Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.5 KB, 10 trang )

Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Tổng quan về bảo hiểm nhân
thọ
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu
những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583,
ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả
cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ
bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù
đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những
rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
• Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học
kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai
nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
• Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có
nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó
khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều
biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây
ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn
thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm


thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và
1/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn
ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục
các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải
đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia
đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là
một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá
nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên
cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn
là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về
các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi
ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của
cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển
cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu
của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở châu Á, những
năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm
bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế
thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT
giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội
như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới
đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi

ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật
toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có
ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ
sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang
thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối
và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân
hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với
việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp,
chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.

2/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo
hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy
bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách
nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết
kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước.

Vai trò và vị trí của BHNT
Vai trò của BHNT
Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta cần hiểu rõ
khái niệm về BHNT:

Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà
trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo
hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo
hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người tham gia phải nộp phí
bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên
quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lường
trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng
cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn
về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu
tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ dược đảm bảo về mặt
tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra,
thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn
hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu
cầu ngày càng cao của con người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng thêm quyền
lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một lượng
tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ cấp (trợ
cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà
nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có người khác chịu trách
nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời,

3/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ


người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời
tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế,
BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh
đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp
hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi tham
gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà lượng vốn
được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phảI có một
lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy
mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều
kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các công
ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật
Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra
các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa
vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua
BHNT có thể trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ
cũng như vàng). Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường
BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm
của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một
thời gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên ra trường
cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà
lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những người không
có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích.
Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ

nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã góp
phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh
nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán
bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người, riêng nội thành đã có 16 phòng
khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ chuyên nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên
nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngoài ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các
quận huyện trong cả nước.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một tập
quán, một phong cách sống mới.

4/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải coi là
nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng thì nguồn
lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu
gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín
dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện
pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của
gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư
cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm
của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho mỗi
người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo
dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho người thân
đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố quyết định sự
phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con người là vô cùng quan

trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát triển toàn diện con người của
Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội như
giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong cuộc
sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động, người cao
tuổi....

Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm.
BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm hoạt
động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một
vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu
hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành
một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt
trong dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm
hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình bảo hiểm
hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT
với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị
trường bảo hiểm nói chung.

5/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được trên thị trường BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng tăng
và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH. Tuy nhiên tốc

độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt
động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt
tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm
52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa nhận
rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình trong
thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói
chung.

Những đặc điểm cơ bản của BHNT.
BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân thọ,
tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH theo định kỳ đồng
thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (STBH) cho người hưởng
quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo
hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho người
thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền
này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài
chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách
thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác với
các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ về mặt tài
chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn
được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình
tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính
tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.

BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo
hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp phần

khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang tính bảo
vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người,
mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo
6/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản
tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng
yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định
trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay
vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay
được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn
nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền
cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị trường ngày
càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.

Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham gia và từ
các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty thiết kế ra là
để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có thể tham
gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo
hiểm.

Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định
phí khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất
nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng...

Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT, còn phần
chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
......

7/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa lý,
từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước khác nhau là
khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản phẩm, phân
tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị
trường...

BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc gia chưa
triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Nguyên
nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT
ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định:
• Những điều kiện về kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức độ nhất
định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không những
đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu tư vào
BHNT
.......
• Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội phát
triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển
của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước ngày càng phát
triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các
ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm.

Lịch sử ra đời của BHNT.

8/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William
Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát
triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên
bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn
tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ,
cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng
của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn.

Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt
động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm
1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji
của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời
và phát triển cho đến nay.

Tại Việt Nam
Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam
hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính
thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh
nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài
chính Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới
về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ
: “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành
phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã
thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây
là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong
điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt
sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị định này các
doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, Hội
bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn
nước ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị
trường Việt Nam.


9/10


Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ

Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những năm qua
Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm. Với sự ra đời
của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan
tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ
BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt được trong thời gian đó rất
đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình
thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường
BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho người dân có thể
lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty
BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là:
• Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước,
đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh
doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian
hoạt động là không kỳ hạn
• Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động
12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50
năm.
• Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty
BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai
trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm.
• Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo
hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999,
vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm.

• AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động
22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50
năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra hành
lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm trong
xã hội Việt Nam.

10/10



×