Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.46 KB, 10 trang )

Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Cơ sở lý luận của nghiệp vụ
marketing mặt hàng kinh
doanh tại cửa hàng thương
mại bán lẻ
Bởi:
Học Viện Tài Chính

Bản chất, vị trí, yêu cầu của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh tại
cửa hàng thương mai bán lẻ.
Bản chất của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh.
* Khái niệm về mặt hàng thương mại.
Mặt hàng thương mại là một phối thức sản phẩm hỗn hợp được lựa chọn, xác định và
chuẩn bị để bán ở các cơ sở doanh nghiệp thương mại đối với một thị trường mục tiêu
và những tập khách hàng trọng điểm.

+ Phối thức sản phẩm hỗn hợp là một tổ hợp hữu cơ ba lớp thuộc tính hỗn hợp của
một sản phẩm Marketing gồm: sản phẩm cốt lõi, sản phẩm hiện hữu và sản phẩm
gia tăng.
Sản phẩm cốt lõi thể hiện mức độ lợi ích của công năng trong sản phẩm cốt lõi được tạo
ra.

1/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Sản phẩm hiện hữu được tạo ra do các doanh nghiệp sản xuất và thương mại, bao gồm
sáu thuộc tính, nhằm tạo ra tính hiệu lực trên hỗn hợp và chương trình Marketing có tính
chuyên biệt của công ty với các đoạn thị trường nhất định trong kế hoạch và chiến lược


Marketing.
Sản phẩm gia tăng đó là một tổng hợp các lợi ích mà người tiên dùng có được sau khi
quyết định tiêu dùng một sản phẩm hàng hoá, dịnh vụ nào đó, đó là vé đi xem phim,
đi du lịch miễn phí, điều kiện thanh toán sau mua, lắp đặt bảo dưỡng , các dịnh vụ sau
mua, ..
+ Mức giá khả thích: Đó là mức giá bán tương thích với lợi ích do phối thức đó mang
lại khi mua, tương thích với sự chấp nhận của khách hàng và khả năng thanh toán của
tập khách hàng trọng điểm với giá bán.
Như vậy mức giá khả thích phải đi đôi với một phối thức sản phẩm thì mới thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng sản phẩm.
+ Giao tiếp mục tiêu: Đó là một chương trình giới thiệu, một chiến dịch xúc tiến, một kỹ
năng bao bì, nhãn hiệu, cùng với đó là một định vị chào hàng thương mại trong và ngoài
cơ sở doanh nghiệp thương mại, nó thường được gọi là phối thức giao tiếp thương mại
mục tiêu.
Như vậy là phối thức sản phẩm hỗn hợp, mức giá khả thích và giao tiếp mục tiêu sẽ là
một khâu quan trọng và đặc biệt cần thiết trong mặt hàng thươmg mại trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Tiếp cận phân phối tương hợp, đó là việc phối hợp 3 yếu tố: Phối thức sản phẩm hỗn
hợp, mức giá khả thích và giao tiếp mục tiêu một cách đúng lúc, đúng chỗ trong một
tuyến công nghệ với đầy đủ các quy trình tạo ra cho phổ mặt hàng thương mại đảm bảo
tính kịp thời và độ chín tới ở các nơi bán của các cơ sở doanh nghiệp thương mại xác
định.
* Bản chất của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh.
Đó là việc tổ chức mặt hàng thương mại theo đúng một quy trình công nghệ, tạo ra được
phổ mặt hàng kinh doanh có chiều dài, chiều rộngvà chiều sâu hợp lý, tạo ra sự hấp dẫn
đối với người tiêu dùng khi nhìn vào các mặt hàng mà doanh nghiệp thương mại bày
bán, tò mò, xem xét tìm hiểu và tiêu dùng.
Vị trí, vai trò của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh.
Nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh có một vị trí và vai tró hết sức quan trọng
trong quản trị Marketing của doanh nghiệp thương mại:


2/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

+ Nó một mặt vừa là một yếu tố chiến lược chủ chốt của quản trị Marketing bán hàng, vì
nó ảnh hưởng đến sự thiện chí của người tiêu dùng khi bước vào doanh nghiệp thương
mại và do đó nó đóng vai trò quan trọng đối với vị thế của doanh nghiệp và các sản
phẩm của doanh nghiệp, đồng thời đó cũng là một biến số chiến thuật để cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp thương mại vì phổ mặt hàng có tác động rất lớn đến người tiêu dùng
khi quyết định đi mua sắm.
Qua đó ta có thể thấy được rằng với doanh nghiệp thì nó thể hiện được sức hấp dẫn
của gian hàng với người tiêu dùng, về hình ảnh và thể hiện kinh nghiệm kinh doanh và
nguồn lực của doanh nghiệp.
Với người tiêu dùng thì làm cho họ có tâm lý thích mắt, thái độ thiện cảm, tò mò, đi
đến những quyết định gần hơn khi đi đến quyết định tiêu dùng các sản phẩm mà doanh
nghiệp thương mại đó bày bán. Họ có thể mua nhiều hơn về số lượng, phong phú thêm
về chủng loại và đa dạng hơn về các hàng hoá đang có tại doanh nghiệp.
+ Với vị trí như thế nó có vai tró rất quan trọng với doanh nghiệp thương mại, giúp
doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá nhiều hơn về số lượng, chủng loại, mẫu mã tạo
vòng vốn quay vòng nhanh hơn, tạo thế chủ động hơn trong kinh doanh.
Tạo uy tín hình ảnh của cửa hàng trước khách hàng và người tiêu dùng. Như vậy có thể
tạo ra cả được lợi ích về vật chất và phi vật chất - hình ảnh cửa hàng.
Yêu cầu của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh.
Nghiệp vụ Marketing cần phải đảm bảo các yêu cầu như sau:
+ Đảm bảo lợi nhuận, mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu lâu dài và cuối cùng của mỗi doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh. Vì thế yêu cầu của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh
doanh là đảm bảo lợi nhuận, đảm bảo thu hồi vốn tái tiếp tục sản xuất kinh doanh.
+ Giữ vững và phát triển thị phần. Đây là nhiệm vụ chung của toàn bộ cửa hàng và cũng

là nhiệm vụ của nghiệp vụ Markeitng mặt hàng kinh doanh vì thế phổ mặt hàng kinh
doanh phải hấp dẫn, tạo ra sức mua, tạo được nguồn khách hàng đến mua.
+ Đảm bảo được doanh số yêu cầu với từng loại hàng hoá, nhóm hàng hoá, ở đây là tỉ lệ
lợi nhuận thu được giữa các nhóm hàng hoá, loại hàng hoá với nhau.
+ Quay vòng vốn kinh doanh. Đảm bảo được vòng vốn quay nhanh và tăng nhanh hơn
các năm trước, theo kịp chu kỳ sống sản phẩm không để hàng hoá ứ đọng.
+ Chất lượng hàng hoá dịch vụ ngày càng được nâng cao và uy tín với khách hàng, bạn
hàng và người tiêu dùng, tạo được hình ảnh tốt đẹp và ấn tượng trước thị trường người
tiêu dùng cũng như các nhà cung ứng hàng cho cửa hàng.
3/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Nội dung của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại
bán lẻ.
Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường có vai trò quan trọng trong quyết định thiết lập và triển khai phổ
mặt hàng kinh doanh. Nó là khâu mở đầu cho quy trình và tạo lập một dữ liệu và cứ liệu
để định hướng và làm cơ sở định hình cho các quyết định Marketing chức năng, chi tiết
trong lĩnh vực tổ chức xây dựng mặt hàng kinh doanh ở một cửa hàng thương mại hay
một công ty thương mại.
+ Nghiên cứu Marketing mục tiêu bao gồm các nghiên cứu phân đoạn, xác lập cặp sản
phẩm - nhóm khách hàng trọng điểm, nghiên cứu Marketing sản phẩm, và định vị mặt
hàng sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Từ đó lựa chọn một pha trộn các kiểu chiến
lược định vị, chiến lược chất lượng, giá và những định hướng đáp ứng thị trường của
công ty.
+ Phân tích tình thế tài chính và kinh doanh gồm phân tích OT, phân tích WS, phân tích
tài chính đầu tư của công ty và đánh giá năng lực quan hệ với bạn hàng, mạng lưới sức
bán, cơ sở vật chất kĩ thuật và thế vị của công ty trên thị trường mục tiêu.

+ Phân tích và lượng định các căn cứ thiết lập mặt hàng kinh doanh của cửa hàng, công
ty thương mại bao gồm: căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, và thế vị trên thị trường của
mỗi loại hình cơ sở doanh nghiệp thương mại trực thuộc. Phân định nhu cầu thị trường
tiêu dùng trọng điểm của từng khu vực phục vụ, của từng cơ sở kinh doanh, căn cứ phân
tích nguồn sản xuất và cung ứng hàng trong và ngoài khu vực thị trường mục tiêu và
trình độ Marketing quan hệ của công ty; căn cứ vào loại đặc điểm nhu cầu thị trường
về các loại sản phẩm hàng hoá khác nhau. Ngoài ra khi xây dựng mặt hàng kinh doanh,
cần căn cứ vào những yếu tố ảnh hưởng khác. Tình hình phân bố địa điểm của cửa hàng
và thị trường xã hội, quy mô kích thước các phòng bán hàng, tình hình cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện tại và khả năng phát triển hoàn thiện trong tương lai của nó.
Xác định phổ mặt hàng của cửa hàng .
Việc quyết định khung của phổ mặt hàng thương mại là trách vụ của giám đốc
Marketing của công ty trên cơ sở những phân tích Marketing chức năng trên, công ty
có thể hình thành cho mình một khung các kích thứơc cơ bản của phổ mặt hàng . Số
nghành hàng, số lượng nhóm và phân nhóm, định hướng trọng điểm của dải giá trị, chất
lượng loại hàng trong nhóm. Trên cơ sở đó cần đưa ra xem cấu trúc của phổ mặt hàng
đơn giản hay phúc tạp, phân tán hay trọn bộ, rộng hay hẹp cho phù hợp với tình thế và
kiểu chiến lược bao phủ thị trường và tăng trưởng đã lựa chọn.
Phân tích và lựa chọn độ bền tương hợp cho phép xác định mối quan hệ giữa các loại
nhóm mặt hàng đối với một đoạn thị trường đích, một tập khách hàng trọng điểm với
4/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

một loại nhu cầu thị trường của công ty, từ đó có nhũng kết luận về tỉ lệ phối hợp pha
trộn, mặt khác tạo ra cơ sở cho công ty có quyết định khai thác vào phân đoạn con nào
trên toàn giải cấp độ nhu cầu và quyết định chiều sâu mặt hàng thương mại.
Để có quyết định chọn khung, cần phải đảm bảo các yêu cầu như sau:
+ Phổ mặt hàng đơn giản được hình thành từ những loại mặt hàng không có đòi hỏi

đặc biệt về phối thức sản phẩm, tác nghiệp công nghệ Marketing và hậu cần kinh doanh
không có những giao động thời vụ và việc tiêu thụ tương đối, thường xuyên, liên tục
hàng ngày. Mặt khác đó cũng là những loại hàng có cấu trúc chiều sâu rất ít.
+ Phổ mặt hàng phức tạp biểu thị một tập phức hợp các loại, tên hàng có đòi hỏi đặc biệt
với phối thức sản phẩm và kích thước chiều rộng, chiều sâu mặt hàng về quy cách kiểu
dáng, vật liệu chế tạo, màu sác phong cách ... Kèm theo đó mà tính chất và sự đa dạng
của các thông tin mặt hàng thị trường.
+ Phổ mặt hàng bổ xung bao hàm hai khía cạnh. Thứ nhất là có liên quan đến điểm hình
hoá mặt hàng kinh doanh và biểu thị những phần khả biến của trắc diện mặt hàng kinh
doanh, thứ hai là khái niệm này được sử dụng có liên quan tới tính lấp đầy để đồng bộ
hoá mặt hàng ở các cơ sở của doanh nghiệp thương mại.
+ Phổ mặt hàng hỗn hợp biểu thị tập hợp các mặt hàng thực phẩm và phi thực phẩm bao
gồm nhiều loại hàng thoả mãn các nhu cầu khác nhau, nhưng chiều sâu mặt hàng bi giới
hạn chủ yếu với các loại mà khách hàng đòi hỏi thường xuyên nhất. Thông thường đó là
các loại hàng thuộc nhu cầu nhật dụng và giá trị chất lượng bình thường và phổ thông.
+ Phổ mặt hàng liên hợp thường phát sinh do phối hợp mặt hàng có tính liên đới trong
chuyên doanh hoá các cơ sở doanh nghiệp thương mại bán lẻ hoặc theo tiêu thức liên
quan trong tiêu dùng đẻ phối hợp mặt hàng trong các gian thương mại ở các của hàng
tổng hợp.
+ Tính đồng bộ của phổ mặt hàng phát sinh trong trương hợp có tổ hợp đầy đủ của mặt
hàng được cung ứng và có năng lực thoả mãn toàn bộ giải cấp độ của một nhu cầu xác
định. Như vậy tính đồng bộ của phổ mặt hàng được cấu thành của phổ mặt hàng cơ bản
và mặt hàng bổ sung. Khái niệm này đặc biệt quan trọng đối với những mặt hàng có đặc
điểm, đặc trưng kĩ thuật.
+ Phổ mặt hàng rộng có liên quan đến khái niệm chiều rộng của phổ mặt hàng .Chiều
rộng của phổ mặt hàng thoả mãn các nhu cầu khác nhau của cùng một hợp nhóm càng
lớn thì phổ mặt hàng càng rộng và các quyết định phổ mặt hàng, công nghệ Marketing
bán hàng càng tinh vi và phức hợp.
+ Phổ mặt hàng hẹp là mặt đối lập của phổ mặt hàng rộng. Thông thường nói tới phổ
mặt hàng của một phân nhóm với một số lượng đầy đủ của các loại tên nhãn hiệu mặt

5/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

hàng. Phổ mặt hàng hẹp được sư dụng với với tiêu đề và khả năng có thể bổ sung bởi
một chiều sâu mặt hàng đầy đủ và đáng kể chỉ có một chiều sâu đầy đủ và phong phú
mới khắc phục được những dao động có tính thời vụ và tần suất mua hàng.
+ Phổ mặt hàng thương mại cơ bản đặc biệt sử dụng trong công nghệ Marketing bán
hàng khi thiết lập điển hình hoá mặt hàng để phản ánh bộ phận thường xuyên, ổn định
của trắc diện mặt hàng. Nhưng đơn vị vủa phổ mặt hàng này thường xuyên được cung
ứng và chuẩn bị sẵn sàng để bán trên các gian, tuyến và nơi công tác bán hàng. Phổ mặt
hàng cơ bản có quan hệ với phổ mặt hàng bổ sung, thay thế để tạo nên tổng mặt hàng
kinh doanh thương mại ở các cơ sở doanh nghiệp thương mại thích ứng với loại hình tổ
chức kinh doanh, kiểu cơ sở doanh nghiệp, giữa chúng có quan hệ biện chứng và chuyển
hoá lẫn nhau, ở mỗi một thời gian xác định, phổ mặt hàng cơ bản có tính ổn định cao,
trải qua thời gian, một số mặt hàng thuộc phổ mặt hàng bổ sung trở nên những thành tố
của phổ mặt hàng cơ bản và ngược lại một số mặt hàng thuộc phổ mặt hàng cơ bản nên
không tương hợp, hết chu kỳ sống và bị loại trừ ra khỏi phổ mặt hàng.
Để thiết lập được một pha trộn tố ưu phổ mặt hàng của công ty thương mại, cần thiết
phải lắm vững một số phân loại bổ sung có liên quan rất trực tiếp đến quản trị Marketing
mặt hàng kinh doanh.
Những sản phẩm có thể phân loại thành hai nhóm tuỳ thuộc tính bền và tần suất mua
hàng là các hàng hoá không bền và hàng hoá lâu bền.
Căn cứ vào thói quen tiêu dùng, mua sắm, người tiêu dùng và cung cách mau sắm của
khách hàng có liên hệ mật thiết đến chiến lược tiếp thị, có thể phân loại hàng tiêu dùng
thành các nhóm mặt hàng như nhóm mặt hàng tiện dụng, mặt hàng mua sắm, mặt hàng
chuyên dụng và mặt hàng ngậm.
Măt hàng kĩ nghệ là mặt hàng mà tên hàng do cá nhân hay tập thể, tổ chức mua về để
sản suất gia công hoặc sử dụng trong việc điều hành một doanh nghiệp. Một sản phẩm

có thể vừa là hàng tiêu dùng và là hàng kỹ nghệ tuỳ theo việc mua để làm gì.
Tổ chức nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh.
* Quyết định nhóm và gamme mặt hàng thuộc nhóm.
+ Phân tích nhóm mặt hàng cần phải lắm bắt được các thông số về doanh số và lợi nhuận
và đóng góp của các tên hàng vào tổng doanh thu và lợi nhuận của cửa hàng.
+ Quyết định chọn nhóm mặt hàng cung ứng của cửa hàng. Bài toán đặi ra là có nên duy
trì những nhóm hàng hiện thời hay không hay loại trừ hoặc bổ sung một hoặc một vài
nhóm mặt hàng. Vì vậy nhà quản trị phải cân nhắc hai quyết định quan trọng là chọn
nhóm mặt hàng sơ cấp và chọn nhóm mặt hàng bổ sung.

6/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

+ Quyết định chọn gamme mặt hàng của nhóm ở cửa hàng thương mại. Một gamme mặt
hàng cuả nhóm được hiểu là một tổ hợp chiều rộng, chiều sâu cùng nững đặc tính nổi
trội, những tỷ lệ pha trộn và cường độ trong tổng phổ của nhóm hàng xác định. Cần phải
qua các bước: quyết định chiều dài; quyết định hiện đại hoá gamme mặt hàng; quyết
định làm tăng đặc tính nổi trội của gamme hàng và quyết định loại bớt nhóm hàng.
* Quyết định chọn và hoàn thiện phối thức mặt hàng hỗn hợp.
+ Các quyết định thuộc tính công năng mặt hàng như: quyết định chất lượng, quyết định
chọn đăc tính nổi trội, và quyết định chọn phong cách mẫu mã mặt hàng.
+ Các quyết định chọn nhãn hiệu măt hàng như gồm các quyết định người đứng tên nhãn
hiệu mặt hàng, quyết định mở rộng nhãn hiệu măt hàng, quyết định đa nhãn hiệu, quyết
định tái định vị nhãn hiệu, quyết định một tên nhãn hiệu trong mối quan hệ trong giao
dịch thương mại.
+ Các quyết định bao bì và mác hiệu mặt hàng, ở đây có quyết định chọn bao bì, quyết
định mác hiệu bao bì.
+ Các quyết định về dịch vụ thương mại với mặt hàng gồm các quyết định như về phối

thức dịch vụ. quyết định về mức dịch vụ, quyết định về hình thức dịch vụ và quyết định
ban dịch vụ khách hàng.
Tổ chức thực hiện nghiệp vụ Marketing.
Tổng hợp kết quả các khâu quyết định trên thẩm định và đánh giá lại muc tiêu chính
sách mặt hàng kinh doanh của công ty, các nhà hoạch định kế hoạch Marketing mặt hàng
kinh doanh xác lập một tổng phổ mặt hàng của toàn công ty được phân theo các thành
phần chi tiết theo những vị thế, tỷ trọng và pha trộn mục tiêu khác nhau. Trên cơ sở này
các nhà quản trị thượng đỉnh có cơ sở đề ra các quyết định triển khai phối hợp vừa để
thực thi quyết định chi tiết vừa là cơ sở triển khai các quyết định biến số Marketing-Mix
còn lại, vừa phối hợp các bộ phận chức năng khác theo mục tiêu chiến lược đã xác lập.
Rõ ràng là các quyết định Maketing mặt hàng kinh doanh là tập quyết định phức tạp,
toàn diện và phải tuân thủ theo một cấu trúc quy trình, một phương pháp thích hợp để
tạo lập nên một trắc diện phong phú, đa dạng và phức hợp của hàng nghìn tên mặt hàng
trong các cơ sở doanh nghiệp thương mại. Trong thực tế khi vận dụng quy trình này
không phải lúc nào cũng theo thứ tự nêu ở trên, ở một số khâu đã được thực hiện từ
trước và có sẵn dữ liệu cho quyết định, một cố khâu khác mọi yếu tố lại đã được xác
định không thể can thiệp được nữa ,tuy nhiên điều đó không có nghĩa là bỏ qua một
bước nào trong một trật tự liên hệ logic, biện chứng hữu cơ với nhau. Điều đó có nghĩa
thừa nhận một kết quả ở một khâu nào đó sẽ phải điều chỉnh liên hợp cả hai phía trước
và sau sao cho đạt được một chuẩn mực tương thích lẫn nhau theo mục tiêu.

7/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Tiến hành các hoạt động hỗ trợ khác.
Sau khi xác định những ứng sử quyết định một phối thức mặt hàng hỗn hợp đạt được
tiến hành, nhà quản trị mặt hàng ở các công ty thương mại cần phải xem xét tính thời
điểm và tình thế thị trường của phối thức sản phẩm đó hiện ở vào giai đoạn nào của chu

kỳ sống để có những phân tích và quyết định về liều lượng, mức độ, tỷ lệ tham gia của
nó phía mặt hàng của doanh nghiệp thương mại. Tiếp đó nhà quản trị tiến hành phân
tích ma trận, chất lượng giá bán và có các định hướng cho phân hoá giá theo giải chất
lượng của gamme mặt hàng, theo cấu trúc, phase của chu kỳ sống và theo sức cạnh tranh
tương đối của phối thức mặt hàng lựa chọn.
Một phối thức chưa đủ để trở thành mặt hàng thương mại như khái niệm của nó mặt
hàng thương mại phải có thuộc tính “sẵn sàng để bán”, muốn vậy quyết định marketing
mặt hàng còn bao gồm các quyết đinh về nguồn hàng, về kênh phân phối sao cho luôn
tạo lập một dự trữ công tác đủ bán tương thích với nhịp điệu mua, tối ưu hoá chi phí vận
động, và các chi phí hỗ trợ Marketing thương mại với từng tên hàng.
Cuối cùng để đảm bảo độ chín tới của mặt hàng thương mại, nhà quản trị cần có những
quyết định phân bố, quy hoạch các cấp độ mặt hàng thương mại theo không gian, theo
tập khách hàng trọng điểm thông qua định doanh mục phức hợp cho mạng lưới cơ sở
doanh nghiệp thương mại, cũng như trong nội thất, chuẩn bị hàng và bán hàng của không
gian công nghệ marketing mặt hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của nghiệp vụ
marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng.
* Các nhân tố khách quan:
Khách hàng là các cá nhân hay tổ chức có nhu cầu về các loại hàng hoá mà doanh nghiệp
có thể cung ứng trong hiện tại và tương lai. Cầu ở đây có thể được bắt nguồn từ cầu hiện
hữu, cầu tiềm ẩn hoặc cầu phôi thai.
Đối thủ cạnh tranh: Đó là các doanh nghiệp đưa ra sản phẩm dịch vụ tương tự cho cùng
một khách hàng với mức giá giống nhau; các doanh nghiệp cùng kinh doanh một hoặc
một số loại sản phẩm, các doanh nghiệp kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận trên một
nhóm khách hàng nhất định.
* Các yếu tố chính trị và pháp luật:
Đó là sự ổn định về chính trị và đường lối đối ngoại ,sự cân bằng về chính sách của Nhà
Nước, vai trò và chiến lược kinh tế của Đảng và chính phủ, hệ thống pháp luật.


8/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

Các yếu tố kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế, sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối
lạm phát thất nghiệp và đầu tư.
Các yếu tố kỹ thuật và công nghệ: là yếu tố làm cho quá trình hình thành và phát triển
sản phẩm mới.
Các yếu tố văn hoá: ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành vi tiêu dùng của con
người.
Các yếu tố môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng.
* Nhân tố chủ quan:
+ Mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp:
Bao gồm những mặt hàng mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp cho thị trường, có thể
doanh nghiệp tự sản xuất hoặc thu mua từ các nguồn khác nhau.
+ Mạng lưới kinh doanh cơ sở vật chất:
Tạo cho khách hàng một môi trường phong phú để đi mua sắm, xem xét, tìm hiểu và
có cơ sở vật chất tốt thực hiện nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và niềm tin với
khách hàng sẽ lớn hơn.
+ Tiềm năng của doanh nghiệp:
Là khả năng cung ứng hàng hoá dịch vụ cho nhu cầu thị trường và ngày càng làm tốt
hơn những gì mà họ đang bán ra thị trường.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của nghiệp vụ Marketing mặt hàng kinh doanh
thương mại.
* Doanh số bán hàng:
+ Doanh số bán theo khách hàng.
+ Doanh số bán theo khách hàng mới.
+ Doanh số bán theo sản phẩm.
+ Doanh số bán theo sản phẩm mới.

* Tỷ lệ hoàn thành chỉ tiêu bán.

9/10


Cơ sở lý luận của nghiệp vụ marketing mặt hàng kinh doanh tại cửa hàng thương mại bán lẻ

* Vòng quay của vốn.
* Lãi gộp trên tài sản đang sử dụng.
* Lợi nhuận còn lại.
* Mức doanh lợi.
* Năng suất lao động .

10/10



×