Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử quốc hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ PHƯƠNG HIỀN

ĐẢM BẢO TÍNH CẠNH TRANH TRONG
BẦU CỬ QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ PHƯƠNG HIỀN

ĐẢM BẢO TÍNH CẠNH TRANH TRONG
BẦU CỬ QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. LƯU VĂN QUẢNG

HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
Chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về bầu cử và tính cạnh tranh
trong bầu cử

10

1.1

Bầu cử và chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị

10

1.2

Tính cạnh tranh trong bầu cử


25

Chương 2 Tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội ở Việt
Nam hiện nay

39

2.1

Các nguyên tắc bầu cử Quốc hội ở Việt Nam

40

2.2

Tính cạnh tranh trong giới thiệu và lập danh sách ứng cử viên

45

2.3

Tính cạnh tranh trong quá trình vận động bầu cử

60

2.4

Tính cạnh tranh trong việc phân chia đơn vị bầu cử và hoạt
động của các tổ chức phụ trách bầu cử


Chương 3 Những vấn đề đặt ra và một số kiến nghị nhằm đảm bảo
tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
3.1

3.2

Những vấn đề đặt ra đối với việc đảm bảo tính cạnh tranh trong
bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay

73

88
88

98

KẾT LUẬN

119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

121

PHỤ LỤC

131


3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ĐBQH: Đại biểu Quốc hội
LBCĐBQH: Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
TTĐC: Thông tin đại chúng
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBTƯMTTQ: Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền chính trị hiện đại, bầu cử đóng một vị trí rất quan trọng, là sự
kiện chính trị đặc biệt đối với tất cả các quốc gia, nhất là trong xu hướng dân
chủ hóa hiện nay. Xã hội càng phát triển, dân chủ càng được mở rộng cả về
nội dung và hình thức. Mặc dù có nhiều cơ chế khác nhau để thực thi dân chủ
nhưng thực tế lịch sử chính trị cho thấy bầu cử vẫn là cơ chế chủ đạo và hiệu
quả nhất. Nhìn vào hoạt động bầu cử, có thể hiểu được tính chất dân chủ và sự
vận hành của hệ thống chính trị nước đó. Vì vậy, bầu cử được coi là trụ cột
trong cấu trúc dân chủ ở bất kỳ nhà nước nào, “bầu cử tự do và công bằng là
trái tim của dân chủ” đúng như Jame A.Baker - một chuyên gia nghiên cứu về
bầu cử đã nhận định. Với ý nghĩa đó, một cuộc bầu cử dân chủ phải đáp ứng
được rất nhiều tiêu chí mang tính phổ biến của nền chính trị hiện đại. Trong
đó, tính cạnh tranh là một tiêu chí quan trọng.
Từ khi lập nước đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trưởng thành qua mười

ba khóa tương ứng với mười ba cuộc bầu cử ĐBQH. Nhìn chung, trong những
cuộc bầu cử Quốc hội gần đây, cùng với việc hoàn thiện luật bầu cử, cách thức
tổ chức bầu cử đã có nhiều đổi mới và được tiến hành theo hướng dân chủ hơn.
Điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội, cũng như chủ trương
đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân. Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, hệ thống bầu cử Quốc hội ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế ở cả mặt
pháp lý và quá trình tổ chức thực hiện. Trong đó, tính cạnh tranh tuy đã được thể
hiện trong các công đoạn của quá trình bầu cử, từ khâu lựa chọn nhân sự, phân
chia đơn vị bầu cử đến vận động bầu cử, nhưng nhìn chung còn khá mờ nhạt.
1


Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dân chủ của cuộc bầu cử, đến chất lượng đại
biểu được bầu, làm giảm sự kết nối giữa người dân và các đại diện… Hơn nữa,
để đáp ứng mục tiêu “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất…” như tinh thần của Đại hội Đảng XI; muốn Quốc hội
chuyển từ cơ chế hoạt động nặng về “tham luận” sang cơ chế “tranh luận”,
chuyển chất vấn “dĩ hòa vi quý” sang chất vấn “truy kích” thì cần phải đổi mới
tư duy từ những vấn đề mang tính nguyên lý, tức là cần đổi mới từ “gốc”. Muốn
có một Quốc hội thực sự sôi động trong hoạt động, chế độ bầu cử Quốc hội phải
đảm bảo tính cạnh tranh. Do đó, đổi mới cơ chế bầu cử Quốc hội theo hướng
đảm bảo tính cạnh tranh, sẽ là tiền đề cho việc đổi mới hoạt động của cơ quan
đại diện và bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, vấn đề cạnh tranh trong bầu cử ở Việt Nam hiện nay vừa là
một đề tài mang tính thời sự, nhưng đồng thời là một vấn đề khá nhạy cảm về
mặt chính trị, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất cầm
quyền. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách thật thấu đáo
toàn bộ quy trình bầu cử trên tinh thần khoa học. Từ đó có thể đem lại những

thay đổi tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về
quá trình này, đồng thời giúp cho Đảng, Nhà nước có thể điều chỉnh quy chế bầu
cử hiện tại theo hướng dân chủ hơn.
Vì những lý do trên, việc chọn tiêu chí tính cạnh tranh làm một góc nhìn
mới để qua đó đánh giá hoạt động bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay là yêu
cầu vừa cần thiết, vừa cấp bách về cả nhận thức và công tác thực tiễn. Đây cũng
chính là mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, những năm qua việc nhận thức về vai trò của bầu cử trong
đời sống chính trị đã dần tăng lên. Trong những năm qua đã có một số công trình
2


nghiên cứu về hệ thống bầu cử nói chung và chế độ bầu cử ĐBQH đã được công
bố như:
- TS. Vũ Thị Loan với công trình (Luận văn thạc sĩ chính trị học) “Hoàn
thiện chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay” (2003), là công trình
đầu tiên nghiên cứu mang tính chuyên sâu về chế độ bầu cử Quốc hội. Trong đó,
tác giả đã đánh giá khái quát những thành công đạt được cũng như những vấn đề
đặt ra và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử Quốc hội.
- TS.Vũ Văn Nhiêm với công trình nghiên cứu (Luận án tiến sĩ luật học)
Chế độ bầu cử ở nước ta – Những vấn đề lý luận và thực tiễn (2009) đã phân tích
những cơ sở lý luận về chế độ bầu cử và xã hội dân chủ nói chung và ở Việt
Nam nói riêng. Tác giả cũng nghiên cứu thực tiễn chế độ bầu cử ở Việt Nam và
đưa ra những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để phát huy dân chủ. Tuy
nhiên, công trình nghiên cứu khá công phu về chế độ bầu cử ở Việt Nam này lại
chủ yếu tiếp cận vấn đề dưới góc độ luật học.
- TS. Đặng Đình Tân trong tác phẩm“Nhân dân giám sát các cơ quan dân
cử ở Việt Nam trong trong thời kỳ đổi mới” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006) đã khẳng định bầu cử là phương thức rất quan trọng và hữu hiệu mà thông

qua đó, nhân dân giám sát Quốc hội. Dưới góc độ chính trị học, một số kết luận
vừa khái quát, vừa sâu sắc về thực trạng của chế độ bầu cử nước ta đã được thể
hiện rõ trong cuốn sách này.
- PGS.TS Nguyễn Đăng Dung với cuốn “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước”
(Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006) đã chỉ ra bầu cử là phương thức quan
trọng để ngăn ngừa sự độc đoán, chuyên quyền đối với các thiết chế quyền lực
Nhà nước. Đây cũng là lý do tại sao các cơ quan nhà nước cũng như các quan
chức do nhân dân bầu ra phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
- GS-TSKH Đào Trí Úc (Chủ biên) với công trình “Xây dựng Nhà nước
Pháp quyền XHCN Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006) đã khẳng
3


định vai trò quan trọng của chế độ bầu cử trong việc xây dựng Nhà nước Pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- TS. Lưu Văn Quảng với công trình: “Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp
– lý thuyết và hiện thực” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) đã nghiên cứu
ba hệ thống bầu cử ở ba hệ thống chính trị điển hình ở các nước phát triển, hoạt
động tương đối ổn định trên các vấn đề như chức năng, nguyên tắc, công nghệ
bầu cử và các hệ quả của hệ thống bầu cử… Từ đó rút ra những giá trị phổ biến
và hạn chế của ba hệ thống đó, đồng thời đưa ra một số gợi mở cho việc đổi
mới, hoàn thiện công tác bầu cử ở Việt Nam theo hướng dân chủ và khoa học.
Bên cạnh đó, có nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí cũng
trực tiếp đề cập đến vấn đề bầu cử dưới nhiểu góc độ luật học và chính trị học,
về cả lý luận và thực tiễn rất phong phú đa dạng:
Cùng bàn về bầu cử, vai trò của bầu cử trong chính trị và mối quan hệ giữa
bầu cử với việc thực thi dân chủ, trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp có bài viết
“Bầu cử và vấn đề dân chủ” đăng (số 5/2002) của đồng tác giả PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung và Chu Khắc Hoài Dương, và bài viết “Bầu cử và vị trí, vai trò của
bầu cử” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (số 23(98)/2007).

Dưới góc độ luật học, trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 7/2001
cũng có bài viết “Pháp luật bầu cử: một số vấn đề cần hoàn thiện” của TS. Bùi
Xuân Đức. Bài viết này đã phân tích khá cụ thể về những hạn chế của chế độ bầu
cử hiện hành và đưa ra một số giải pháp khắc phục những bất cập về đơn vị bầu
cử, về tính đại diện, về cách thức xác định kết quả bầu cử ở Việt Nam.
Cũng dưới góc nhìn luật học với hai bài viết:“Pháp luật bầu cử nhìn từ
góc độ bảo đảm tự do công bằng cạnh tranh và tính đại diện” (tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 4/2007) và “Đôi điều bình luận từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII” (tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 6(101)/2007), tác giả Vũ Văn
Nhiêm đã chỉ ra một số hạn chế về mặt pháp luật bầu cử trong việc đảm bảo tính
4


đại diện và tính cạnh tranh trong chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra
những phương hướng khắc phục.
Từ cách đặt vấn đề “Bầu cử: bầu ai và ai bầu” (đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 23 (98), tháng 5/2007), tác giả An Khánh đã cũng chỉ ra những
bất cập trong bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay như tiêu chuẩn ĐBQH, mối
quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu, việc cung cấp thông tin về ứng cử
viên cho cử tri, quyền bầu cử trực tiếp của cử tri, số dư trong các đơn vị bầu cử,
tình trạng bỏ phiếu thay...
Với bài viết “Thực trạng và giải pháp đổi mới công tác bầu cử ở nước ta”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4(97)/2007, tác giả TS. Phan Xuân
Sơn đã chỉ ra những tồn tại của hệ thống bầu cử, từ đó đưa ra một số phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác bầu cử ở nước ta hiện nay.
Cũng xuất phát từ nhu cầu đổi mới chế độ bầu cử, PGS.TS Thái Vĩnh
Thắng có bài viết “Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử đảm bảo quyền
bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” đăng trên
tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2011. Bài viết đã phân tích thực trạng chế độ
bầu cử ở Việt Nam với việc chỉ ra những bất cập trong chín vấn đề chính: (1) về

việc thành lập Hội đồng bầu cử, (2) về các ứng cử viên tự ứng cử, (3) về vận
động tranh cử, (4) về đơn vị bầu cử, (5) về phương pháp xác định kết quả bầu cử,
(6) về nguyên tắc bỏ phiếu tự do, (7) về đại biểu ngoài Đảng, (8) về mối quan hệ
giữa hiệp thương và bầu cử trực tiếp, (9) về tính chất bình đẳng của lá phiếu cử
tri. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị đổi mới chế độ bầu cử
nhằm đảm bảo quyền bầu cử, ứng cử của công dân Việt Nam trong điều kiện xây
dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền hiện nay.
Tác giả Trần Thanh Hương cũng có bài viết khá sâu sắc về “Hiệp thương
và tác động của hiệp thương đến việc phát huy tính tích cực của công dân trong
thực hiện quyền bầu cử” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4(97) năm
5


2007. Bài viết đã chỉ ra những ảnh hưởng của quy trình hiệp thương giới thiệu
người ứng cử đến quyền bầu cử và ứng cử của công dân, từ đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm đổi mới hiệp thương theo hướng dân chủ hơn.
Với việc đưa ra những tiêu chuẩn của Tuyên ngôn về Tiêu chuẩn bầu cử tự
do và công bằng, tác giả Lưu Đức Quang có bài viết“Tự do, công bằng trong
bầu cử và những liên hệ với bầu cử ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp (số 1/2007), từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới nhận
thức về bầu cử và hoàn thiện hệ thống pháp luật bầu cử ở Việt Nam hiện nay.
Với cách đặt vấn đề “Đổi mới công tác bầu cử để có một Quốc hội mang
tính đại diện cao” (tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21/2007), tác giả Lưu Văn
Quảng đã chỉ ra một số giải pháp đổi mới hoạt động bầu cử từ việc đổi mới nhận
thức về bầu cử, tạo cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên đến việc đặt
giả thiết áp dụng hình thức đơn vị bầu cử một đại điện thay thế cho đơn vị bầu cử
đa đại diện hiện nay. Cũng với góc nhìn đó, tác giả cũng có bài viết “Làm gì để
đổi mới công tác bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay?” đăng trên Tạp chí Mặt
trận, số 41/2007. Bài viết cũng đưa ra năm giải pháp nhằm đổi mới công tác bầu
cử ở nước ta hiện nay, đó là: đổi mới phương thức vận động bầu cử; tăng cường

đối thoại rộng rãi, trực tiếp giữa ứng cử viên với cử tri; các ứng cử viên cần đầu tư
thời gian và trí tuệ cho việc xây dựng chương trình hành động; kiên quyết chống
gian lận, chống bệnh hình thức trong bầu cử; đa dạng hoá các hình thức bỏ phiếu.
Hướng tới cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII (2011), tác giả ThS. Nguyễn
Thanh Bình cũng có nhiều bài viết lý giải tính chất dân chủ trong quy trình bầu
cử ở nước ta, đặt biệt là trong công đoạn hiệp thương giới thiệu ứng cử viên và
vận động bầu cử như “Công khai, dân chủ và bình đẳng trong vận động bầu cử”
(tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4) và “Một quy trình dân chủ và công khai để
lựa chọn, giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội” (Tạp chí
Mặt trận, số 89). Cùng thời gian đó, tác giả Minh Vân cũng có bài “Vài nét về số
6


dư trong công tác giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân” đăng trên Tạp chí Mặt trận, số 89/2011.
Là người làm công tác thực tiễn gắn với hoạt động bầu cử, TS. Bùi Ngọc
Thanh có bài viết “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- những vấn đề từ
thực tiễn” (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007) và “Các
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và XII – một số vấn đề đặt ra cho cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII” (Tạp chí cộng sản, số 822, năm 2011). Với
tư cách là Tổng Thư ký Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và XII, tác
giả bài viết đã chỉ ra những tồn tại của công tác bầu cử nước ta và đề xuất một số
biện pháp khắc phục.
Như vậy, một số tác giả đã bàn về tính cạnh tranh và những vấn đề liên
quan đến việc đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội từ khi
hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đến phân chia đơn vị bầu cử, vận động bầu
cử và cả các tổ chức phụ trách bầu cử ở Việt Nam hiện nay. Song, thực tế trên
cũng cho thấy việc nghiên cứu và đánh giá về hoạt động bầu cử Quốc hội dưới
góc độ đảm bảo tính cạnh tranh vẫn còn là một vấn đề mới. Vì vậy, đề tài “Đảm
bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay” sẽ trên cơ sở

phân tích thực trạng của hoạt động bầu cử ĐBQH để chỉ ra những vấn đề tồn tại
của hệ thống và đề xuất các phương án nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu
cử theo hướng dân chủ, khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn: Trên cơ sở lý luận về tính cạnh tranh trong bầu
cử, tác giả nghiên cứu thực trạng đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu
cử ĐBQH, chỉ ra một số vấn đề bất cập; từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm
đảm bảo tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau:
7


+ Làm rõ khái niệm, chức năng của bầu cử, các tiêu chí để đảm bảo tính
cạnh tranh trong bầu cử nói chung.
+ Nghiên cứu thực trạng tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử Quốc hội
ở nước ta hiện nay.
+ Chỉ ra những vấn đề tồn tại và đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo
tính cạnh tranh trong bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận (phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) của chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của khoa học chính
trị hiện đại.
- Sử dụng một số phương pháp liên ngành cụ thể như so sánh, lôgic, lịch
sử…
5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Luận văn không đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận của bầu cử, cũng không
tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ bầu cử ĐBQH, mà chỉ tập
trung nghiên cứu thực trạng đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động bầu cử

ĐBQH ở Việt Nam hiện nay để làm rõ những vấn đề tồn tại và đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện, đổi mới.
6. Đóng góp của luận văn
- Đưa ra một cách tiếp cận mới - từ góc độ đảm bảo tính cạnh tranh trong
vấn đề hoàn thiện cơ chế bầu cử ĐBQH ở Việt Nam.
- Chỉ ra được những vấn đề tồn tại trong việc đảm bảo tính cạnh tranh
trong tổ chức và tiến trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động
bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.

8


7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề bầu cử ĐBQH trong
đời sống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu các môn khoa học chính trị và hoạt động của các nhà chính trị
thực tiễn, góp phần hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẦU CỬ
VÀ TÍNH CẠNH TRANH TRONG BẦU CỬ

1.1. Bầu cử và chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị
1.1.1. Sự ra đời của thể chế bầu cử
Khi các giai cấp xuất hiện, nhà nước được hình thành với tư cách là một
thiết chế đứng trên xã hội, đứng ngoài xã hội có chức năng thực thi ý chí của giai
cấp thống trị, điều hòa những mâu thuẫn giai cấp, duy trì sự tồn tại, ổn định và
phát triển của xã hội. Với sự phát triển của các hình thái nhà nước và ý thức chính
trị của các thành viên trong xã hội, nhân dân đòi hỏi được tham gia vào quản lý xã
hội và giải quyết các công việc của nhà nước. Sự tham gia này quyết định tính
chất dân chủ của nhà nước đó. Vì thế có thể hiểu, dân chủ là hình thức thực thi
quyền lực trong xã hội dựa trên cơ sở công nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, công nhận quyền tham gia của người dân trong việc giải quyết các công việc
quốc gia, phù hợp với quyền tự do và quyền công dân của họ [94, tr.234]. Nói
cách khác, cùng với sự phát triển của nhà nước, nhu cầu dân chủ cũng ngày càng
phát triển, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước. Nhà nước dân chủ là nhà
nước mà ở đó quyền lực thuộc về nhân dân, dân bầu ra các cơ quan nhà nước và
ủy quyền cho họ để thực hiện ý chí và phục vụ lợi ích của dân. Dân chủ trở thành
khát vọng và mục tiêu của nhân loại trong xây dựng chế độ chính trị, chế độ nhà
nước. Cho đến nay trên thế giới có hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước của mình là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là mọi quyết định mang danh quyền lực nhà nước đều
phải do nhân dân trực tiếp thông qua bằng hình thức bỏ phiếu phúc quyết – tức là
10


thông qua trưng cầu dân ý. Với phương thức đó, dân chủ trực tiếp thường chỉ
thực hiện trong điều kiện có ít người tham gia vào các quá trình chính trị trong
một phạm vi hẹp. Do đó, cách làm này hiện nay chưa phổ biến do quy mô lãnh
thổ ngày càng lớn và số lượng dân cư ngày càng tăng của các quốc gia. Bên cạnh
đó, sự chênh lệch về trình độ văn hóa của các nhóm dân cư, tính phức tạp và
khẩn trương của công việc quản lý xã hội, của việc đưa ra các quyết định chính

trị, kinh tế… khiến cho hình thức dân chủ trực tiếp không phải lúc nào cũng thực
hiện được. Lúc này cần thiết phải có một hình thức dân chủ khác để cùng với
hình thức dân chủ trực tiếp đảm bảo cho quyền lực của nhân dân được thực hiện,
đó là dân chủ gián tiếp hay còn gọi là dân chủ đại diện.
Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân ủy quyền cho những người đại
diện của mình thông qua các cuộc bầu cử để nhằm giải quyết các công việc của
nhà nước, thực hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân. Song, mặc dù đã ủy
quyền nhưng nhân dân vẫn thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của các
đại diện, thậm chí có quyền bãi miễn họ nếu họ không làm đúng chức trách và
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong tác phẩm "Tinh thần
pháp luật", Montesquieu cho rằng: “Dân chúng có quyền lực tối cao phải tự
mình làm lấy những điều có thể làm tốt được, còn những điều mà dân không thể
làm tốt được thì phải giao cho các vị bộ trưởng thừa hành. Các vị bộ trưởng nếu
không do dân cử thì không phải là của dân. Châm ngôn cơ bản của chính thể dân
chủ là: dân bầu ra bộ trưởng tức là bầu ra người quan chấp chính để cai trị
mình.” [47, tr.48]. Như vậy, bầu cử là sản phẩm trực tiếp của dân chủ, là hình
thức biểu hiện của dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là quyền lực của nhân dân
được thực hiện bằng người đại diện và cơ quan đại diện.
Việc tiến hành bầu cử bắt đầu manh nha xuất hiện từ thời chiếm hữu nô lệ,
khi tầng lớp quý tộc chủ nô họp đại hội để lựa chọn và ủy quyền cho những đại diện
thành lập các cơ quan nhà nước để bảo vệ lợi ích cho tầng lớp, giai cấp mình như
11


Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân, Hội đồng thành phố... ở nhà nước Hy Lạp – La
Mã cổ đại. Đến thời kỳ Trung cổ, các cuộc bầu cử mang ý nghĩa dân chủ đã bị loại
bỏ do sự chi phối của tôn giáo. Các cuộc bầu cử với các tiêu chuẩn tự do, công bằng
và cạnh tranh, là những phát minh gắn liền với sự phát triển của loài người từ thời
kì cận hiện đại khoảng giữa thế kỷ XVIII đến nay. Việc thực hiện bầu cử như thế
nào cũng phản ánh trình độ phát triển về chính trị của một quốc gia và là một tiêu

chí cơ bản của một xã hội dân chủ.
1.1.2. Khái niệm bầu cử và các khái niệm liên quan
1.1.2.1. Khái niệm bầu cử
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bầu cử, tùy vào góc độ nghiên cứu và
phương pháp tiếp cận khác nhau mà các tác giả đưa ra những định nghĩa khác
nhau về khái niệm này. Nhìn chung, khái niệm bầu cử được hiểu theo hai nghĩa
rộng và hẹp.
Từ bầu cử (election) có nguồn gốc từ từ eligere trong tiếng Latin, có nghĩa
là “để lựa chọn”, nói một cách dễ hiểu là trong một số đông chọn ra một hay
một số người để đại diện cho ý chí nguyện vọng của tập thể số đông đó. Xã hội
càng phát triển, tính đại diện ngày càng cần thiết và trở nên phổ biến trong tất cả
các hoạt động của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hóa… Theo đó,
bầu cử là một hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người, là phương
thức cơ bản để bầu ra những người lãnh đạo trong một phạm vi cộng đồng nhất
định như một cơ quan, tổ chức, một địa phương, thậm chí là của một quốc gia,
hay chỉ đơn giản trong một câu lạc bộ nào đó.
Với cách tiếp cận đó, trong Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, tác
giả Jay M.Shafritz đã định nghĩa “bầu cử là một quá trình lựa chọn một hoặc nhiều
người, cho một chức vụ công hoặc tư, từ nhiều ứng cử viên khác nhau” [64, tr.315].

12


Đồng nhất với quan điểm trên, tác giả Vũ Hồng Anh trong tác phẩm Chế
độ bầu cử ở một số nước trên thế giới hiện nay, cũng cho rằng: “Bầu cử là thủ
tục mà theo đó một nhóm người xác định (nhân dân, cử tri, tập thể, cá nhân) bầu
ra một hay nhiều người để thực hiện một chức năng xã hội nào đó.” [2, tr.10]
Trong cuốn Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp – Lý thuyết và hiện thực,
tác giả Lưu Văn Quảng đã đưa ra một định nghĩa mang tính tổng quát và toàn diện
như sau: “bầu cử hiểu theo nghĩa rộng là sự tổng hợp của các ý thức, hành vi của

các cá nhân và diễn ra khi việc đưa ra quyết định lựa chọn không thuộc thẩm
quyền của một cá nhân cụ thể. Nó là cách thức để lựa chọn những con người thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể, trong một cơ cấu xã hội nhất định.” [60, tr.16]
Tóm lại, nội dung cơ bản của khái niệm bầu cử là cách thức để người dân
chọn lựa giữa các ứng cử viên cho một vị trí công việc để thực hiện một chức
năng xã hội nhất định. Đó là cách hiểu theo nghĩa rộng, còn hiểu theo nghĩa hẹp,
bầu cử thường được tiếp cận từ hai góc độ là chính trị học và luật học.
Các tác giả trong cuốn Tập bài giảng chính trị học định nghĩa: “Bầu cử là
một hình thức ủy quyền và biểu thị sự tín nhiệm của công dân - cử tri (hoặc
người bầu cử) bằng những nguyên tắc và thủ tục nhất định để chọn (ít nhất là từ
hai lấy một) người đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc
các chức vụ của một thể chế chính trị.” [26, tr.289]
Theo cách định nghĩa đó, bầu cử gắn liền với một chế độ chính trị, với nhà
nước, trong đó, bầu cử không chỉ là phương thức lập ra tổ chức bộ máy nhà nước
mà còn thể hiện ý thức chính trị và thái độ chính trị của người dân trước sự quản
lý điều hành của chính phủ.
Dưới góc độ luật học, các tác giả của cuốn Tổ chức và hoạt động của quốc
hội một số nước quan niệm rằng: “Bầu cử là một trong những chế định pháp luật
quan trọng của ngành luật hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ
quan đại diện - cơ quan quyền lực nhà nước. Bầu cử là việc công dân của một
13


nước lựa chọn những người đại diện để trao quyền cho họ thay mặt mình giải
quyết các vấn đề trọng đại của đất nước” [91, tr.239]. Cách định nghĩa này coi
bầu cử là tổng thể các quy định về tiến trình bầu cử chứa đựng trong các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao nhất là hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, là
phương thức để người dân thực hiện quyền công dân, quyền tham gia quản lý đất
nước thông qua người đại diện. Phương pháp tiếp cận này được dùng phổ biến
trong các nghiên cứu về luật hiến pháp và các văn bản pháp luật.

Như vậy, bầu cử không chỉ là cách thức để lựa chọn người lãnh đạo chính
trị mà còn quy định một cách căn bản tính chính đáng của quyền lực chính trị và
tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực chính trị. Vì thế, cùng với sự phát triển
của nhà nước, bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc. Hiện nay,
những cuộc bầu cử phổ biến trong nền chính trị hiện đại bao gồm bầu cử quốc
hội (hay nghị viện), hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố; một số nước còn bầu cử
trực tiếp một số chức danh quan trọng như bầu cử tổng thống (hay thủ tướng),
thống đốc bang hay thị trưởng các tỉnh/thành phố... Tùy vào vai trò, vị trí của đối
tượng được bầu trong hệ thống chính trị mà bầu cử có quy mô lớn nhỏ khác nhau
nhưng dù thế nào bầu cử cũng phải tuân theo những nguyên tắc, khuôn khổ mà
luật pháp đã quy định.
Trong luận văn này, thuật ngữ bầu cử được sử dụng theo nghĩa hẹp.
1.1.2.2. Các khái niệm liên quan
Trong ngôn ngữ chính trị - pháp lý, gắn liền với khái niệm bầu cử là một
loạt các khái niệm đi kèm, đó là: hệ thống bầu cử, chế độ bầu cử, hệ thống bỏ
phiếu...
 Khái niệm hệ thống bầu cử
Theo nghĩa hẹp, hệ thống bầu cử chính là hệ thống bỏ phiếu, bao gồm các
thủ tục, quy tắc và luật lệ để xác định người chiến thắng trong các cuộc bầu cử.
14


Theo nghĩa rộng, hệ thống bầu cử (electoral system) là một chỉnh thể bao
gồm các nguyên tắc, các quy định của pháp luật về bầu cử, cùng các mối quan hệ
xã hội được hình thành trong quá trình bầu cử [60, tr.239]. Theo phân tích của
TS. Lưu Văn Quảng, có thể nói, hệ thống bầu cử bao gồm nhiều yếu tố, nhiều
quan hệ. Nó bao gồm cả những quy định thành văn (hiến pháp và luật) và những
quy định không thành văn (các phong tục, tập quán, văn hoá chính trị); cả những
quy định chính thức (quy định chung của nhà nước) và những quy định không
chính thức (như điều lệ, quy định hay văn bản của các đảng, các nhóm lợi ích và

các lực lượng xã hội) tham gia vào quá trình bầu cử. Các yếu tố, các quan hệ xã
hội của hệ thống bầu cử được tạo thành theo một trình tự nhất định, từ việc xác
định thời gian bầu cử, phân chia đơn vị bầu cử, thành lập cơ quan phụ trách bầu
cử, lập danh sách cử tri, giới thiệu người ra ứng cử, đến bỏ phiếu, kiểm phiếu và
công bố người thắng cử… Tất cả những quan hệ được hình thành theo trật tự
trên gọi là trình tự bầu cử.
Trong luận văn này, thuật ngữ hệ thống bầu cử được hiểu theo nghĩa rộng,
song luận văn không đi sâu vào phân tích tất cả các hoạt động của quá trình bầu
cử mà chỉ tập trung vào các yếu tố, các quan hệ có ảnh hưởng đến vấn đề đảm
bảo tính cạnh tranh trong bầu cử mà thôi.
 Khái niệm chế độ bầu cử
Chế độ bầu cử là khái niệm gắn liền với nhà nước, với chế độ chính trị của
một quốc gia - dân tộc nhất định. Nói đến chế độ bầu cử cần xác định rõ là chế
độ bầu cử của nhà nước nào, không có chế độ bầu cử mang tính chung chung. Vì
vậy, thông qua chế độ bầu cử có thể cho phép xác định được nguồn gốc, bản chất
và hình thức của nhà nước đó. Thuật ngữ chế độ bầu cử cũng được hiểu theo hai
nghĩa nghĩa rộng và hẹp khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, có thể hiểu chế độ bầu cử bao gồm những quy định được
chứa đựng trong những văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất (hiến pháp) và
15


trong các văn bản pháp luật nói về nguyên tắc bầu cử, trình tự lập danh sách cử
tri, trình tự giới thiệu ứng cử viên, trình tự vận động bầu cử cho đến các quy định
nói về cách thức xác định kết quả bầu cử [17, tr.111-112].
Hoặc, chế độ bầu cử bao gồm tổng thể các nguyên tắc, các quy định pháp
luật quy định trật tự bầu ra các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước, điều chỉnh các
quan hệ xã hội hình thành trong quá trình bầu cử. Trật tự bầu cử được quy định bởi
một loạt các văn bản quy phạm pháp luật gọi là luật bầu cử. Những cách thức, thủ
tục bầu cử được luật bầu cử quy định tạo thành hệ thống bầu cử. [22, tr.240]

Như vậy theo nghĩa hẹp, chế độ bầu cử là hình thức biểu hiện ra bên ngoài
của tổng thể các quy định của pháp luật về bầu cử.
Theo nghĩa rộng, chế độ bầu cử là tổng thể những quan hệ xã hội có trật tự
gắn với cuộc bầu cử vào cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Những
quan hệ này hợp thành trình tự bầu cử [2, tr.15].
Cùng đồng nhất với quan điểm trên, trong Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, tác giả Nguyễn Đăng Dung cũng nêu quan điểm: Chế độ bầu cử được xác
định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tiến
hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác
định được danh sách những người trúng cử. [17, tr.158]
Thống nhất với nội hàm của khái niệm bầu cử trong các quan điểm nói
trên, có thể khái quát rằng chế độ bầu cử là một bộ phận quan trọng trong thể chế
chính trị của bất kì một quốc gia dân tộc nào, đó cũng là một trong những
phương thức thành lập cơ quan quyền lực nhà nước. Chế độ bầu cử là một chỉnh
thể bao gồm các nguyên tắc, các quy định của pháp luật về bầu cử và các mối
quan hệ xã hội được hình thành trong tiến trình bầu cử.
Như vậy, xét về nội hàm, thuật ngữ “chế độ bầu cử” tương đối đồng nhất
với thuật ngữ “hệ thống bầu cử”. Bởi xét về mặt ngôn ngữ, trong tiếng Anh,
“system” vừa có nghĩa là “hệ thống” vừa có nghĩa là “chế độ”. Tuy nhiên, ở Việt
16


Nam khi nói đến bầu cử, chúng ta thường sử dụng thuật ngữ “chế độ bầu cử”,
còn “hệ thống bầu cử” lại được sử dụng rất phổ biến trong nền chính trị phương
Tây hiện đại. Song dù sử dụng thuật ngữ nào thì ở mỗi nước, chế độ bầu cử một
mặt cần thiết kế phù hợp với thể chế chính trị và các đặc điểm của nước đó, đồng
thời tiếp thu những hạt nhân hợp lý, tiến bộ, mang tính phổ quát của bầu cử tự
do, công bằng. Đó là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ quốc gia nào
khi xây dựng nền dân chủ mới, trong đó có Việt Nam.
 Khái niệm hệ thống bỏ phiếu

Hệ thống bỏ phiếu (voting system) là một tập hợp những thủ tục để xác
định một hoặc một nhóm người vào các cơ quan quyền lực. Các thủ tục này bao
gồm các quy định về thiết kế và sắp xếp lá phiếu, quá trình bỏ phiếu, đếm phiếu
và cách thức để xác định người chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Như vậy,
khái niệm hệ thống bỏ phiếu được giới hạn trong phạm vi các thủ tục bỏ phiếu
và công thức tính phiếu. Do đó, thực ra thuật ngữ “hệ thống bỏ phiếu” chính là
“hệ thống bầu cử” hiểu theo nghĩa hẹp và ngược lại.
1.1.3. Chức năng của bầu cử trong hệ thống chính trị
Trong xu thế xây dựng xã hội dân sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới
hiện nay, bầu cử đang ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống
chính trị dân chủ hiện đại. Tìm hiểu hệ thống bầu cử của mỗi nước cũng cho
chúng ta thấy được một phần quan trọng trong bức tranh chính trị của một quốc
gia. Nói cách khác, bầu cử có vai trò to lớn trong hệ thống chính trị của tất cả các
quốc gia dân chủ. Nó thực hiện các chức năng quan trọng của nền chính trị, như:
(1) Xác định tính chính đáng của quyền lực nhà nước, hợp pháp hóa hoạt động của
chính quyền; (2) Giúp người dân thực hiện sự ủy quyền và lựa chọn người đại
biểu nhân dân; (3) Lựa chọn đường lối hợp lòng dân, xây dựng sự đồng thuận
trong xã hội; (4) Là công cụ quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của nhà nước.
17


1.1.3.1. Xác định tính chính đáng của quyền lực nhà nước, hợp pháp hóa hoạt
động của chính quyền
Điều 21- Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 của Liên hợp quốc đã
khẳng định: “Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực
quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và
trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển
cử tự do tương tự” [98]. Trong xã hội dân chủ hiện đại, ý chí của nhân dân chính là
nền tảng của quyền lực nhà nước; mặt khác nhân dân muốn biến ý chí nguyện

vọng của mình thành hiện thực thì phải thông qua người đại diện, cơ quan đại diện
của mình. Cơ quan đại diện nhận quyền lực từ nhân dân và thay mặt nhân dân để
thực hiện quyền lực (chủ quyền nhân dân) trong bộ máy nhà nước. Chính vì lẽ đó,
cũng giống như hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, bầu cử là cách thức hợp
pháp duy nhất để nhà nước ta khẳng định quyền lực chính đáng của mình.
Tính chính đáng trong chính trị học được hiểu là sự chấp nhận của người
dân đối với một chế độ cai trị, hay niềm tin vào một sự “cai trị hợp lý” [60,tr.25].
Vì vậy, tính chính đáng của quyền lực được coi là điều kiện căn bản cho việc cai
trị, là yếu tố cơ bản làm cho quyền lực nhà nước được người dân chấp nhận.
Tính chính đáng được nhận thức phổ biến nhất hiện nay là một nhà nước hoạt
động theo các nguyên tắc dân chủ và thể hiện được ý chí của nhân dân. Các nhà
nước này thường tuyên bố là được nhân dân uỷ nhiệm để thực thi quyền lực và
sự uỷ nhiệm này dựa trên cơ sở của các cuộc bầu cử cạnh tranh, công bằng,
thường xuyên và tự do [60, tr.27].
Như vậy, cách thức mà một nhà nước được lập lên là một trong những
nhân tố quan trọng khẳng định tính chính đáng của nó. Những nhà nước được
thành lập thông qua các cuộc bầu cử dân chủ là những nhà nước chính đáng.
Những cơ quan nhà nước được hình thành thông qua những cuộc bầu cử gian
lận, thì tính chính đáng cũng không cao vì các cuộc bầu cử đó sẽ không thực sự
18


phản ánh ý chí của người dân, bầu cử sẽ chỉ là “vỏ bọc” được mượn để “ngụy
trang”, hợp thức hóa chính quyền và nhà nước đó sẽ rất khó khăn trong việc thực
thi quyền lực hoặc thường xuyên bị đặt trước nguy cơ bị lật đổ.
Theo đó, về lý thuyết, tính hợp pháp của chính quyền sẽ tỷ lệ thuận với sự
tham gia của người dân vào quá trình bầu cử. Chính vì vậy, hầu hết các nhà cầm
quyền đều tìm cách gắn người dân với chế độ của mình bằng cách khuyến khích
họ tham gia vào các cuộc bầu cử để tạo nên tính chính đáng cho chế độ đang tồn
tại. Theo cách hiểu thông thường, trong một cuộc bầu cử, tỷ lệ đi bầu của người

dân càng cao thì tính chính đáng của chính quyền được bầu càng lớn; ngược lại,
nếu tỷ lệ cử tri đi bầu càng thấp thì chứng tỏ tính chính đáng của nhà nước đó
cũng thấp.
Tóm lại, chức năng thiết yếu của các cuộc bầu cử là xác định tính chính
đáng, tính hợp pháp của chính quyền, là phương thức thành lập cơ quan quyền
lực nhà nước với những người đại biểu được nhân dân lựa chọn và ủy thác quyền
lực. Và cũng thật dễ hiểu, những cơ quan, những chức danh do nhân dân trực
tiếp bầu ra bao giờ tính “chính danh” cũng cao hơn các cơ quan được thành lập
gián tiếp, vì sự tấn phong của nhân dân tạo vị thế vững chắc cho họ, họ là người
đại diện cho nhân dân, nhận được quyền lực trực tiếp từ chính nhân dân. Tuy
nhiên, phải nói thêm rằng, chỉ những cuộc bầu cử tuân theo những chuẩn mực tự
do, tiến bộ và công bằng mới được tạo tính chính đáng và hợp pháp nhất cho cơ
quan đại diện và bộ máy nhà nước.
1.1.3.2. Giúp người dân thực hiện sự ủy quyền và lựa chọn người đại diện
Như đã phân tích ở trên, bầu cử là phương thức thể hiện ý chí của nhân
dân thông qua sự ủy quyền để hình thành nên các cơ quan quyền lực nhà nước.
Uỷ quyền được hiểu là sự uỷ nhiệm quyền lực của một chủ thể cho một
đại diện làm một việc gì đó mà chủ thể không có điều kiện để thực thi một cách
19


trực tiếp [63, tr.30]. Sự uỷ quyền này nói như Rousseau nó như một “bản hợp
đồng”. Người được uỷ quyền thực thi nhiệm vụ dưới danh nghĩa của chủ thể đã
uỷ quyền cho mình. Trong mối quan hệ này, chủ thể uỷ quyền giữ vai trò chi
phối người được uỷ quyền. Yêu cầu của chủ thể uỷ quyền buộc người được uỷ
quyền phải hành động theo cách thức mà chủ thể mong muốn, phải tuân theo ý
chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của chủ thể.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, người dân với tư cách là chủ thể quyền lực
thực hiện sự uỷ quyền thông qua các cuộc bầu cử. Bằng hành vi bầu cử, nhân
dân lựa chọn những người đại diện, thành lập ra cơ quan đại diện và trao cho họ

quyền lực nhà nước thuộc về mình. Jeane Kirkpatrick, cựu Đại sứ Mĩ ở Liên
Hiệp Quốc từng phát biểu: “...trong khi tiến trình tuyển cử, các công dân có
quyền tự do chỉ trích chính phủ, công bố sự chỉ trích và đưa ra kiến nghị, lựa
chọn những người tham gia vào giải quyết các vấn đề hệ trọng trong chính phủ”
[94, tr.123]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: “Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có đức, có tài để ra
gánh vác công việc nước nhà.” [48, tr.133]
Và khi đã được bầu, những người được uỷ quyền phải nhận thức được vị
trí của họ trong mối quan hệ với người dân, phải hành động theo cách mà người
dân mong đợi. Mặt khác, về nguyên tắc, những cơ quan do nhân dân bầu ra, thì
phải do nhân dân phế truất. Trong trường hợp những người được uỷ quyền
không làm tròn bổn phận của mình, có hành vi lạm dụng quyền đại diện, làm mất
lòng tin ở nhân dân, thì người dân có thể sẽ phá bỏ “hợp đồng” và chọn các đại
diện khác để uỷ quyền. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì "Nhân dân có quyền
đôn đốc và phê bình chính phủ. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được
việc cho dân, thì dân không cần đến nữa." [49, tr.60]. Nguyên tắc uỷ quyền buộc
những người cầm quyền phải là “công bộc”, là “người đầy tớ trung thành của
20


nhân dân”, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân
dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Tóm lại, bầu cử là cơ hội để người dân chọn lựa và thay thế các đại diện
của mình trong bộ máy nhà nước. Nó giúp cử tri lựa chọn những người có đủ
năng lực và phẩm chất để trao thẩm quyền cho họ. Chính vì vậy, bầu cử được coi
là một phương pháp dân chủ để thành lập nên cơ cấu của bộ máy nhà nước. Mặt
khác, bầu cử không chỉ có vai trò quyết định trong việc tuyển lựa những người
đại diện, mà nó còn có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành trách nhiệm của
họ trước nhân dân, khi họ nhận sự ủy thác quyền lực từ nhân dân trong nhiệm kì.

1.1.3.3. Xây dựng và củng cố sự đồng thuận trong xã hội
Bằng cách huy động cử tri vào một hoạt động chính trị chung mang tính
tập thể, bầu cử có vai trò kiến tạo nền tảng để tạo ra sức mạnh toàn dân, là chìa
khóa để xây dựng sự đồng thuận xã hội và cũng là cơ chế chủ yếu để chuyển hóa
sự đồng thuận xã hội thành quyền lực của chính quyền.
Đồng thuận xã hội có thể hiểu là sự thống nhất giữa tư tưởng, ý chí và hành
động của những lực lượng xã hội trong một hệ thống xã hội nhất định. Nói cách
khác, đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí với nhau của đại đa số thành viên
trong xã hội về một hoặc một số vấn đề nào đó, trên cơ sở đó, các thành viên này
gắn kết chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động của mình nhằm đạt đến mục đích,
lợi ích chung. Như vậy, đồng thuận xã hội là tiếng nói chung của các lực lượng,
các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng... trong cơ cấu xã hội.
Trong một nền dân chủ, bầu cử là chế định trung tâm của dân chủ đại diện,
mà ở đó, quyền lực nhà nước được hình thành dựa trên kết quả lựa chọn thống
nhất của người dân. Thực chất, chính quyền chỉ có thể được hợp pháp hóa thông
qua bầu cử khi có được sự ủng hộ, sự đồng thuận của mọi tầng lớp dân cư trong
xã hội. Nói cách khác, thông qua bầu cử, cử tri đã có được tiếng nói chung và
21


×