Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
Quản lý Nhà nước về tiền
lương thu nhập trong các
doanh nghiệp Nhà nước
Bởi:
Học Viện Tài Chính
Quản lý Nhà nước về tiền lương
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã
hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người
lao động trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước quản lý thống nhất về tiền
lương. Đối với người lao động là công nhân viên chức, Nhà nước trực tiếp quản lý tiền
lương (theo các chỉ tiêu cụ thể về đối tượng hưởng lương, bậc lương và tiền lương tối
thiểu). Nhà nước cũng thực hiện một cơ chế kiểm soát trong thực hiện chính sách và
chế độ tiền lương, trên cơ sở luật pháp về tiền lương, các hợp đồng lao động và thuế thu
nhập. Đối với người lao động không phải là công nhân viên chức Nhà nước, Nhà nước
cũng thực hiện quản lý và kiểm soát tiền lương trên cơ sở luật pháp về lao động và tiền
lương.
* Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được phân cấp thực hiện như sau :
• Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền
lương ở cấp cao nhất. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành các văn
bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây dựng đơn giá
tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số điều chỉnh cần thiết và thông
báo các thông tin cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các Bộ, ngành và địa phương trong
toàn quốc.
• Các Bộ quản lý ngành, các đại phương (cấp tỉnh, thành phố) có trách nhiệm và
quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong
phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ - TB&XH. Trong đó, phải báo
cáo thường xuyên lên Bộ LĐ - TB&XH về công átc quản lý tiền lương tại Bộ,
ngành mình.
1/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
• Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác lao động, tiền lương theo
quy định, trong đó công tác tổ chức, xây dựng đơn giá và thực hiện các thủ tục
hành chính cần thiết trong hoạt động tiền lương; và báo cáo lên cơ quan quản lý
cấp trên về tiền lương và thu nhập của doanh nghiệp mình.
* Quản lý tiền lương, thu nhập của Nhà nước có những nội dung cụ thể sau :
• Nghiên cứu ban hành hệ thống văn bản pháp lý về tiền lương, thu nhập như :
+ Từng thời kỳ ban hành mức tiền lương tối thiểu chung, mức tiền lương tối thiểu theo
khu vực, mức tiền lương tối thiểu theo vùng;
+ Xác định hệ thống thước đo giá trị thông qua hệ thống thang lương, bảng lương, chế
độ phụ cấp lương;
+ Quy định các chế độ trả lương và cơ chế quản lý tiền lương của từng khu vực;
+ Ban hành các tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân, tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ và các phương pháp xây dựng định mức lao động tổng hợp cho
các thành phần kinh tế.
• Xây dựng chương trình mục tiêu, chủ trương, phương hướng, kế hoạch về tiền
lương, tiền công chung và của từng thành phần kinh tế cho từng thời kỳ.
• Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách tiền lương, thu nhập, các
tiêu chuẩn, định mức trong các thành phần kinh tế nói chung cũng như các
doanh nghiệp nói riêng.
Quản lý Nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước phải đứng trên giác
độ chung để quản lý lao động, tiền lương trong phạm vi toàn xã hội nhưng đồng thời Nhà
nước cũng phải tăng cường biện pháp quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả, ổn
định việc làm, thu nhập cho người lao động và tiếp tục phát triền giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế.
Khi nói đến quản lý tiền lương, thu nhập trong doanh nghiệp Nhà nước là nói đến việc
xác định quan hệ phân phối lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nói
đến quan hệ phân phối thì chính là nói đến sở hữu, đến vai trò quyết địnhcủa chủ sở hữu,
đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong
quan hệ sản xuất, vì người nào nắm quyền sở hữu thì người đó sẽ có quyền chiếm dụng,
quyền định đoạt và quyền hưởng thụ. Cũng vì lẽ đó, sở hữu là xuất phát điểm, làm cơ sở
2/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
cho chủ sở hữu quyết định sẽ quản lý tài sản của mình ra sao, sẽ phân phối kết quả sản
xuất kinh doanh mà tài sản đó mang lại như thế nào.
Trong kinh tế quốc doanh, tính chất sở hữu ở đây chính là sở hữu toàn dân mà Nhà nước
là người đại diện chủ sở hữu do vậy đương nhiên Nhà nước đóng vai trò quyết định
chính sách phân phối. Nhưng vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước thì Nhà nước quản lý như thế nào, quản lý đến đâu và cụ thể là ai?
Trong thời kỳ quản lý tập trung chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước. Trung
ương quyết định tất cả, quản lý tất cả, trong lĩnh vực lao động, tiền lương quyết định từ
tuyển dụng, đào tạo đến mức lương, tổng quỹ lương... của doanh nghiệp. Sự tuyệt đối
hoá có tính quan liêu này đã phải trả giá không nhỏ là triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo,
tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhà nước trở thành chỗ dựa vững chắc cho các
doanh nghiệp tồn tại, tiền lương do Ngân sách chi trả mang nặng tính bình quân, không
gắn với năng suất, hiệu quả của từng người, của từng doanh nghiệp.
Nhận thấy những tồn tại trên, từ những năm đầu của thập kỷ 80 chúng ta đã bắt đầu đổi
mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp, bước đầu tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh.
Song xác định ai là người cụ thể đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp qua thực tiễn
đổi mới vừa qua cho thấy không phải là việc dễ dàng, nhiều công trình khoa học còn
đang tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ vấn đề này. Ở đây cần lưu ý một điều là không
được hiểu lẫn lộn giữa Nhà nước sở hữu và Nhà nước kinh doanh trực tiếp. Nếu hiểu
Nhà nước nói chung thì không những không tạo điều kiện tách hai chức năng sở hữu và
kinh doanh mà sẽ dẫn đến tình trạng Nhà nước bao biện, làm thay cho doanh nghiệp,
còn doanh nghiệp thì thiếu chủ động như trước đây. Nếu coi nhẹ mặt sở hữu sẽ dẫn đến
thất thoát, lãng phí và đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước đạt hiệu quả thấp.
Từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đến nay trong phạm vi một ngành, một vùng chúng
ta vẫn xác định chủ sở hữu là các Bộ, ngành đối với doanh nghiệp ở Trung ương và địa
phương đối với những doanh nghiệp ở địa phương. Nhưng khi thực hiện đang có sự xâm
lấn nhau trong chức năng giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp. Một mặt các
cơ quan quản lý Nhà nước quản lý không chặt những vấn đề cần quản lý đối với các
doanh nghiệp Nhà nước mà thường hay can thiệp sâu vào công việc quản lý tác nghiệp
của doanh nghiệp. Mặt khác các doanh nghiệp ngoài chức năng kinh doanh lại còn được
giao thực hiện một số công việc thuộc chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Việc can thiệp sâu vào công việc quản trị kinh doanh đã làm cho các doanh nghiệp tiếp
tục ỷ lại Nhà nước, không phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm, không
có khả năng đưa ra những giải pháp kịp thời cho những cơ hội làm ăn của mình, đồng
thời đã làm cho các cơ quan chủ quản không tập trung được sức lực thời gian để thực
hiện chức năng của chính mình là quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
hoạt động kinh doanh theo đúng hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, tuân thủ
đúng pháp luật.
3/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
Những vấn đề nêu trên cho thấy vấn đề chủ sở hữu trong doanh nghiệp vẫn chưa có giải
pháp rõ ràng, giữa Nhà nước, Giám đốc và tập thể người lao động vẫn còn đan xen chưa
có sự phân định minh bạch.
Do vấn đề chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng nên chính sách phân phối nói chung
và chính sách tiền lương nói riêng đối với doanh nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều
quan điểm chưa phù hợp.
Tháng 4/1995 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua đã qui định rõ chủ sở hữu
đối với tài sản công trong doanh nghiệp Nhà nước là Chính phủ, đồng thời cho phép
Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các Bộ, ngành và Ủy ban thực hiện một số quyền
này. Còn đối với doanh nghiệp, dù kinh doanh hay hoạt động công ích, chỉ được quyền
quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ của mình và tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp
quản lý.
Luật doanh nghiệp nhà nước đã xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn và tài
sản trong doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập đối với
các doanh nghiệp cũng phải xác định phù hợp với quyền sở hữu của Nhà nước.
Trước hết, Nhà nước giữ vai trò quy định chính sách tiền lương để các doanh nghiệp áp
dụng;
Tiếp đến, Nhà nước quản lý thống nhất thông qua những biện pháp gián tiếp như ở giới
hạn thấp nhất quy định tiền lương tối thiểu, ở giới hạn cao nhất thì điều tiết thông qua
thuế thu nhập. Biện pháp trực tiếp như xác định yếu tố đầu vào chi phí tiền lương của
sản phẩm, dịch vụ hoặc chính sách phân chia lợi nhuận.
Trong phạm vi nguồn quỹ thu nhập gồm quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng doanh nghiệp
được quyền trả lương cho người lao động theo năng suất và mức độ đóng góp của từng
người.
Tóm lại vai trò của Nhà nước về quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp là hết sức cần
thiết nhưng nội dung, phương pháp quản lý phải phù hợp với kinh tế thị trường.
Mô hình tổ chức quản lý tiền lương hiện nay như sau :
4/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
Cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước:
Để đáp ứng đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định
26/CP ngày 25/03/1993 và Nghị định 28/CP ngày 28/3/1997 về đổi mới quản lý tiền
lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó Nhà nước không trực tiếp
quản lý quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ tiền
lương thông qua đơn giá tiền lương được Nhà nước giao (trên cơ sở doanh nghiệp đã
xác định đơn giá và có sự điều chỉnh của Nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện của
từng ngành, lĩnh vực, điều kiện thực tế và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
có tính đến giá cả sức lao động trên thị trường).
Việc quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước được quy định như
sau :
Nguyên tắc chung:
- Các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp nhà nước đều phải có định mức lao động và
đơn giá tiền lương. Đơn giá tiền lương phải được xây dựng trên cơ sở định mức lao động
trung bình tiên tiến của doanh nghiệp và các thông số tiền lương do Nhà nước quy định.
Khi thay đổi về định mức lao động và các thông số tiền lương thì thay đổi đơn giá tiền
lương.
5/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
• Tiền lương và thu nhập phụ thuộc vào thực hiện khối lượng sản phẩm, dịch vụ,
năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tốc độ tăng
tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
• Tiền lương và thu nhập của người lao động phải được thể hiện đầu đủ trong Sổ
lương của doanh nghiệp theo mẫu thống nhất do Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội ban hành.
• Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thực hiện theo khoản
4 và 5, Điều 33, Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với
doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/
1996 của Chính phủ và Nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh
đối với doanh nghiệp nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày
03/10/1996 của Chính phủ).
• Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập thông qua quản lý định mức lao động,
đơn giá tiền lương và tiền lương thực hiện của doanh nghiệp.
Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước:
* Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội:
- Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp
xếp hạng đặc biệt sau khi trao đổi ý kiến với Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp của Bộ Tài chính
- Hằng năm tổng hợp tình hình giao đơn giá tiền lương của tất cả các doanh nghiệp nhà
nước từ Trung ương đến địa phương
- Thông báo mức lương bình quân chung của các doanh nghiệp được nhà nước giao đơn
giá tiền lương vào cuối quý II, đầu quý III hằng năm làm cơ sở xác định lương bình quân
thực hiện tối đa của các doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2, điều 5 Nghị định số 28/
CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương,
thu nhập của các doanh nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, các Tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
* Đối với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực:
- Trước tháng 4 hằng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp
thuộc quyền quản lý
- Phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thẩm định đơn giá tiền lương cho
các Tổng công ty thành lập theo quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng
Chính phủ được xếp doanh nghiệp hạng đặc biệt
6/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
- Kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động, tiền lương,
thu nhập của các doanh nghiệp thuộc quyền
* Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo để Sở Lao độngThương binh và Xã hội phối hợp với các Sở quản lý ngành, lĩnh vực:
- Hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của địa phương để xây dựng đơn
giá tiền lương theo quy định tại Thông tư 13/LĐTB&XH-TT ngày 10/4/4997
- Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp
nhà nước và các Công ty cổ phần có trên 50% vốn do doanh nghiệp nhà nước góp thuộc
quyền quản sau khi trao đổi quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp ở địa
phương.
- Thanh tra kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động,
tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp trực thuộc địa phương.
* Cán bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các Sở Lao động -Thương binh và Xã hội Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Chậm nhất vào tháng 5 hàng năm, báo cáo về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
tình hình đơn giá tiền lương hàng năm kế hoạch cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản
lý và tình hình lao động, tiền lương, thu nhập thực hiện năm trước của các doanh nghiệp
theo mẫu số 1 và mẫu số 2 kèm theo thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
- Tổ chức và củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương, bố trí,
bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ, nghiệp vụ chuyên môn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu
cầu của công tác thẩm định, quản lý định mức lao động và đơn giá tiền lương theo quy
định của Chính phủ và hướng dẫn tại thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
Trách nhiệm của doanh nghiệp
* Về tổ chức công tác lao động tiền lương:
- Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác quản lý theo Bộ Luật lao động
và Luật doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện việc xây dựng định mức lao động, tổ chức
và phân công lao động, xây dựng đơn giá tiền lương và phân phối tiền lương gắn với
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh của đơn vị và cá nhân người lao động, các
doanh nghiệp phải tổ chức, củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền
lương của doanh nghiệp, bố trí và bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ nghiệp vụ, chuyên
môn thực hiện công việc theo yêu cầu.
* Về xây dựng đơn giá tiền lương:
7/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước nói chung:
Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký định mức
lao động theo quy định.
- Đối với doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt:
Tổng Giám đốc có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký mức lao động theo
hướng dẫn tại Thông tư số 14/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội; xây dựng đơn giá tiền lương báo cáo Hội đồng quản trị hoặc Bộ quản lý
ngành, lĩnh vực (nếu là tổng Công ty 90/TT được xếp hạng đặc biệt) xem xét, có công
văn gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị thẩm định và giao đơn giá tiền
lương.
Các doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương từ quý IV năm báo cáo để
gửi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền kịp thẩm định và giao đơn giá tiền lương
vào quý I năm kế hoạch.
* Thủ tục hành chính đề nghị duyệt đơn giá tiền lương:
Theo phân cấp và tổ chức quản lý, sau khi xây dựng đơn giá tiền lương, doanh nghiệp
có công văn gửi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và giao đơn giá tiền lương theo quy
định tại điểm 2 nói trên;
Công văn gửi kèm các biểu sau:
- Biểu trình xây dựng đơn giá tiền lương theo mẫu số 3a và số 3b.
- Đối với doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên và có nhiều đơn giá tiền lương thì lập
biểu tổng hợp đơn giá tiền lương theo mẫu số 4.
* Báo cáo tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập.
Vào quý I chậm nhất là tháng 4 năm kế hoạch, doanh nghiệp phải báo cáo cho cơ quan
có thẩm quyền giao đơn giá tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập của
năm trước liền kề theo mẫu số 5 kèm theo Thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
Xác định quỹ tiền lương thực hiện theo kết quả sản xuất kinh doanh.
* Điều kiện xác định quỹ tiền lương thực hiện:
- Các chỉ tiêu tổng sản phẩm hàng hoá (kể cả sản phẩm quy đổi), tổng doanh thu, chi
phí, lợi nhuận thực hiện được xác định theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh
doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định số 59/ CP ngày3/
8/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
10/1996 của Chính phủ. Trong các chỉ tiêu nêu trên, nếu có yếu tố tăng hoặc giảm do
nguyên nhân khách quan, không tính đến khi xây dựng đơn giá tiền lương thì phải loại
trừ khi xác định quỹ tiền lương thực hiện.
- Trước khi xác định quỹ tiền lương thực hiện, doanh nghiệp phải đánh giá và xác định
các khoản nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận thực hiện và so sánh với năm trước đó.
Nếu các chỉ tiêu này không đảm bảo đủ điều kiện được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng
thêm theo quy định tại tiết b.3, điểm 2 mục III của thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/
4/1997 thì doanh nghiệp phải trừ lùi quỹ tiền lương thực hiện cho đến khi đảm bảo đủ
điều kiện theo quy định nói trên.
* Xác định quỹ tiền lương thực hiện :
- Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao và kết quả sản xuất,
kinh doanh, quỹ tiền lương được xác định như sau :
Vth = (Vđg x Csxkd) + Vpc +Vbs + Vtg
Trong đó :
Vth : Quỹ tiền lương thực hiện
Vđg : Đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao
Csxkd : Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng sản phẩm hàng hóa thực hiện, hoặc
doanh thu (doanh số thực hiện), hoặc tổng thu trừ tổng chi (không có tiền lương), hoặc
lợi nhuận thực hiện ứng với chỉ tiêu giao đơn giá tiền lương
Vpc : Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác (nếu có) không được tính trong
đơn giá trong quy định (ví dụ : phụ cấp thợ lặn, chế độ thưởng an toàn hàng không...),
tính theo số lao động thực tế được hưởng ứng với từng chế độ.
Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung, chỉ áp với các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương
theo đơn vị sản phẩm. Quỹ tiền lương bổ sung trả cho thời gian thực tế không tham gia
sản xuất được hưởng lương theo chế độ quy định của số công nhân viên trong doanh
nghiệp, mà khi xây dựng định mưc lao dộng không tính đến, bao gồm : quỹ tiền lương
nghỉ phép năm, nghỉ việc riêng, nghỉ lễ tết, nghỉ theo chế đọ lao động nữ, hội họp, học
tập... theo quy định của Bộ luật Lao động
Vtg : Quỹ tiền lương làm thêm giờ được tính theo số giờ thực tế làm thêm nhưng không
vượt quá quy định của Bộ Luật lao động.
- Khi quyết toán quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao, nếu tiền lương thực
hiện bình quân của người lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp
9/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
cao hơn 2 lần mức lương bình quân chung do Bộ LĐTBXH thông báo thì doanh nghiệp
chỉ được quyết toán tổng quỹ tiền lương thực hiện ững với mức tiền lương bình quân của
lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp bằng hai lần mức lương
bình quân được thông báo.
- Các doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và chưa có đơn giá tiền lương
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì quỹ tiền lương thực hiện được xác
định theo số lao động thực tế bình quân sử dụng nhân với hệ số mức lương bình quân
của doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá quyết định với mức lương tối
thiểu chung do Chính phủ quy định (tại thời điểm thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm
2001 là 210.000đ/tháng).
Tổng quỹ tiền lương thực hiện được xác định nói trên là chi phí hợp lệ trong giá thành
hoặc phí lưu thông, đồng thời làm căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế của doanh nghiệp.
Giao đơn giá tiền lương và quy chế phân phối, trả lương trong doanh nghiệp.
* Giao đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở cơ cấu
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sau khi
trao đổi ý kiến với ban chấp hành Công Đoàn cùng cấp, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc
Giám đốc các doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị), xem
xét và giao đơn giá tiền lương cho các đơn vị thành viên (hạch toán độc lập hoặc phụ
thuộc).
Việc giao đơn giá tiền lương cần chú ý một số nội dung sau:
- Đơn giá tiền lương được giao phải gắn với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả nhất;
- Hệ số điều chỉnh tăng thêm để tính đơn giá tiền lương cho từng đơn vị thành viên có
thể khác nhau tuỳ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng không vượt quá hệ số điều
chỉnh tăng thêm tối đa là 1,5 lần so với mức tối thiểu theo quy định tại mục III Thông tư
13/LĐTBXH - TT ngày 10 tháng 4 năm 1997.
- Được trích lập quỹ lương dự phòng tối đa là 7% tổng quỹ tiền lương kế hoạch (Vkh)
để xây dựng đơn giá tiền lương được giao nhằm điều chỉnh và khuyến khích các đơn
vị thành viên hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh của cả doanh nghiệp. Quỹ dự
phòng này phải được phân bổ hết trước khi quyết toán tài chính năm:
- Sau khi quyết toán tài chính, nếu quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao thì
phần chênh lệch được trích lập quỹ dự phòng cho năm sau nhằm ổn định thu nhập của
người lao động trong trường hợp sản xuất, kinh doanh giảm do những nguyên nhân bất
10/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
khả kháng. Mức quỹ dự phòng do Giám đốc thoả thuận với ban chấp hành công đoàn
cùng cấp quyết định và không được sử dụng vào mục đích khác;
- Việc giao đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch cho các đơn vị thành viên khi tổng hợp
lại không vượt quá đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
* Quy chế phân phối và trả lương trong các đơn vị thành viên:
- Căn cứ vào đơn giá tiền lương được giao, các đơn vị thành viên có toàn quyền phân
phối quĩ tiền lương và trả lương gắn với năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất,
kinh doanh cho từng đơn vị, bộ phận và cá nhân người lao động thuộc quền quản lý trên
cơ sở quy chế phân phối, trả lương.
Bản quy chế phân phối, trả lương cho đơn vị thành viên phải được tổ chức công đoàn
cùng cấp thoả thuận trước khi ban hành và phổ biến đến từng người lao động. Sau đó
đăng ký với Sở Lao động-Thương Binh và xã hội địa phương (nếu doanh nghiệp thuộc
địa phương quản lý) hoặc với cơ quan giao đơn giá tiền lương (nếu doanh nghiệp thuộc
Trung ương quản lý).
- Việc quy định trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động theo qui chế chủ
yếu phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác, giá trị cống hiến của từng
bộ phận, cá nhân người lao động, không phân phối bình quân. Đối với lao động có trình
độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi, giữ vai trò đóng góp quan trọng cho việc hoàn thành
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và thu nhập phải được trả
thoả đáng. Đối với lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ giản đơn,
phổ biến thì mức lương trả cần cân đối với mức lương của lao động trên cùng địa bàn,
không tạo ra sự chênh lệch thu nhập quá bất hợp lý, gây mất cân bằng xã hội. Chênh
lệch về tiền lương và thu nhập giữa lao động phục vụ, giản đơn với lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi trong nội bộ đơn vị do đơn vị xem xét qui định cho phù
hợp, bảo đảm chống phân phối bình quân.
Tóm lại, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước được
thể hiện trên những điểm sau:
- Mức tiền lương tối thiểu, hệ thống thang, bảng lương, các chế độ phụ cấp lương do
Nhà nước ban hành làm căn cứ để thực hiện các vấn đề:
+ là thang giá trị để tính toán đơn giá tiền lương của doanh nghiệp
+ là căn cứ tính toán thếu thu nhập doanh nghiệp
+ là cơ sở để thực hiện các chế độ BHXH, BHYT
- Về cơ chế tiền lương:
11/12
Quản lý Nhà nước về tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
+ Nhà nước xác định đơn giá tiền lương của doanh nghiệp ở đầu vào trên cơ sở định
mức lao động trung bình tiên tiến do doanh nghiệp xây dựng và các thông số tiền lương
do Nhà nước qui định
+ Bảo đảm quan hệ tiền lương hợp lý giữa các doanh nghiệp, tiền lương thực hiện bình
quân của các doanh nghiệp cao nhất không quá 3 lần tiền lương bình quân chung của
các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương.
+ Căn cứ đơn giá tiền lương được giao và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, Giám đốc được toàn quyền phân phối quỹ tiền lương và trả lương cho người lao
động. Giám đốc xây dựng quy chế trả lương, trả thưởng cho người lao động trong doanh
nghiệp trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn tiền lương, tiền thưởng với
năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của từng người, khuyến khích những người
có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi.
12/12