Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.04 KB, 5 trang )

Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

Năng suất lao động mối quan
hệ giữa tiền lương thu nhập
và năng suất lao động
Bởi:
Học Viện Tài Chính
Khái niệm.
Năng suất lao động là chỉ tiêu về hiệu quả hữu ích của hoạt động có mục đích của con
người trong quá trình sản xuất.
Mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm.Như Mác đã viết:”Sự tăng lên của mức sản xuất hay năng suất của lao động ,chúng
ta hiểu nói chung là sự thay đổi trong cách thức lao động ,một sự thay đổi làm giảm ngắn
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng ít
hơn lại có được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn”.
Hao phí lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm gồm hai bộ phận: Lao động sống
và lao động quá khứ.Lao động sống là lao động trực tiếp tiêu hao trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm.Lao động quá khứ là phần lao động tiêu hao từ trước để làm ra nguyên
vật liệu và công cụ,nhà xưởng dùng cho quá trình sản xuất ra sản phẩm đó.
Cần phân biệt hai khái niệm năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội
.Năng suất lao động cá nhân chỉ liên quan đến lao động sống,tăng năng suất lao động
cá nhân là hạ thấp chi phí lao động sống.Năng suất lao động xã hội liên quan đến cả lao
động sống và lao động quá khứ,tăng năng suất lao động xã hội là hạ thấp cả chi phí lao
động sống và chi phí lao động quá khứ.

Ý nghĩa của tăng năng suất lao động.
Trước hết,năng suất lao động tăng làm giảm giá thành sản phẩm vì giảm chi phí tiền
lương trong một đơn vị sản phẩm.Tiền lương là giá cả của sức lao động ,nó là một trong
những chi phí cấu thành giá thành sản phẩm ,tăng NSLĐ có nghĩa là giảm chi phí sức


1/5


Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

lao động cho một đơn vị sản phẩm hay là giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản
phẩm,dẫn đến giá thành sản phẩm giảm.
Tăng NSLĐ cho phép giảm số người làm việc,do đó tiết kiệm được quĩ tiền
lương.NSLĐ cao và tăng nhanh sẽ tạo điều kiện tăng qui mô và tốc độ của tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,cho phép giải quyết các vấn đề tích luỹ tiêu dùng.

Mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập với NSLĐ.
Thực chất của mối quan hệ.
Trước khi tìm hiểu về mối quan hệ ,sự tác động qua lại giữa tiền lương,thu nhập và
NSLĐ,ta hiểu thực chất về mối quan hệ này là gì và nó là sợi dây xuyên suốt mối quan
hệ này.
Thực chất của mối quan hệ giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ là mối quan hệ giữa ăn
và làm hay cái được hưởng và cái làm ra hay xét trong phạm vi toàn xã hội là tiêu dùng
và sản xuất.
Giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ có một điểm gắn kết như sợi dây dàng buộc,đó là
quá trình lao động .Quá trình lao động gồm nhiều hoạt động lao động,sử dụng sức lao
động để tạo ra NSLĐ làm ra sản phẩm.Quá trình lao động đã làm hao phí sức lao động
của người lao động để tạo ra sản phẩm nên người lao động phải được nhận một khoản
tiền để bù đắp lại lượng lao động đã hao phỉ trong quá trình lao động,đó là tiền lương
.Đây chính là cái mà người lao động được hưởng sau khi đã sử dụng sức lao động của
mình tạo ra NSLĐ để tạo ra sản phẩm.Cụ thể hơn ,NSLĐ là một yếu tố của quá trình
lao động,là thước đo của việc sử dụng sức lao động ,đó là lao động .Lao động sản xuất
ra của cải vật chất.Còn tiền lương và thu nhập là giá cả trả cho sức lao động đã bỏ ra để
lao động làm ra của cải vật chất đó.Như vậy, người lao động sử dụng sức lao động để
làm ra sản phẩm và họ đựoc hưởng một lượng tiền gọi là tiền lương tương ứng với sức

lao động họ đã bỏ ra.Vậy mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và NSLĐ là mối quan
hệ giữa làm và ăn.
Ngoài ra ,trong mối quan hệ giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ,tốc độ tăng của tiền
lương thấp hơn tốc độ tăng của năng suất lao động.Như trên đã nói,giữa tiền lương,thu
nhập và NSLĐ có mối quan hệ nhưng mối quan hệ đó như thế nào,làm ra bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu hay chỉ hưởng một phần của cải làm ra ,khi NSLĐ tăng lên thì tiền
lương cũng tăng lên một lượng tương ứng hay chỉ tăng lên thêm một phần của làm
ra.Thực tế cho thấy tốc độ tăng năng suất lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.Tức
là lượng vật chất làm được thêm phải nhiều hơn phần được hưởng thêm do một số
nguyên nhân sau:

2/5


Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

• Do yêu cầu tăng cường khả năng cạnh tranh.Trong nền kinh tế thị trường,trong
sản xuất để cạnh tranh được thì giá thành sản phẩm phải thấp tức là phải giảm
chi phí cho một đơn vị sản phẩm.Tiền lương là một chi phí cấu thành nên giá
thành sản phẩm,giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm làm giảm giá
thành sản phẩm.Tăng NSLĐ làm giảm hao phí sức lao động cho một đơn vị sản
phẩm hay giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm.Nhưng mối quan
hệ giữa tăng NSLĐ và giảm chi phí tiền lương này là như thế nào,hay mối quan
hệ giữa tăng NSLĐ và tăng tiền lương là như thế nào.
Tóm lại : Tốc độ tăng CPSLĐ/SP = Tốc độ tăng TL - Tốc độ tăng NSLĐ
Để có thể cạnh tranh,CPSLĐ?1đvsp phải càng ngày càng giảm hay tốc độ tăng CPSLĐ/
1đvsp phải âm .Theo (*) thì tốc độ tăng CPSLĐ/1đvsp<0 Hay: Tốc độ tăng TL< Tốc độ
tăng NSLĐ
• Do NSLĐ chỉ là một bộ phận của tổng năng suất.NSLĐ tăng lên do nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan như công nghệ sản xuất,môi trường lao động,tài

nguyên thiên nhiên ,con người...trong đó có tiền lương.Như vậy tiền lương chỉ
góp một phần làm tăng NSLĐ.Khả năng tăng NSLĐ là lớn hơn so với khả năng
tăng tiền lương.
• Do yêu cầu của tích luỹ .Như trên đã nói,NSLĐ tăng lên có một phần do công
nghệ sản xuất vậy cần thiết phải trích một phần lợi nhuận từ kết quả do tăng
NSLĐ để tích luỹ nhằm không ngừng đầu tư ,đổi mới trang thiết bị công nghệ
để quay trở lại phục vụ sản xuất,làm tăng NSLĐ .Như vậy,sản phẩm làm thêm
được do tăng NSLĐ không được dùng hoàn toàn cho tăng thêm tiền lương làm
tốc độ tăng của tiền lương luôn bé hơn tốc độ tăng NSLĐ.
Cho đến nay,khi nói đến mối quan hệ giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ,hay mối quan
hệ giữa làm và ăn,quan niệm giữa làm trước ,ăn sau hay ăn trước ,làm sau vẫn không
được rõ ràng nhưng thực tế giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ có mối quan hệ biện
chứng.
NSLĐ tác động đến tiền lương và thu nhập
NSLĐ tác động đến quĩ tiền lương, làm tăng hoặc giảm quĩ tiền lương trong tổ chức
,doanh nghiệp nhưng không có nghĩa là tương ứng với nó cũng làm tăng hoặc giảm tiền
lương,thu nhập của người lao động .
NSLĐ tăng làm rút ngắn thời gian để hoàn thành một lượng công việc hay sản xuất ra
một khối lượng sản phẩm,từ đó hoàn thành vượt mức sản lượng hay hoàn thành đúng
mức sản lượng trước thời định.Vì vậy,người lao động được thưởng theo quy định góp
phần làm tăng thu nhập của người lao động.Mặt khác,tăng NSLĐ làm tăng sản phẩm

3/5


Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

làm ra,đối với công nhân hưởng lương sản phẩm thì lượng sản phẩm tăng thêm này làm
tăng tiền lương theo công thức:
TLTL = ĐGsp x Q.

Trong đó:
TLTL là tiền lương thực lĩnh
ĐGsp là đơn giá sản phẩm (hiểu theo cách hiểu thứ nhất)
Q là lượng sản phẩm làm ra.
Như vậy, tăng Q kéo theo tăng TLTL
Tóm lại “làm” có liên quan chặt chẽ đến “hưởng” làm ra được nhiều hơn thì được hưởng
nhiều hơn.
Tiền lương,thu nhập tác động đến NSLĐ.
Tiền lương chính là giá cả sức lao động,là hình thức biểu hiện giá trị sức lao động,là
lượng tiền dùng để mua sắm các tư liệu sinh hoạt nhằm tái sản xuất và tái sản xuất mở
rộng sức lao động.Tiền lương là một phạm trù thu nhập quốc dân được biểu hiện bằng
tiền bảo đảm thoả mãn nhu cầu vật chất,văn hoá trực tiếp mà Nhà nước dùng để phân
phối một cách hợp lý và có khoa học cho người lao động căn cứ vào số lượng ,chất
lượng mà người đó đã cống hiến cho xã hội phù hợp với nền kinh tế.Tiền lương là một
trong những công cụ kinh tế quan trọng nhất trong quản lý lao động,người ta dùng công
cụ này để kích thích thái độ quan tâm đến lao động do đó tiền lương là một nhân tố
mạnh mẽ để tăng NSLĐ,hay nói cách khác,đối với người lao động,tiền lương là khoản
thu nhập chính,để tăng tiền lương họ phải tăng NSLĐ.

Các chính sách về tiền lương tác động đến NSLĐ
Trong số các chính sách về tiền lương,chính sách về tiền lương tối thiểu rất quan
trọng,nó là trung tâm trong các mối liên hệ có liên quan đến tiền lương,tiền lương tối
thiểu có ảnh hưởng rất lớn đến tiền lương bình quân của người lao động theo công thức:
TLBQ = TLmin x (K x (H
Trong đó:
TLBQ là tiền lương bình quân

4/5



Năng suất lao động mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và năng suất lao động

TLmin là tiền lương tối thiểu
(K là hệ số điều chỉnh bình quân
(H là hệ số cấp bậc bình quân.
Theo công thức trên,khi tiền lương tối thiểu tăng thêm một lượng ít thì tiền lương bình
quân tăng thêm được một lượng gấp (K lần ,cho thấy việc đưa ra và điều chỉnh mức
lương tối thiểu là rất quan trọng. Tiền lương tối thiểu mà phù hợp sẽ có tác động tốt
đến người lao động với ý nghĩa làm một khoản thu nhập chính, từ đó bảo đảm được
năng suất lao động ổn định và tăng lên. Nêu tiền lương tối thiểu quá thấp, dẫn đến tiền
lương bình quân thấp, tiền lương không còn là khoản thu nhập chính của người lao động
và mất tác dụng kích thích người lao động làm việc, tăng năng suất lao động. Nếu tiền
lương tối thiểu quá cao, gây ra sự đảo ngược hay quan hệ không hợp lý giữa tốc độ tăng
tiền lương và tốc độ tăng năng suất lao động, từ đó ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế nói riêng, của xã hội nói chung. Ngoài ra,
việc chi trả cho tất cả cho các lao động trong tổ chức một cách công khai cũng có tác
động đến tâm lý lao động rất nhiều, việc công khai đó giúp người lao động cảm thấy sự
công bằng giữa những người lao động và giữa làm và hưởng của mình với người khác,
từ đó tạo sự phấn khởi trong lao động, giúp cho tăng năng suất lao động.
Các chính sách về tiền thưởng hay các hình thức thưởng cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến việc tăng năng suất lao động. Theo thuyết động cơ của Taylor, tiền là động cơ khiến
con người làm việc, tuy Taylor có mặt hạn chế vì ông coi tiền là động cơ duy nhất và ví
người lao động như cái máy mà tiền là năng lượng để nó hoạt động nhưng ông đã đúng
khi coi tiền là động cơ của lao động. Con người lao động do nhiều động cơ nhưng tiền
là động cơ chính, động cơ chủ yếu. Đối với người lao động mục đích của họ là thu nhập,
tiền thưởng là một khoản tiền làm tăng thu nhập, tiền thưởng cũng chính là động cơ lao
động của họ, nó nằm bên cạnh, xếp sau tiền lương. Trong các hình thức thưởng, thưởng
giảm tỉ lệ hỏng có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Giảm tỉ lệ sản phẩm hỏng có
nghĩa là tăng sản phẩm đạt tiêu chuẩn lên, tức là tăng năng suất lao động. Thưởng hoàn
thành vượt mức năng suất lao động, điều này có tính chất khuyến khích tăng năng suất

lao động rất rõ ràng, nếu người lao động đạt được nhiều sản phẩm hơn so với tiêu chuẩn
trong một đơn vị thời gian hay lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm là ít hơn so với tiêu chuẩn thì họ sẽ được hưởng vì tính rõ ràng này nên rất có tác
dụng tăng năng suất lao động của người lao động. Ngoài ra còn có thưởng nâng cao chất
lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, nguyên liệu, tuy những hình thức thưởng này
không có tác dụng trực tiếp đến tăng năng suất lao động nhưng từ việc thưởng này cũng
tạo động cơ để người lao động làm việc tốt hơn.

5/5



×