nhiều lao động, chính sách khuyến khích sản xuất hàng
xuất khẩu, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
2.3. Biện pháp hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực
Hiện nay các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có trình độ
quản lý thấp kém, đội ngũ công nhân tay nghề thấp nên gặp nhiều khó khăn trong tổ chức

sản xuất, kinh doanh, tiếp cận thị trường thế giới, tiếp cận công nghệ, kỹ thuật mới. Do
đó, Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp. Cần có sự nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo thích hợp với từng quy mô
doanh nghiệp khác nhau.



mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I
Quản lý Nhà nước đến doanh nghiệp 3
I. khái niệm và sự cân thiết phải quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp 3
1. Khái niệm doanh nghiệp 3
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 3
3. Sự cần thiết quản lý Nhà nước đến với doanh nghiệp. 4
Chương II
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước với việc quản lý và kinh doanh của
doanh nghiệp 6
I. Chính sách thương mại 6
1. Những cải cách chính sách thương mại 6
2. Những điều kiện mới cho việc tham gia xuất nhập khẩu 6
3. Kiểm soát thương mại phi thuế quan 7
4. Kiểm soát ngoại hối: 7
5. Kiểm soát xuất nhập khẩu bằng các biện pháp thuế quan 8
II. chính sách tiền tệ tín dụng 8
III. Chính sách thuế 9
IV. chính sách đất đai 10
V. Chính sách về công nghệ và đào tạo 10
Chương III
Quan điểm, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp

12
I. Quan điểm của đảng và Nhà nước về việc phát triển doanh nghiệp 12
II. sự phát triển của các doanh nghiệp và những trở ngại 12
III. phương hướng và giải pháp phát triển 13
1. Phương hướng phát triển 13
2. Giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp 14


×