Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.02 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
Chương I : Nguồn vốn trong doanh nghiệp
I. Khái niệm,bản chất và vai trò của nguồn vốn.
1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn
2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn
2.1. Bản chất của nguồn vốn
2.2 .Vai trò của nguồn vốn
II – Nguồn vốn trong doanh nghiệp
1. Nguồn vốn chủ sở hữu
2. Nguồn vốn nợ
3. Điều kiện và động lực để thúc đẩy hiệu quả các nguồn vốn đầu tư:
Chương II. Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn của
DNNN Việt Nam hiện nay
I. Doanh nghiệp nhà nước .
1. Khái niệm của doanh nghiệp nhà nước
2.Vai trò của doanh nghiệp nhà nước .
II. Vốn đầu tư phát triển trong DNNN
1. Khái niệm
2. Nội dung của vốn đầu tư phát triển trong DNNN
2.1. Theo mục đích sử dụng
2.2 Theo nguồn gốc sở hữu về vốn
1
III . Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của
DNNN Việt Nam
1. Theo mục đích sử dụng
1.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.2 Vốn lưu động bổ sung
1.3 Các loại vốn khác
2. Theo nguồn gốc sở hữu vốn
2.1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
a) Vốn ngân sách nhà nước


b) Vốn góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa
2.2 Thực trạng huy động và sử dụng vốn nợ ở các doanh nghiệp nhà nước hiện
nay
Chương III . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động
và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong các DNNN hiện nay.
I. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước.
1. Ở tầm vĩ mô.
2. Ở tầm vi mô.
II. Một số giải pháp nhằm nầng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu
tư phát triển của DNNN.
1. Ở tầm vĩ mô .
2. Ở tầm vi mô
2
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương hàng đầu của
Đảng nhằm xây dựng một nền móng kinh tế vững chắc, sãn sàng đi lên sản xuất
lớn. Để thực hiện được thành công, chúng ta cần đảm bảo nguồn vốn cho nền
kinh tế và cho từng doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam
đang phải cành tranh hết sức khốc liệt để có thể tồn tại và có được chỗ đứng trên
thương trường mà một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của
doanh nghiệp là sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, làm thế nào huy động nguồn
ngân quỹ với chi phí thấp và phương tiện thanh toán nhanh nhất….Vấn đề này
đối với các doanh nghiệp nhà nước lại càng khó khăn hơn khi mà việc huy động
và sử dụng vốn vẫn mang tính bao cấp. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển
xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế, các DNNN phải sử dụng hợp lí
nguồn lực sẵn có, cải tiến máy móc thiết bị để không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành….Và trên hết là việc huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước.


Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, nhóm sinh viên đầu tư xin nghiên cứu
đề tài:
“ Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp huy động và
sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện
nay”.
Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng
em hoàn thành đề án này.
Chương I : Nguồn vốn trong doanh nghiệp
I. Khái niêm,bản chất và vai trò của nguồn vốn đầu tư
1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn
Vốn(C) là biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư.
Các nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động
và tất cả các tài sản vật chất khác.
3
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn đầu tư
2.1. Bản chất của nguồn vốn
Xét về bản chất ,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội .Điều này được kinh tế học cổ điển ,kinh tế học chính trị Mac –Lênin và
kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc ” Adam Smith,một đị diện điển
hình của kinh tế cổ điển đã khẳng định:Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia
tăng vốn .Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm .Nhưng
dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa ,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao
giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX,khi nghiên cứu về vấn đề cân đối kinh tế kinh tế ,về các

mối quan hệ giữa các khu vưc của nền sản xuất xã hội,về các vấn đề có liên
quan trực tiếp đến tích luỹ,C.Mac đã chứng minh rằng : Trong một nền kinh tế
với hai khu vực ,khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư
liệu tiêu dùng .Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong
đó c là phần tiêu hao vật chất ,(v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra .Khi đó, điều
kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải
đảm bảo (v+m)của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là
:
( v + m)I > (c)II
Hay nói cách khác:
4
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế ( của cả hai khu vực) mà còn
phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất
tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c + v + m)II < (v + m)I + (v + m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản
phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh
tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô
vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
cho đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử
dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản
xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm trong sinh hoạt ở cả hai
khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của Mác, con
đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản
xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và trong tiêu dùng. Hay nói cách

khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được nhà kinh tế
học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Lý thuyết tổng quát về việc
làm, lãi xuất và tiền tệ’ của mình, John Maynard keynes đã chứng minh được
rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng
5
thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng:
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: (I) = (S)

Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất
song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người
tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá
hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra
phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác
đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì
vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là
tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là
đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân
và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xét trên góc độ
toàn nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành cùng bởi một cá nhân hoặc
doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có

tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân,
doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đủ. Khi đó, thị
6
trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn
dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà
đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu ( nếu đáp ứng được một số điều kiện
nhất định và tuân thủ quy trình thủ tục nhất định ) để huy động vốn thực hiện
một dự án đầu tư nào đó từ các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân -
người dư thừa hay tạm thời dư thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn
hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước
khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn
nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong
trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó : CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ
của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư
từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong
những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh
tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai
thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2.2 .Vai trò của nguồn vốn đầu tư:
Để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển thì phải có vốn. Vốn là chìa khoá
để thực hiện mọi mục tiêu của doanh nghiệp. Vốn có tầm quan trọng đối với
hoạt động kinh tế như máu trong cỏ thể người.
7

Kế thừa những tư tưởng của những nhà kinh tế cổ điển, Mac đã trình bày
những quan điểm của mình vè vai trò của vốn qua các học thuyết : tích luỹ , tuần
hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đặc biệt Mac
đã chỉ ra nguồn gốc của vốn tích luỹ là lao động thặng dư do người lao động tạo
ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phàt triển sản xuất thì nó vận
động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mac đã tìm
thấy quy luật vận động tư bản (vốn) mà quy luật này nếu ta trừu tượng những
biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy bổ ích rằng công thức:
T – H –(SLĐ-TLSX) ...SX...H’...T’
Công thức đó đã chỉ ra rằng bất kì một doanh nghiệp nào muốn thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua-Sản xuất-
Bán hàng. Và điều quan trọng cho mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp phải
biết tìm cách cấu trúc một cách khôn ngoan các yếu tố của tiền vốn ,đầu tư
nhằm tạo ra nhiều của cải nhất cho mỗi cá nhân , mỗi doanh nghiệp và của cả xã
hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của vốn đầu tư nếu
như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trinh vận động liên tục
của các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng,
chứ nó chưa đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi các cá nhân, mỗi doanh nghiệp và
toàn xã hội. Tích luỹ vốn (tư bản) theo Mac là: “Sử dụng giá trị thặng dư làm tư
bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...”. Từ những phân tích
trên Mac đã chỉ ra bản chất của quá trình tích luỹ vốn trong các doanh nghiệp tư
bản chủ nghĩa: “Một khi kết hợp được sức lao động và đất đai tức là hai nguồn
gốc đầu tiên của cải, thì tư bản có một sức bành chướng cho phép nó tăng những
yếu tố tích luỹ của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như do lượng
của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư
liệu sản xuất (trong đó tư bản tồn tại) đã được sản xuất ra quyết định”.
8
Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được Mac khẳng định do những
nguyên nhân sau :”Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa thì quy mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh

trong điều kiện bình thường cũng tăng lên.”
Từ đó Mac khẳng định :” Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản nếu muốn
duy trì tư bản củ mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm mẫi lên và
không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày càng tăng lên được nếu không có
sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm”. Mac còn chỉ ra rằng những nhân tố quy định
quy mô của tích luỹ : khối lượng giá trị thặng dư (lơị nhuận) năng suất lao động
xã hội và quy mô vốn ban đầu (lượng tư bản ứng trước)...
Như vậy, cùng với lao động, vốn (tư bản) là một trong các yếu tố đầu vào
sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ.Công nghệ sản xuất hiện có quyết định mức sản
lượng được sản xuất ra từ một lượng tư bản và lao động nhất định. Hàm này cho
biết các nhân tố sản xuất quyết định mức sản lượng được sản xuất ra như thế
nào. Nếu kí hiệu Y là sản lượng thì ta có hàm sản xuất như sau:
Y = F(K,L)
Phương trình này nói rằng sản lượng là một hàm của khối lượng tư bản và
lao động. Tức là hàng hoá, dịch vụ được tạo ra phu thuộc vào lượng tư bản sẵn
có. Nhiều tư bản cho phép sản xuất nhiều sản phẩm hơn.
* Vốn là yếu tố quan trọng đồi với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế
Trên thị trường vốn
Ta có đẳng nhất thức nền kinh tế quốc dân như sau:
Y – C – G = I
9
Dưới hình thức này, đồng nhất thức của tài khoản kinh tế quốc dân phản
ánh tiết kiệm bằng đầu tư. Chúng ta có thể tách tiết kiệm quốc dân thành hai
phần, nhằm phân biệt tiết kiệm của hộ gia đình và tiết kiệm của chính phủ:
(Y-C-T)+(T-G)=I
Trong đó T là thuế
Biểu thức (Y-C-T) là tiết kiệm tư nhân.
Biểu thức (T-G) là tiết kiệm chính phủ
Nếu chi tiêu nhiều hơn thu, chính phủ bị thâm hụt ngân sách thì tiết kiệm
công cộng mang dấu âm.

Tiết kiệm quốc dân bằng tiết kiệm chính phủ cộng tiết kiệm tư nhân.
Trên thị trường tài chính
Lãi suất vừa là chi phí đi vay vừa là lợi ích đi vay. Chính vì thế nó đóng vai trò
điều chỉnh cân bằng trên thị trường vốn, đồng thời nó cho thấy vai trò của tiết
kiệm đối với tăng trưởng kinh tế
S(r) = I(r)
Ta có sơ đồ thị trường vốn:
I(r)
r
I
10
Nhìn vào sơ đồ ta thấy, bất kì sự thay đổi nào ảnh hưởng đến cung vốn sẽ
ảnh hưởng đến lãi suất và thông qua đó ảnh hưởng đến đầu tư. Nếu chính phủ
thực hiện chính sáh tài khoá thắt chặt làm tiết kiệm chính phủ tăng, đương cung
vốn dích sang phải dẫn tới lãi suất giảm, đầu tư tăng làm sản lượng tăng. Như
vậy, sự cắt giảm tiêu dùng sẽ giải phóng nguồn lực cho đầu tư.
Một nghiên cứu khác cũng khẳng định vai trò của vốn đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế, đó là hệ số ICOR
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng
truởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt được ở mức từ 15% đến 20%
so vớI GDp tuỳ thuộc vào ICOR của từng nước.
Vốn đầu tư
ICOR = --------------------------------
GDP do vốn tạo ra

Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mửc tăng GDP = ------------------------
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.

II. Nguồn vốn trong doanh nghiệp
1. Nguồn vốn chủ sở hữu
a. Vốn ban đầu:
11
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định, do các cổ đông_ chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức
sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình
thức tạo vốn của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước. Hiện
nay, cơ chế quản lí tài chính nói chung và quản lí vốn của doanh nghiệp nhà
nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp chủ sở hữu phải có số vốn
cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trong thực tế, vốn tự có của
chủ doanh nghiệp bao giờ cũng lớn hơn rất nhiều vốn pháp định, nhất là sau một
thời gian hoạt động và mở rộng hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn với công ty cổ
phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty.
Mỗi một cổ đông đóng góp là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ
phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau do đó, cách thức huy động vốn
của các công ty này cũng khác nhau.
b. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm đước chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài.
12
Để có được lợi nhuận để lại thì trước tiên doanh nghiệp phải đang hoạt

động, có lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp nhà nước
việc tái đầu tư còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của nhà nước.
Đối với công ty cổ phần việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố
nhạy cảm. Đó là mối quan hệ giữa việc chi trả cổ tức và giữ lại lợi nhuận để tái
đầu tư. Khi công ty để lại lợi nhuận, tức là cổ đông không được nhận cổ tức, bù
lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài, nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kì
trước mắt (ngắn hạn) do cổ đôg chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ
lệ chi trả cố tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể
bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề này cần lưu ý một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
- Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước.
- Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của
công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
- Hiệu quả của việc tái đầu tư.
c. Phát hành cổ phiếu:
Là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp và là nguồn tài chính dài hạn rất
quan trọng của doanh nghiệp.
♦ Cổ phiếu thường.
13
Cổ phiếu thường( còn gọi là cổ phiếu thông thường)là loại cổ phiếu thông
dụng nhất, đồng thời là chứng khoán quan trọng nhất đước trao đổi, mua bán
trên thị trường chứng khoán.
Sau khi phát hành phần lớn cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư- các cổ
đông. Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường.
Công ty phát hành có thể mua lại những cổ phiếu của mình và giữ chúng nhằm
mục đích nào đó, chúng được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Việc mua bán những cổ

phiếu này phụ thuộc vào một sổ yếu tố như:
Tình hình biến động vốn và khả năng đầu tư.
Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường.
Chính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty.
Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của uỷ ban chứng khoán
nhà nước.
♦ Cổ phiếu ưu tiên.
Được hiểu là loại cổ phiếu phát có kèm theo một số điều kiện ưu tiên cho
nhà đầu tư sở hữu nó. Thường chỉ chiểm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc sủ dụng cổ phiếu
ưu tiên là thích hợp.
Cổ phiếu ưu tiên có đắc điểm là nó thường có cổ tức cổ định. Người chủ
sở hữu cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thông
thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông
thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu lại khi công
ty cần thiết
14
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là
thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty,cổ
tức được lây từ lợi nhuân sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên.
Ngoài ra vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần
chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, chênh lệch tỷ giá.
♦Chứng khoán có thể chuyển đổi
Ở một số nước, các công ty có thể phát hành những chứng khoán kèm
theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa
chọn cho phép các bên (công ty,người đầu tư) có thể chuyển đổi, ở đây chỉ đề
cập sơ lươc hai loại :
- Giấy bảo đảm : người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường được quy định trước với giá cả thời gian xác định.

2. Nguồn vốn nợ:
a) Phát hành trái phiếu công ty.
• Khái niệm.
Đối với các công ty nhà nước tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn thì không được phép phát hành cổ phiếu mà chỉ có thể phát hnàh trái
phiếu. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
• Phân loại:
Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng
nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi xuất được
ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Tính
hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
15
Lãi suất của trái phiếu.
Kỳ hạn của trái phiếu.
Uy tín của doanh nghiệp.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: thực ra lãi suất của loại trái phiếu này phụ
thuộc vào nguồn lãi suất quan trọng khác. Trong điều kiện có mức lạm phát khá
cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu
việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm
là doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều
này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính; việc quản lý trái
phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo điều
chỉnh lãi suất.
Trái phiếu có thể thu hồi: tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời
gian nào đó. Loại trái phiếu này phải được quy định ngay từ đầu để khách hàng
biết. Loại trái phiếu này có những ưu điểm như: có thể sử dụng như một cách
điều chỉnh lượng vốn sử dụng, khi không cần thiết doanh nghiệp có thể mua lại
các trái phiếu đó và thay bằng nguồn tài chính khác. Tuy nhiên nếu không có
hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích.

Chứng khoán có thể chuyển đổi: cho phép doanh nghiệp, người đầu tư có
thể lựa chọn cách đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi
như:
Giấy bảo đảm : người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
Trái phiếu chuyển đổi : là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành
một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên
thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
16
b) Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
♦ Vai trò:
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không
chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các doanh
nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung
cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Không một doanh
nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại
nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngắn hạn ngân
hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp.
♦ Phân loại.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân thành ba loại:
Vay dài hạn: thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính 5 năm. Có lãi suất cao, vì
mang nhiều rủi ro cho người cho vay.
Vay trung hạn: Từ 1 đến 3 năm. Có lãi suất thấp hơn vay dài hạn.
Vay ngắn hạn : dưới 1 năm. Có lãi suất thấp nhất.
Theo tính chất và mục đích sử dụng, có thể phân thành các loại:
Vay để đầu tư tài sản cố định.

Vay đầu tư tài sản lưu động.
Vay theo dự án.
• Hạn chế.
17

×