Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Lý thuyết ôn thi môn văn học lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.71 KB, 51 trang )

Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Bài 1 . Nguyễn ái Quốc Hồ Chí Minh
(1890 - 1969)
I . Vài nét về tiểu sử .
- Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi
hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn ái Quốc Hồ Chí Minh, sinh ngày 19 5 1890 trong
một gia đình nhà Nho nghèo yêu nớc, quê ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
- Ngời sớm có lòng yêu nớc, chống sự xâm lợc của thực dân Pháp. Năm 1911, xuất
dơng tìm đờng cứu nớc. Ngời đã đến nhiều nớc châu Âu, châu á, châu Phi, châu Mĩ, làm
nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, chủ yếu Ngời sống và hoạt động ở Pháp.
- Năm 1918, tham gia Đảng xã hội Pháp, thành lập Hội những ngời Việt Nam yêu nớc.
Năm 1919 gửi bản yêu sách về quyền của các dân tộc đến hội nghị hòa bình ở Vecxây.
- Năm 1920 Ngời tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
- Từ năm 1923 đến 1941 Ngời hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc và Thái Lan,
thành lập các tổ chức chính trị, tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nớc . Tổ chức và
lãnh đạo các phong trào cách mạng Việt Nam.
- Ngày 3 2 1930 Ngời chủ tọa hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản Đông Dơng,
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
- Tháng 2 1941 Ngời về nớc trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng . Thành
lập mặt trận Việt Minh, chuẩn bị lực lợng và dành thắng lợi quyết định trong cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945.
- Ngày 2 9 1945 Ngời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
- Sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ nhất ngày 06 1 1946 Ngời đợc bầu làm Chủ tịch
nớc và từ đó luôn đảm nhận chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nớc cho đến khi qua đời ngày 2
tháng 9 năm 1969.
- Năm 1990 nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Ngời , UNESCO đã suy tôn Ngời là
Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn.
- Cuộc đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con ngời
hết lòng vì nớc, vì dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của nhân dân lao động. Bên cạnh sự
nghiệp cách mạng vĩ đại, Ngời còn để lại một sự nghiệp văn hóa lớn.


II . Quan điểm sáng tác.
Sinh thời Hồ Chí Minh không có ý định xây dựng một sự nghiệp văn chơng. Nhng trên
con đờng hoạt động cách mạng, Ngời nhận thấy rõ tác dụng và tính chiến đấu của văn chơng, ý
thức đợc văn chơng là một thứ vũ khí lợi hại, Ngời đã năm lấy nó, mài giũa và sử dụng nó một
cách có hiệu quả.
Ngời coi văn chơng nghệ thuật là một hoạt động tinh thần phong phú phục vụ có hiệu quả
cho sự nghiệp cách mạng. Ngời quan niệm văn chơng phải có chất thép. Chất thép ở đây chính
là xu hớng cách mạng và tiến bộ về t tởng, là cảm hứng đấu tranh tích cực của thi ca.
Khi sáng tác Ngời luôn quan tâm đến mục đích và đối tợng thởng thức của văn chơng .
Trớc khi viết Ngời luôn tự hỏi: Viết để làm gì ? (mục đích), viết cho ai ? (đối tợng), viết cái gì ?
(nội dung) và viết nh thế nào ? (hình thức).
Ngời quan niệm văn chơng phải có tính chân thực về nội dung, phải trong sáng, hấp dẫn,
ngôn ngữ phải chọn lọc, tránh lối viết xa lạ, cầu kì. Đặc biệt Ngời coi trọng việc giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt.
III . Sự nghiệp văn chơng.
Sáng tác văn chơng của Hồ Chí Minh phong phú và đa dạng về mặt thể loại.
1 . Văn chính luận
Đợc viết với mục đích đấu tranh chính trị, đấu tranh trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những


Trn Quang Khi _ CT0754M038

1


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đờng lịch sử. Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến.
Văn chính luận Hồ Chí Minh mang đặc điểm của văn chính luận hiện đại, bộc lộ t duy sắc
sảo, giầu tri thức văn hóa, giầu tính luận chiến.

2 . Truyện và Kí .
Truyện và Kí hết sức cô đọng, cốt truyện sâu sắc, kết cấu độc đáo, ý tởng sâu sắc, thâm
thúy kín đáo giầu chất trí tuệ.
3 . Thơ ca .
Là lĩnh vực nổi bật nhất trong các giá trị văn chơng của Hồ Chí Minh. Trong đó nổi bật
nhất là tập Nhật kí trong tù.
Nhật kí trong tù gồm 133 bài thơ chữ Hán ghi lại chân thực bộ mặt đen tối của chế độ nhà
tù Tởng Giới Thạch và thể hiện nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của ngời tù thi sĩ chiến sĩ cộng sản
Hồ Chí Minh. Tập thơ là sự kết hợp hài hòa chất cổ điển và tinh thần hiện đại.
Ngoài ra Ngời còn có bộ phận thơ tuyên truyền, thể hiện tình cảm cách mạng phong phú,
ý chí kiên cờng, tinh thần lạc quan cách mạng, động viên khích lệ lòng yêu nớc của toàn dân.
IV . Phong cách nghệ thuật.
Hồ Chí Minh là cây bút đa phong cách, có sự kết hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật viết văn
hiện đại của châu Âu với cảm xúc cổ điển rất Đờng thi.Vận dụng linh hoạt và thống nhất hình
thức thể hiện, thể loại, ngôn ngữ, bút pháp và hình tợng nghệ thuật, luôn hớng tới ánh sáng và
tơng lai.
a. Văn thơ Hồ Chí Minh có phong cách nghệ thuật riêng độc đáo mà đa dạng .
Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống gia đình, môi trờng và
hoàn cảnh sống, hoạt động cách mạng cùng với bản sắc tinh thần của Ngời. Ngay từ nhỏ, Hồ Chí
Minh đã đợc sống trong không khí của văn chơng cổ điển Việt Nam và Trung Quốc, của thơ
Đờng, thơ Tống... Trong thời kì hoạt động cách mạng ở nớc ngoài, nhiều năm Ngời sống ở Pa
ri, tiếp xúc và chịu ảnh hởng của những nhà văn và nền văn học phơng Tây hiện đại. Những điều
đó đều ảnh hởng tới việc hình thành phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh.
Phong cách nghệ thuật Hồ Chí minh còn đợc hình thành do quan điểm của Ngời đối với
sáng tác văn học của mình. Khi cầm bút, Ngời thờng đặt ra các câu hỏi: Viết cho ai ?, Viết để
làm gì ?, sau đó mới quyết định Viết cái gì ? và Viết thế nào ?. Hiẻu đợc quan điểm sáng tác
đó mới có thể lí giải đợc đặc điểm đa dạng, nhiều sắc thái của phong cách nghệ thuật Hồ Chí
Minh: Vì sao những truyện kí sáng tác vào đầu những năm hai mơi của thế kỉ trớc lại viết bằng
tiếng Pháp với một bút pháp rất hiện đại của phơng Tây; vì sao bản Tuyên ngôn độc lập lại lập
luận đanh thép, bằng chứng hùng hồn nh thế và đợc mở đầu bằng lời văn của bản Tuyên ngôn

độc lập của nớc Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp; vì sao những bài Ca
dân cày, Ca du kích lại có lời lẽ mộc mạc, dễ nhớ, dễ thuộc đến thế; vì sao những bài thơ chữ Hán
của Ngời lại sâu sắc, đậm đà màu sắc cổ điển đến vậy...
b. Nhìn chung mỗi thể loại văn học, từ văn chính luận, truyện kí đến thơ ca, Hồ Chí
Minh đều tạo đợc những nét phong cách riêng, độc đáo và hấp dẫn.
- Văn chính luận: ngắn gọn, t duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng
đầy thuyết phục, giầu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.
- Truyện và kí rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc
bén.
- Thơ ca: là thể oại thể hiện sâu sắc nhất phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
+ Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng nh: Ca dân cày, Ca công nhân,
Ca binh lính... lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang mầu sắc dân gian hiện đại.
Thân ngời nh thể thân trâu
Cái phần nno ấm có đâu tới mình
(Ca dân cày)


Trn Quang Khi _ CT0754M038

2


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
+ Những bài thơ nghệ thuật của Ngời là những bài đợc viết theo hình thức cổ thi hàm
súc, có sự hoà hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại, giữa chất tình và chất thép.
Bài 2 . Nhật kí trong tù

I . Hoàn cảnh ra đời.
- Ngày 13 8 1942 Ngời trở lại Trung Quốc với t cách là đại biểu của Việt Nam độc
lập đồng minh hội và Phân bộ quốc tế phản xâm lợc của Việt Nam để tranh thủ sự viện trợ của thế

giới. Ngày 29 8 1942 Ngời bị chính quyền Tởng Giới Thạch bắt giam, tù đày trong vòng
14 tháng (378 ngày), từ ngày 29 8 1942 đến ngày 10 9 - 1943 Bác đợc tự do.
- Thời gian Ngời bị cầm tù là cũng là thời gian mà cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị
ráo riết, chờ thời cơ để giải phóng đất nớc, rất cần đến vai trò của Ngời.
- Nhật kí trong tù gồm 133 bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đó.
- nhật kí trong tù là một tập nhật kí bằng thơ, cho nên nó thể hiện đợc t tởng tình cảm
con ngời Hồ Chí Minh, đặc biệt đây là tập thơ Ngời viết cho mình, nên chỉ viết khi nào Ngời
thực sự có cảm hứng và vì thế đây là tập thơ giầu giá trị nghệ thuật.
II . Giá trị nội dung và nghệ thuật.
1 . Về nội dung.
- Nhật kí trong tù phơi bày những xấu xa tàn bạo của chế độ nhà tù Tởng Giới Thạch. Cất
lên tiếng nói nhân đạo sâu sắc, đồng cảm và chia sẻ nỗi đau khổ, những hi sinh của những con
ngời nhỏ bé, những con ngời dới đáy của xã hội: Phu làm đờng, Vợ ngời bạn tù đến thăm
chồng, Em bé trong nhà lao Tân Dơng, Ngời bạn tù thổi sáo.
- Nhật kí trong tù còn là bức chân dung tự họa của ngời chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh.
Đau khổ và thấm thía sâu sắc nỗi đau khổ mất tự do; luôn tự chủ về mặt tinh thần, luôn bình thản
ung dung, tự tại vợt qua sự tù đày về thể xác để tâm hồn bay bổng hòa vào thế giới tự do; luôn trằn
trọc lo âu trớc vận mệnh đất nớc. Đấy là một con ngời có nghị lực phi thờng, ý chí mãnh liệt,
tinh thần lạc quan yêu đời luôn thiết tha trớc những vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật: ốm nặng,
Không ngủ đợc, Đêm thu, Đi đờng, Giải đi sớm, Ngắm trăng, Tự khuyên mình.
2 . Về nghệ thuật.
Nhật kí trong tù thể hiện một phong cách nghệ thuật phong phú đa dạng, tập thơ đợc viết
với nhiều bút pháp, nhiều giọng điệu. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và bút
pháp hiện đại.
Bài 3. Chiều tối
(Hồ Chí Minh)
I . Đặt vấn đề.
Một con ngời yêu đời, say mê với cuộc sống bao giờ cũng nhạy cảm với thời gian. Đối với
Hồ Chí Minh, thời gian là nhịp điệu của vũ trụ, của cuộc sống con ngời. Trong Nhật kí trong tù,
Bác có nhiều bài thơ viết về thời gian và sự vận động của hiện thực, trong đó Chiều tối là bài thơ

hay hơn cả. Nó không chỉ diễn tả sự lu chuyển của thời gian trong cảm nhận của Bác mà còn thể
hiện đợc dòng tâm trạng của thi nhân trớc bớc đi của thời gian và trong nhịp sống của cuộc đời.
II . Giải quyết vấn đề.
Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập thơ Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên
đờng bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đờng chuyển lao ấy, một ngày
kia, Ngời chợt nhận thấy cánh chim chiều.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Hai câu thơ tái hiện không gian và thời gian của buổi chiều tối nơi núi rừng. Lúc ấy ngời
đi ngớc mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy chim bay về tổ, mây chầm chậm trôi. Nhà thơ không
trực tiếp nói về thời gian nhng thời gian vẫn hiện về qua cảnh vật. Đây là cách cảm nhận thời
3

Trn Quang Khi _ CT0754M038


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
gian mang tính truyền thống đã từng in đậm trong nhiều bài thơ. Chim bay về tổ có ý nghĩa báo
hiệu thời gian của buổi chiều tối. Ta bắt gặp trong ca dao hình ảnh.
Chim bay về núi tối rồi
đến Truyện Kiều của Nguyễn Du cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:
Chim hôm thoi thót về rừng
rồi buổi chiều nghiêng nghiêng xuống theo đôi cánh chim bé nhỏ trong Tràng giang của Huy
Cận:
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
hay trong Độc tọa Kính Đình sơn (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) của Lí Bạch :
Chim bầy vút bay hết
Mây lẻ đi một mình
Hình ảnh thơ của Lí Bạch và của Bác có nét tơng đồng, nhng thơ của Lí Bạch sắc thái
thời gian hiện lên không rõ nét thì hai câu thơ của Bác vừa có ý nghĩa chỉ thời gian, vừa nhuốm đầy

tâm trạng.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
ở đây không phải chim bay trong trạng thái bình thờng mà là bay mỏi, bay mải miết cho
kịp tới chốn ngủ nơi rừng xanh quen thuộc. Cánh chim mỏi mệt hay nhà thơ mỏi mệt lê bớc trên
chặng đờng đi đày giờ đây không biết đâu là chốn dừng chân ? Sự tơng đồng ấy dễ tạo nên sự
cảm thông sâu sắc giữa ngời với cảnh.
Câu thơ thứ hai tiếp tục phác họa không gian, thời gian và tâm trạng
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Câu thơ dịch cha lột tả hết ý nghĩa của nguyên tác. Cô vân là chòm mây cô đơn, lẻ loi;
mạn mạn độ là trôi lững lờ, chậm chạp mang dáng vẻ trì hoãn. Chòm mây nh có tâm hồn, nh
mang tâm trạng. Nó cô lẻ và lặng lẽ lững lờ trôi giữa không gian bao la rộng lớn của trời chiều. Bầu
trời có chim có mây nhng mây cô đơn, chim mệt mỏi, đã thế lại đang trong trạng thái chia lìa:
Chim bay về rừng, chòm mây cô đơn ở lại. Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra cả một không gian tâm
trạng. Cảnh buồn, ngời buồn. Nhng trong nỗi buồn trớc cảnh chiều muộn còn có một khát vọng
tự do ẩn kín trong đôi mắt dõi nhìn theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời cao rộng.
Nếu nh hai dòng thơ đầu đã nói tới cánh chim mệt mỏi, chòm mây cô đơn thì hai câu thơ
sau đã hiện lên một chốn ngủ cho con ngời.
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Trong bản dịch, ngời dịch đã đa vào chữ tối quá lộ liễu. trong thi pháp thơ cổ chỉ muốn
ngời đọc tự cảm nhận chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thông báo trực tiếp nào. Điều đó
làm lộ tứ thơ. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể lấy xa để nói cao, lấy động để nói tĩnh, dùng
sáng để nói tối. Trong chiều tối, Bác không hề nói đến tối mà ngời đọc vãn cảm nhận thấy bóng
tối đang buông xuống xóm núi là nhờ có chữ hồng ở cuối bài thơ. Trời tối, ngời đi mới nhìn
thấy ánh lửa hồng rực lên nh thế.
Cũng nh nhiều bài thơ khác của Bác, hình tợng thơ trong bài thơ vận động thật khỏe
khoắn và bất ngờ. Trong cảnh chiều muộn của miền sơn cớc tởng chỉ có bóng tối hoàng hôn bao
phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ đâu ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan giá lạnh và bóng tối.
Sự xuất hiện hình ảnh ngời thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò than rực hồng đã mang lại
ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Mặc dù thời gian vận động từ chiều

đến tối, từ ngày sang đêm nhng hình tợng thơ vẫn vận động theo xu thế phát triển.
Khi bóng tối của ngày tàn buông xuống nhng không gian không hề tăm tối, con ngời đã
kịp thắp lên ngọn lửa, con ngời đã kịp tạo nên ánh sáng, tạo nên hơi ấm để sởi ấm cho con ngời
và cảnh vật. ánh sáng, hơi ấm, con ngời đã đa lại niềm vui bình dị cho ngời tù nhân xa xứ.
Trong cảnh ngộ của riêng mình, Bác vẫn tìm thấy niềm vui. Niềm vui ấy xuất phát từ cuộc sống lao
động của ngời dân Trung Hoa ở một xóm núi nào đó trên đất Quảng Tây. Nếu nh không có tình
ngời tha thiết thì làm sao Bác có đợc một niềm vui nh thế giữa đất ngời xa lạ.
4

Trn Quang Khi _ CT0754M038


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
III . Kết thúc vấn đề.
Bài thơ Chiều tối không chỉ miêu tả cảnh chiều nơi núi rừng miền sơn cớc với làn mây,
cánh chim và cuộc sống lao động của con ngời. Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tợng nhân vật trữ
tình có tấm lòng yêu thơng rộng lớn luôn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm
hồn lạc quan luôn hớng về tơng lai và ánh sáng.
Bài 4. Giải đi sớm
(Tảo giải)
(Hồ Chí Minh)
I . Đặt vấn đề.
Giải đi sớm là bài thơ tứ tuyệt liên hoàn, ghi lại cảm xúc của Bác khi bắt đầu một hành
trình đày ải từ nhà lao Long An đến nhà lao Đồng Chính vào một đêm cuối thu lanh giá. Bài thơ
viết về một cuộc chuyển lao nhng ta không thấy bóng dáng lính giải tù mà chỉ bắt gặp hình ảnh
một ngời đi xa (chinh nhân) trong t thế chủ động bình tĩnh, tự tin, vợt qua đêm thu giá lạnh đến
với buổi bình minh rực hồng.
Đến với bài thơ ta bắt gặp một ngời cộng sản giữa gông cùm xiềng xích mà vẫn ngời sáng
một niềm lạc quan tin tởng.
II . Giải quyết vấn đề.

Hai khổ thơ nhng thật chất là hai bài thơ tứ tuyệt độc lập, nó bổ sung ý nghĩa cho nhau tạo
nên tính hoàn chỉnh của tác phẩm trong một tiến trình vận động mang nhiều yếu tố cảm quan của
ngời chiến sĩ cách mạng.
Bốn câu thơ đầu
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đa nguyệt vợt lên ngàn
Ngời đi cất bớc trên đờng thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn
Câu thơ đầu đọc lên tởng chỉ mang giá trị về mặt thời gian, không mang một cảm xúc, một
thái độ nào cả bởi ở đó chỉ hiện rõ chức năng thông báo thời gian đang chậm trôi về phía đêm tàn.
Nhng chính nó là sự chuẩn bị cho chinh nhân xuất hiện.
Gà gáy một lần, thời gian bây giờ là quá nửa đêm, là lúc đêm cha tàn nhng một ngày mới
đã bắt đầu. Câu thơ nhấn mạnh ý đi sớm, đi rất sớm để biểu thị cái vất vả, gian khổ trên đờng đi
đày của ngời tù Hồ Chí Minh trên đất khách.
Nhng nếu tách biệt câu đầu ra khỏi câu thứ hai thì dấu ấn sáng tạo của nó sẽ chẳng để lại
ấn tợng gì đặc biệt. Để hiểu rõ hơn cần soi nó xuống câu thứ hai:
Chòm sao đa nguyệt vợt lên ngàn
Câu thơ dịch cha lột tả hết thần sắc của nguyên tác bởi ủng nghĩa là ôm, họp lại, đi theo,
bảo hộ, dịch là đa, nó thực sự cha đắt song cũng là cái khó của ngời dịch. Trớc hết đây là một
câu thơ tả thực, nhiều trăng và sao trên trời nhấn mạnh thêm ý sớm đã có ở câu đầu. Hơn thế nó thể
hiện vẻ đẹp của một hồn thơ tinh tế dễ nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong cảnh ngộ cô
đơn ấy, thiên nhiên thờng quạnh hiu, khắc nghiệt, nhng ở đây qua tâm hồn Ngời, thiên nhiên
trở nên sinh động, thân mật, tơi vui. Sinh động mà không náo nhiệt, tơi vui mà không ồn ào, vẫn
giữ đợc cái yên tĩnh của một buổi sáng sớm. Ngời lên đờng một mình nhng dờng nh trăng
sao cũng cùng Ngời lên đờng, làm vợi đi nỗi cô đơn trên chặng đờng thử thách trớc mắt.
Nếu nh hai câu đầu nói thời gian và không gian của một cuộc hành trình thì câu thơ thứ ba
con ngời đã trực tiếp xuất hiện với t thế của một ngời đi xa:
Ngời đi cất bớc trên đờng thẳm
Một lần nữa bản dịch lại không lột tả đợc hết ý của nguyên tác. Chinh nhân là ngời đi xa. Chinh
đồ là đờng xa. Dĩ tại là đã ở. ý cả câu thơ khẳng định: trời còn rất sớm mà ngời đi xa đã ở trên

trên con đờng phải đi xa rồi. Một câu thơ tả thực, không hề có ý định che giấu cái khổ, nhng


Trn Quang Khi _ CT0754M038

5


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
quan trọng là không chỉ có thế. Câu thơ còn ẩn chứa một hình ảnh khác lớn hơn và thật hơn: đó là
hình ảnh của một chiến sĩ lên đờng vì đại nghĩa, lên đờng một cách dứt khoát, chủ động. ở đây
con ngời tự nâng mình vợt lên trên hoàn cảnh, không để cho hoàn cảnh khuất phục mình.
Rát mặt đêm thu trạn gió hàn
Trong nguyên tác là Nghênh diện thu phong trận trận hàn. ngênh diện là hớng mặt về
phía trớc, là ngẩng mặt lên. Trận trận hàn là từng trận từng trận gió thu lạnh lẽo liên tiếp thổi tới,
nó nhấn mạnh cái lạnh lẽo của buổi sớm mùa thu nơi miền đất khách. Ngời đi không hề rụt rè
trớc cái khắc nghiệt của thiên nhiên, trái lại chủ động bớc tới một cách hiên ngang. Rất tiếc bản
dịch đã bỏ mất một chữ trận. Nó không tô đậm đợc sự ra đi hùng tráng, xông pha của ngời chiến
sĩ.
Trên đờng chuyển lao, có sớm, có xa, có gió lạnh, có gian khổ nhng không xóa nhòa
đợc con ngời mà chỉ làm cho con ngời thêm cứng cỏi, vững vàng, kiên quyết, dứt khoát. Đó là
hiện thân của chất thép trong tâm hồn ngời chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.
Nếu bốn câu thơ đầu là thời điểm đầu của cuộc hành trình đầy gian khổ thì bốn câu thơ sau
cảnh vật đã có sự biến đổi:
Phơng đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn chốc sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Ngời đi thi hững bỗng thêm nồng
Đoạn thơ là một khung cảnh rộng lớn, cảnh sắc chuyển đổi thật mau lẹ. Chân trời mầu trắng
nay đã ửng hồng. Một cảnh đẹp và cũng là một niềm vui, là nguồn sinh khí mới. Đấy là sự nhất

quán, thống nhất trong thơ văn Bác. Bóng đêm còn sót lại bị quét sạch. Thay thế vào cái giá lạnh là
hơi ấm bao la. Hơi ấm của trời đất vừa mới bắt đầu nhng ấm áp một cách kì lạ và tràn ngập khắp
nơi. Sức ấm nóng ấy lan tỏa ra từ tấm lòng, tâm hồn một ngời chiến sĩ vĩ đại hơn là từ thiên nhiên
. Và cũng chính vì vậy mà:
Ngời đi thi hững bỗng thêm nồng
Cảm xúc vốn đã sớm xuát hiện khi cuộc hành trình mới bắt đầu, giờ đây khi bắt gặp sự vận
động đổi thay của vũ trụ, nó lại bùng lên mỗi lúc một rực rỡ hơn, dạt dào hơn.
Bốn câu thơ sau thể hiện sự vận động trong cảm quan nghệ thuật của Bác, nó xuất phát từ
chính sự vận động trong t tởng của Ngời: từ bóng đêm tới bình minh, từ màu trắng tăm tối sang
mầu hồng lạc quan tin tởng, từ lạnh lẽo đến ấm áp. Nó không chỉ sởi ấm lòng ngời mà còn sởi
ấm cả thế giới tự nhiên, cả vũ trụ.
III . Kết thúc vấn đề.
Bài thơ là khúc ca lên đờng vừa trầm hùng, vừa sảng khoái vui tơi và cuối cùng vút lên
nét nhạc chiến thắng hào hùng. Là nét đẹp trong tâm hồn ngời tù Hồ Chí Minh: luôn lạc qua tin
tởng vào một tơng lai tơi sáng.
Bài 5. Mới ra tù tập leo núi
(Hồ Chí Minh)
I . Đặt vấn đề.
Bài thơ Mới ra tù tập leo núi không nằm trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài
này khi đã đợc giải thoát khỏi cảnh tù đày. Bài thơ đợc viết bên rìa một tờ báo cùng với mấy
dòng chữ Chúc ch huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác . ở bên này bình yên và gửi về
cho các đồng chí đang ở nhà ngày ngày chờ mong tin tức Bác.
Theo tác giả T. Lan, khi Bác ra tù mắt kém, chân bớc không đợc, Bác quyết tâm mỗi
ngày tập đi mời bớc, dù đau mà phải bò, phải lết cũng phải đi đủ mời bớc mới thôi. Cuối cùng
Bác chẳng những đi vững mà còn có thể leo núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Bác cao hứng đã sáng
tác bài thơ này.
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhng không đơn thuần chỉ là chuyện leo núi, bài thơ còn là lời
bộc lộ tình cảm nhớ thơng với đất nớc, với đồng chí bạn bè.



Trn Quang Khi _ CT0754M038

6


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
II . Giải quyết vấn đề.
Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh :
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Hình tợng mây núi đợc biểu hiện qua hai hình ảnh gắn bó: núi ấp ôm mây, mây ấp núi
nh tình cảm đồng chí bạn bè gắn bó yêu thơng nhau. Sau gần 14 tháng xa đất nớc. Ngời rất
nóng lòng chờ tin tức bên nhà:
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng
Tin tức bên nhà bữa bữa trông
( Tức cảnh)
Nhớ đất nớc, bạn bè Ngời cũng muốn giãi bày kín đáo phần nào tấm lòng của mình:
Lòng sông gơng sáng bụi không mờ
Đứng trên đỉnh núi cao nhìn xuống dòng sông, lòng sông nh một tấm gơng trong không
chút bụi mờ. Thiên nhiên cũng có những khoảnh khắc, những trạng thái thanh khiết nh chính tấm
lòng ngời trong cảnh ngộ đó. Lòng sông gơng sáng là hình ảnh ẩn dụ để biểu thị một tấm lòng
sắt son với Tổ quốc. Dù trải qua bao vất vả, gian nan trên chặng đờng đày ải nhng vẫn không làm
vấy bẩn tấm lòng trung đó. Trái lại càng trải qua gian nan vất vả bao nhiêu lại càng trở nên trong
sáng, rạng ngời bấy nhiêu. Nói nh Đặng Thai Mai: Đằng sau bức tranh phong cảnh này, đằng
sau những tầng lớp mây núi trập trùng, đằng sau dòng nớc sông trong xanh dới chân Tây Phong
Lĩnh, ấn tợng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn độc giả chính là tâm trạng vừa trong trắng,
vừa cao cả của con ngời. Thiên nhiên ấy, nỗi lòng ấy toát lên một t thế vững chãi của ngời
chiến sĩ trớc phong ba, vừa kiên cờng tận trung với nớc nhng cũng khát khao tình cảm yêu
thơng gắn bó , sẻ chia, đùm bọc trong vòng tay thân ái của bạn bè.
Trong bức tranh thiên nhiên quấn quýt giao hòa ấy, con ngời xuất hiện nhng không phải
trong t thế dạo chơi thởng ngoạn, mà mang nặng một nỗi niềm xúc cảm bâng khuâng.

Bồi hồi dạo bớc Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xa
Trớc cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, con ngời không hề cảm thấy cô đơn lẻ loi, cũng không
hề thấy mình nhỏ bé mà trái lại nỗi niềm hớng về cố hơng khiến tầm mắt nhà thơ bao quát, thâu
tóm cảnh vật trong cái nhìn. Hớng về phơng nam với tấm lòng ức cố nhân nặng trĩu. Cố nhân ở
đây là những ngời bạn chiến đấu, là các đồng chí trong Trung ơng Đảng, những ngời đã cùng
Bác kinh qua bao gian khổ trên con đờng đấu tranh giành độc lập cho nớc nhà. Tâm trạng bao
trùm là nỗi nhớ thơng, thông cảm . Bồi hồi là nỗi nhớ thơng, là chia sẻ những vất vả trên chặng
đờng chiến đấu, nó còn là nỗi lo lắng cho phong trào cách mạng trong nớc, là nỗi buồn vì vẫn
phải xa quê hơng. Nhng vẫn toát lên niềm vui vì giờ đây Bác đã đợc tự do, sắp đợc đoàn tụ
cùng đồng chí đồng bào, sắp đợc sát cánh cùng nhân dân trên con đờng đấu tranh cách mạng.
Trớc mắt là một chặng đờng hoạt động mới. Bao nhiêu xúc cảm xao xuyến dâng ngập trong lòng
ngời chiến sĩ cách mạng vĩ đại.
III . Kết thúc vấn đề.
Bài thơ thuộc thi đề Đăng sơn ức hữu của thơ cổ cùng với thủ pháp nghệ thuật điểm nhãn
rất Đờng thi tạo nên sức hút cho tác phẩm. Đó cũng là nét độc đáo về nghệ thuật góp phần đa tác
phẩm trở thành mẫu mực trong các sáng tác thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh.
Bài 6. Tuyên ngôn đôc lập
(Hồ Chí Minh)
I . Tìm hiểu chung về tác phẩm.
1 . Hoàn cảnh ra đời.
Ngày 19 8 1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 8 - 1945 Hồ Chí
Minh từ chiến khu trở về Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội Ngời đã soạn bản
Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2 9 1945 tại quảng trờng Ba Đình Hà Nội, Ngời thay mặt


Trn Quang Khi _ CT0754M038

7



Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
chính phủ lâm thời của Nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập
trớc đồng bào cả nớc và thế giới . Bản Tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó.
2 . ý nghĩa lịch sử của bản tuyên ngôn.
Bản tuyên ngôn đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nớc. Tuyên bố chấm dứt
chế độ thực dân, đánh đổ chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tuyên ngôn độc lập còn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp về
việc khai hóa, bảo hộ để nhằm tái chiếm Đông Dơng.
Tuyên ngôn độc lập vừa giải quyết đợc nhiệm vụ độc lập dân tộc, lại vừa giải quyết đợc
nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân (Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mơi thế kỉ mà lập nên
chế độ cộng hoà), tức là bên cạnh chữ Độc lập lại có thêm chữ Tự do, mở ra một kỉ nguyên mới
cho đất nớc : kỉ nguyên độc lập, tự do. Đó là t tởng lớn, chân lí của thời đại mà sau này Bác đã
đúc kết trong câu nói nổi tiếng: Không có gì quí hơn Độc lập, Tự do.
Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh, và
là kết quả của bao nhiêu hi vọng. Tuyên ngôn là sự tiếp nối lời thơ sang sảng hào hùng của Lí
Thờng Kiệt. Ta nghe trong Tuyên ngôn độc lập âm vang của hồi kèn xung trận, của khúc ca khải
hoàn trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
3 . Vị trí của bản Tuyên ngôn trong tiến trình phát triển của lịch sử Van học .
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ,lí lẽ đanh
thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục, đạt đến độ mẫu mực của văn chính luận.
II . cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh trích dẫn lời 2 bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của Mĩ và Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, khẳng định
quyền tự do bình đẳng và quyền mu cầu hạnh phúc của mọi ngời trên thế giới.
Hồ Chí Minh trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng đó, một mặt thể hiện sự tôn trọng t
tởng cách mạng của nhân dân Mĩ và Pháp, mặt khác đề cao quyền tự do, bình đẳng, quyền mu
cầu hạnh phúc của con ngời , coi đó là chân lí bất hủ của nhân loại, nh những lẽ phải không ai
có thể chối cãi đợc. Bằng việc trích dẫn lời của hai bản tuyên ngôn đó, Hồ Chí Minh đã lấy chính
lời lẽ của cha ông chúng để đánh lại chúng, ngời ta gọi đó là thế lấy gậy ông đập lng ông. Lấy

lời lẽ của tổ tiên ngời Mĩ, ngời Pháp để khẳng định chân lí, khẳng định lẽ phải, khẳng định
quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
Việc trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh tỏ ra hết sức kiên
quyết bởi đó không chỉ là một lời nhắc nhở mà còn là lời cảnh báo hai tên đế quốc thực dân sừng sỏ
hiếu chiến nhất thế giới, cũng là hai kẻ thù đang sẵn sàng xâm lợc nớc ta đừng phản bội lại chính
tổ tiên của mình, đừng làm vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng và nhân đạo của các cuộc cách mạng
Pháp , Mĩ nếu nhất định xâm lợc Việt Nam.
Mở đầu bản tuyên ngôn của Việt nam mà nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch
sử nhân loại, Hồ Chí Minh tạo ra cuộc đối thoại ngầm với thế giới nhằm khẳng định t cách độc lập
của nhân dân, của dân tộc Việt Nam ở thời đại mới. Đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba
cuộc cách mạng ngang hàng nhau, Hồ Chí Minh một lần nữa gợi lại niềm tự hào dân tộc, ta thấy
thấp thoáng bóng dáng dân tộc trong t thế hiên ngang thời Bình Ngô đại cáo, hơn thế nữa, cuộc
cách mạng của dân tộc Việt Nam còn là sự hợp nhất hai cuộc cách mạng Pháp và Mĩ, bởi nó không
chỉ đánh đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng chục thế kỉ mà còn đánh đổ ách xâm lợc của chế độ
thực dân, giành độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh không dừng lại ở quyền tự do, bình đẳng của cá nhân con ngời, bằng một từ
suy rộng ra, Ngời đã nâng quyền lợi của con ngời thành quyền lợi của dân tộc. Tất cả các dân
tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Đó là điểm tiến bộ, mới mẻ trong t duy lí
luận Hồ Chí Minh.
III . Cơ sở thực tiễn.
Không chỉ nêu lên cơ sở pháp lí nhằm khẳng định quyền độc lập chính đáng của dân tộc


Trn Quang Khi _ CT0754M038

8


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Việt Nam, bản tuyên ngôn còn xác minh bằng một cơ sở thực tiễn trần trụi những tội ác mà thực

dân Pháp gây ra trong gần tám mơi năm xâm lợc Việt Nam. Thực dân Pháp đã làm trái nguyên lí
mà tổ tiên chúng đã nêu ra, nhng chúng đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để hòng che
giấu những hành động đó.
Thực dân Pháp khoe khoang công khai hoá văn minh ở Đông Dơng, nhng thực chất chỉ
là những trò bịp bợm. Bản tuyên ngôn đã lật tẩy bọ mặt xảo quyệt, tàn bạo đó bằng những lí lẽ xác
đáng và những sự thật lịch sử không thể chối cãi đợc.
Lí lẽ xác đáng: Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái
đến cớp nớc ta, áp bức đồng bào ta. Hành động đó của chúng trái hẳn với đạo lí và chính nghĩa.
Sự thật lịch sử không thể chối cãi: bằng hình thức liệt kê, với hệ thống điệp từ điệp ngữ :
chúng thi hành,chúng ràng buộc, chúng thẳng tay, chúng cớp... tạo nên những câu văn trùng điệp,
có kết cấu liên hoàn tạo nên mọt hệ thống luận điểm luận cứ, luận chứng khoa học làm bằng chứng
để những thớc phim tài liệu về tội ác của thực dân Pháp càng thêm nóng hổi , càng làm nổi bật sự
bất bình đẳng về chính trị mà thực dân Pháp đã dựng lên ở Việt Nam: Chúng thủ tiêu mọi quyền
dân chủ, chia rẽ ba kì để dễ bề cai trị, tắm máu các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta, thi hành chính
sách ngu dân, đầu độc nhân dân bằng rợu cồn và thuốc phiện...
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xơng tuỷ, chèn ép t sản dân tộc, đặt ra hàng trăm
thứ thuế và cuối cùng làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Thực dân Pháp rêu rao công bảo hộ ở Đông Dơng, song trong vòng năm năm chúng đã
bán nớc ta hai lần cho Nhật.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dơng là của ngời Pháp và Pháp có quyền trở lại. Bản
tuyên ngôn chỉ rõ: Dân tộc ta là thuộc địa của Nhật từ mùa thu năm 1940. Chúng ta giành lại độc
lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
Với lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo, Hồ Chí Minh khơi gợi lại những tội ác của thực dân Pháp
nh những chứng tích lịch sử không thể phủ nhận, ta có thể liên tởng đến những tội ác của giặc
Minh trong Bình Ngô đại cáo. Khơi gợi lại bề sâu những đau thơng mà thực dân Pháp gây ra,
vạch trần những luận điệu xảo trá của chúng, bản tuyên ngôn tuyên bố thoát li và xoá bỏ mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nớc Việt Nam.
IV . Lời tuyên bố độc lập.
Bản tuyên ngôn khẳng định dân tộc Việt Nam hoàn toàn xứng đáng đợc hởng tự do độc
lập. Bởi dân tộc Việt Nam luôn đề cao chủ nghĩa nhân văn và một lòng yêu nớc nồng nàn.

Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán nớc ta cho Nhật thì dân tộc
Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống phát xít Nhật và cuối cùng giành đợc chủ
quyền.
Nếu thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo và phản động, nhẫn tâm giết hại tù chính trị Việt Nam
khi rút chạy thì nhân dân Việt Nam vẫn một mực khoan hồng, độ lợng với kẻ thù đã thất thế, vẫn
sẵn sàng giúp đỡ ngời Pháp chạy qua biên thuỳ, bảo vệ tài sản và tính mạng của họ. Đây là truyền
thống nhân đạo bao đời nay của dân tộc Việt Nam. (Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí
nhân để thay cờng bạo).
Một dân tộc đã phải chịu biết bao đau khổ dới ách thực dân tàn bạo trong suốt hơn tám
mơi năm, đã đứng hẳn về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, đã nêu cao tinh thần nhân
đạo chủ nghĩa, bác ái, đã đánh đổ chế độ thực dân, đập tan sự thống trị và nền tảng t tởng phong
kiến tồn tại mấy mơi thế kỉ, dân tộc đó phải đợc tự do và độc lập và sự thật đã thành một nớc tự
do độc lập.
Lời tuyên bố độc lập ăm ắp niềm tự hào, nó không còn là quyền, là t cách cần có nữa mà
đã là hiện thực. Đó là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và vì thế dân tộc Việt Nam nguyện đem tất
cả tinh thần, lực lợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
V . ý chí độc lập, tự do của nhân dân và tấm lòng của tác giả.
ý chí, khát vọng độc lập tự do đợc nói lên trong toàn bài, từ phần nêu cơ sở pháp lí ở đầu
bài cho đến phần chứng minh nguyên lí ấy, nhng rõ nhất là trong phần tuyên ngôn ở cuối bài,
9

Trn Quang Khi _ CT0754M038


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
đặc biệt là ở đoạn: Một dân tộc đã gan góc chóng ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân
tộc đã gan góc đứng về phe Động minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải đợc tự do !
Dân tộc đó phải đợc độc lập ! và đoạn: Nớc Việt nam có quyền hởng tự do, độc lập, và sự
thật đã trở thành một nớc tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.

Đây là lời của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Là con ngời yêu nớc số một của dân tộc Việt Nam,
suốt đời đi: tìm hình cho Nớc (tức là đi tìm độc lập, tự do cho dân tộc), hơn ai hết, Bác thấu hiểu
khát vọng độc lập, tự do và tin tởng sắt đá vào ý chí quyết tâm giữ vững nền độc lập, tự do của
nhân dân ta, vì vậy mà lời Bác chính là ý dân và ở đây, Ngời đã nói lên khát vọng và ý chí ấy của
nhân dân ta một cách hào hùng, mãnh liệt, đầy niềm tin. Và những đoạn văn tâm huyết đó đã có tác
dụng động viên, khích lệ mạnh mẽ đồng bào cả nớc.
Qua bản Tuyên ngôn độc lập, ngời đọc cảm nhận đợc tấm lòng của Bác thể hiện qua từng
câu chữ, và nhất là trọng giọng văn vừa thiết tha, vừa hùng hồn, đanh thép: tấm lòng của một con
ngời yêu nớc nồng nàn và tự hào dân tộc mãnh liệt, khát vọng độc lập, tự do với ý chí quyết tâm
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Tấm lòng của Bác đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến
Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một bài văn chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn xúc động
lòng ngời.
Bài 7 . Tây Tiến
Quang Dũng
I . đặt vấn đề.
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng . Ra đời trong thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ, Tây Tiến là một hồi tởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy
sống động về ngời chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Cho nên khác với vẻ đẹp của các bài thơ
cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng.
II . Giải quyết vấn đề.
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng bao trùm lên cả không gian và thời
gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sơng lấp đoàn quân mỏi
Mơng Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai
chữ chơi vơi nh vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tợng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh
núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thớc lên cao, ngàn thớc xuống
Nhà ai Pha Luông ma xa khơi
Khổ thơ là một bằng chứng thi trung hữu họa. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ
ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi
rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Những từ ngữ giàu giá trị tạo hình: Khúc
khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao
ngút ngàn của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ ngửi trời đợc dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, có
phần ngộ nghĩnh, tinh nghịch của ngời lính. Núi cao tởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn
heo hút. Ngời lính bớc đi trên đỉnh núi nh đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu
thơ thứ ba nh bẻ đôi, diễn tả đốc núi vút lên, đổ xuống gần nh thẳng đứng. Cái nhìn của Quang
Dũng đang hớng lên, nhìn xuống theo chiều cao và sâu của dốc đèo, bất ngờ đợc phóng ngang xa
qua một không gian mịt mùng sơng núi ma rừng, thấy thấp thoáng những ngôi nhà nh đang
bồng bềnh trôi giữa biển khơi.


Trn Quang Khi _ CT0754M038

10


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Cái vẻ hoang dại, dữ dội ẩn chứa nhiều bí ẩn ghê gớm của núi rừng tiếp tục đợc nhà thơ
khai thác. Nó không chỉ đợc mở ra theo chiều không gian mà còn đợc khám phá ở cái chiều thời
gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con ngời:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mờng Hịch cọp trêu ngời
Vậy là cảnh núi rừng hiểm trở qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên có đủ cả núi cao, vực
sâu, dốc thẳm, ma rừng, sơng núi, thác gầm, cọp dữ. Những địa danh xa lạ: Mờng Lát, Sài
Khao, Pha Luông, Mờng Hịch, những hình ảnh giầu giá trị tạo hình đợc hiện lên qua những câu

thơ vần trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn, đợc xoa dịu bằng những câu thơ vần bằng ở cuối khổ thơ,
làm hiện lên thế giới khác thờng vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc.
Và đoạn đầu kết thúc bằng một hình ảnh đột ngột:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tợng thật đầm ấm . Sau bao chặng đờng hành quân gian khổ, những ngời lính đợc
nghỉ ngơi, đợc quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nó xua tan đi những mệt mỏi trên
gơng mặt những ngời lính, khiến họ tơi tỉnh hẳn. Hai câu thơ tạo cảm giác êm dịu, ấm áp,
chuẩn bị tâm thế cho ngời đọc bớc sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở
dần xa khuất nhờng chỗ cho vẻ mĩ lệ, thơ mộng duyên dáng. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở
đoạn đầu đợc thay thế bằng những đờng nớt mềm mại, uyển chuyển, tinh tế.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trớc vẻ đẹp mang vẻ bí ẩn của con ngời và
cảng vật nơi xứ lạ. Cảnh ấy, ngời ấy hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất sự lung linh,
huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan văn nghệ giữa lửa đuốc bập bùng và cảnh một cuộc vợt
thác.
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ có sự góp mặt của những ngời dân địa phơng đợc miêu tả
bằng những chi tiết vừa thực mà cũng rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả danh trại bừng sáng, tng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đem văn nghệ bắt đầu. Trong ánh
sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng sáo, tất cả nh ngả
nghiêng, bốc men say, ngất ngây rạo rực. Nhân vật trung tâm của đêm hội là những cô gái địa
phơng vừa tình tứ, vừa e thẹn trong những bộ áo xiêm lộng lẫy đã hút cả hồn vía các chàng trai
Tây Tiến.
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cảm giác tơi vui thì cảnh vợt sông lại gợi lên cảm giác
mênh mông, mờ ảo:
Ngời đi Châu Mộc chiều sơng ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng ngời trên độc mộc
Trôi dòng nớc lũ hoa đong đa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều bao phủ một màn sơng huyền thoại. Trên
dòng sông ấy nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của ngời con gái Thái trên chiếc
thuyền độc mộc. Và nh hòa hợp với con ngời, những bông hoa rừng cũng cố làm duyên trên
dòng nớc lũ.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng đó của
Tây Bắc, hình tợng ngời lính xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Trn Quang Khi _ CT0754M038

11


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những ngời lính Tây Tiến để tạc nên
bức tợng đài tập thể. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tợng đài, chúng hòa
quyện vào nhau, thâm nhập vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng.
Hình ảnh ngời lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ xanh xao bề ngoài, với đầu không mọc
tóc. Đây không phải là cách gây ấn tợng bằng hình ảnh cho ngời đọc mà phản ánh một thực tế
khi ngời lính đối diện với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo Ta bắt gặp trong thơ kháng chiến những
hình ảnh quen thuộc đó: Sốt run ngời vầng trán ớt mồ hôi trong Đồng chí của Chính Hữu hay
cái mầu da vàng nghệ trong Cá nớc của Tố Hữu : Giọt giọt mồ hôi rơi, Trên trán anh vàng
nghệ. Quang Dũng cũng từ sự thật đấy nhng nhà thơ đã nhìn bằng cảm hứng lãng mạn. Hay nói

cách khác nhà thơ đã lãng mạn hoá hiện thực. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, câu thơ không
gợi cảm giác bi luỵ mà hiện lên sau đó là vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt khác thờng. Âm hởng câu thơ
gợi lên hoành tráng từ những từ ngữ mang thanh trắc: Tây Tiến, không mọc tóc làm câu thơ nh vút
lên . Hai chữ đoàn binh, một từ Hán Việt rất trang trọng đã góp phần tô đậm cái hùng dũng của
binh đoàn Tây Tiến đang tiến về phía trớc. Sự thật thiếu ăn và bệnh sốt rét làm ngời lính xanh
xao, nhng với cái nhìn lãng mạn, màu xanh ấy lại đợc liên tởng tới màu xanh của lá rừng đại
ngàn. Quân xanh vì đói khát, sốt rét nhng vẫn toát lên cái oai phong dữ đằn của những con hổ nơi
rừng thiêng. Ba chữ dữ oai hùm không chỉ đơn thuần là một phép so sánh mà còn thể hiện sự tiếp
thu truyền thống thẩm mĩ phơng Đông của tác giả. Một quan niệm về vẻ đẹp ngời anh hùng trên
nền của sức mạnh thiên nhiên, của hổ báo: Râu hùm, hàm én, mày ngài (Từ Hải Truyện Kiều)
hay Sĩ tốt kén tay tì hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh để nói đến sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn
trong Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, hay trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão: Tam quân tì hổ
khí thôn ngu. Cho nên ba chữ dữ oai hùm có sự chất chứa hội tụ, kết tinh hào khí của ngời
lính Tây Tiến. Cái vẻ oai phong đó còn đợc thể hiện qua ánh mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Mắt trừng gợi khát vọng chiến đấu đến lạnh lùng, ngời lính Tây Tiến mộng chiến đấu, mộng lập
công, mộng truy kích giặc qua biên giới Việt Lào. Đó cũng là cái mộng chung của ngời lính một
thời thanh gơm lng ngựa.
Đọc những hình ảnh không mọc tóc, quân xanh màu lá, dữ oai hùm ta cứ ngỡ những
ý chí căm hờn và khát vọng chiến đấu đã tôi luyện trái tim thành sắt đá. Vậy mà đọt ngột hiện ra
câu thơ : Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Câu thơ miêu tả rất đúng, rất chân thực đời sống của
ngời lính Tây Tiến, vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức. Họ ra đi từ trờng xa phố cũ,
nhiều ngời xuất thân từ thủ đô Hà Nội, cho nên giữa cuộc sống kham khổ thiếu thốn, thậm chí
đối diện với cái chết họ vẫn giữ đợc vẻ hào hoa lãng mạn. Họ mơ về Hà Nội của một thời cắp sách
tới trờng, mơ về một dáng yêu kiều thớt tha tà áo dài, đôi mắt biếc... Nếu nh chàng trai cày đi
vào cuộc chiến đấu nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ giếng nớc, gốc đa, nhớ gian nhà không mặc kệ
gió lung lay, hoặc nhớ về :
Tiếng mõ đêm trờng
Luống cày đất đỏ
ít nhiều ngời vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.

(Nhớ Hồng Nguyên)
thì những ngời lính Tây Tiến lại thắp sáng tâm hồn mình bằng những giấc mơ, những giấc mơ nh
những hành trang không thể nào thiếu đợc trong trái tim của họ, để họ có thể vợt qua mọi thử
thách. ở đây tình yêu lứa đôi đã hoà quện cùng tình yêu quê hơng đất nớc.
Nh vậy ngời lính trong cảm nhận của Quang Dũng không chỉ có những đờng nét khắc
họa bên ngoài mà còn có cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Nếu nh đôi cánh của lí tởng đợc Quang Dũng sử dụng nh những gam mầu cơ bản để
dựng lên bức chân dung ngời lính Tây Tiến bi hùng, thì cũng chính cái nhìn lí tởng đó kết hợp
cùng đôi mắt lãng mạn, tác giả không hề nhấn chìm ngời đọc vào cái bi thơng bi lụy của những


Trn Quang Khi _ CT0754M038

12


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
mất mát hi sinh. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng cánh cho cho những sáng tạo khi ông nhìn
nhận cái bi thơng. Cùng với nghệ thuật nói giảm (áo bào thay chiếu anh về đất), cách dùng từ
Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên cơng, mồ viễn xứ đã biến những nấm mồ của ngời lính nơi
rừng hoang biên giới trở thành hồn nhiên vĩnh hằng, sống mãi cùng thời gian. Đặc biệt cái bi
thơng vơi hẳn đi ở t thế ra đi vì vì lí tởng Chiến trờng đi chẳng tiếc đời xanh. Hai chữ chẳng
tiếc đặt ở giữa dòng thơ nói lên sự tự nguyện, thanh thản của những ngời cảm tử cho Tổ quốc
quyết sinh. Hai chữ đời xanh gợi tuổi trẻ với bao ớc mơ hi vọng. Đẹp là thế, đáng yêu là thế nhng
họ vẫn tự nguyện hiến dâng cho dáng hình xứ sở bởi có sự hi sinh nào lớn lao và đẹp hơn. Quang
Dũng đã lãng mạn hóa sự hi sinh, những ngời lính mang dáng vẻ những tráng sĩ thuở xa coi cái
chết nhẹ nh lông hồng, sống chiến đấu vì lí tởng. Trớc cái chết của ngời lính Tây Tiến, không
một tiếng khóc, không một vòng hoa, dòng Sông Mã gầm lên khúc độc hành nh khúc nhạc bi
tráng tiễn đa ngời lính về nơi an nghỉ cuối cùng, và nh thể ru giấc nhủ ngàn thu của họ.
Cái âm hởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của ngời

lính Tây Tiến không bi lụy mà thẫm đẫm tinh thần bi tráng.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, nh nói lên bức chân dung tinh thần của ngời lính Tây
Tiến, đó là vẻ đẹp ra đi tìm lí tởng không hẹn ngày gặp lại (Tây Tiến ngời đi không hẹn ớc). Đó
cũng là dáng dấp của ngời li khách trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Chí nhớn cha về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại.
Đó cũng chính là hình ảnh ngời ra đi trong Đất nớc của Nguyễn Đình Thi:
Ngời ra di đầu không ngoảnh lại.
tất cả nh một lần nữa tô đậm không khí thời Tây Tiến, khẳng định lí tởng chiến đấu vì độc lập Tổ
quốc luôn bừng cháy trong tim ngời lính.
III . Kết thúc vấn đề.
Tây Tiến là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Quang Dũng, nó không chỉ thâu
tóm đợc không khí náo nức ra trận của một thời oanh liệt mà còn thể hiện đợc vẻ đẹp tâm hồn
của những ngời con u tú sẵn sàng xả thân vì lí tởng. Đó là bức tranh hoành tráng khắc hoạ cái
dữ dội, hào hùng nhng sâu lắng, tang thơng mà không hề bi luỵ. Một thành công của văn chơng
chống Pháp khi xây dựng hình tợng ngời lính.
Bài 8. Bên kia sông Đuống
Hoàng Cầm
I . Đặt vấn đề.
Quê hơng mỗi ngời chỉ một
Nh là chỉ một mẹ thôi
Quê hơng nếu aikhông nhớ
Sẽ không lớn nổi thảnh ngờ
Mỗi một con ngời ai cũng có một quê hơng. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu
vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống . Nhớ về quê hơng là nhớ về những gì
sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông
Đuống.
Bài thơ ra đời khi quê hơng Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe
tin quê hơng ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông.Đứng bên này Sông Đuống,
mảnh đất tự do, hớng về quê hơng bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi

niềm và xót xa trong tâm trạng. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.
II . Giải quyết vấn đề.
Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của
nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:
Em ơi buồn làm chi
Anh đa em về sông Đuống
13

Trn Quang Khi _ CT0754M038


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Ngày xa cát trắng phẳng lì
Em ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng
quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thờng gặp một nhân vật em nh
vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.
Và lời an ủi đa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ.
Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hơng với bờ cát trắng phẳng lì chảy
từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ nh một dòng sáng lấp lánh và trù phú
hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nơng dâu:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trờng kì
Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo
của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tởng tợng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra
một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tợng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm
trí ngời đọc.
Từ bên này, nhà thơ đau đáu hớng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng
một hình ảnh diến tả nỗi đau Sao xót xa nh rụng bàn tay. Hoàng Cầm đã mợn nỗi đau của thể
xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là ngời coi quê hơng

là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến nh vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt
đến độ điển hình.
Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trớc cảnh
tợng quê hơng thanh bình, đông vui, tơi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê
hơng Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, đợc gợi lên bởi hơng lúa nếp thơm nồng - biểu
tợng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ - biểu tợng của đời sống tinh thần lành mạnh.
Bên kia sông Đuống
Quê hơng ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tơi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Vẻ đẹp quê hơng bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu
tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hơng khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung
tàn, ruộng khô, nhà cháy, con ngời chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:
Mẹ con đàn lợn âm dơng
Chia lìa đôi ngả
Đám cới chuột đang tng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mợn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tợng
thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con ngời vốn gắn bó máu thịt với
truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hơng Kinh Bắc.
Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hơng Kinh Bắc còn đợc gợi lên với những đền chùa cổ
kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân
. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu
Những con ngời mang một phần linh hồn của quê hơng xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ,
tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng

vẳng từ thuở bình yên xa xa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hơng nh tiếng
thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
14

Trn Quang Khi _ CT0754M038


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Vùng quê Kinh Bắc còn đợc gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui,
sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần
hiện lên với những nét xinh tơi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cời nh mùa thu tỏa nắng
Nhng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.
Trong niềm tiếc thơng không nguôi những ngời, những cảnh vật của quê hơng, Hoàng
Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho ngời mẹ già và em nhỏ. Ngời mẹ già nua, còm cõi vốn
đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây
bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con ngời không sống đợc yên ổn mà cả những cánh cò
cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nơng thân.
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lớt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đờng trơn ma lạnh mái đầu bạc phơ
Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh ngời mẹ, nhng không phải là cánh cò bay lả bay la
của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lng ngời mẹ run rẩy,
bớc thấp bớc cao trên đờng trơn ma lạnh.
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh đợc Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh
đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái

chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ
Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngơi hờn
Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công
một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thơng sang uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn
kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô
gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cời tơi tắn giữa không khí tng bừng của ngày hội.
Em đi trẩy hội non sông
Cời mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
III . Kết thúc vấn đề.
Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà
Hoàng Cầm đã dành cho quê hơng yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta
tình yêu quê hơng đất nớc. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó nh chính lời bài hát
của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.
Bài 9. Đôi mắt
Nam Cao
I . Đặt vấn đề.
Đôi mắt là tác phẩm quan trọng nhất của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám và cũng là tác
phẩm xuất sắc nhất của Văn học Việt nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu nhà văn
đặt tên là Tiên s thàng Tào Tháo, nhng sau này Nam Cao đặt cho nó một cái tên giản dị hơn rất
nhiều: Đôi mắt .
Tác phẩm đợc viết vào mùa xuân năm 1948. Tác phẩm nhận đờng cho văn nghệ sĩ và đặt
ra vấn đề cái nhìn, lập trờng, quan điểm, chỗ đứng của ngời nghệ sĩ trong thời đại cách mạng.
Nh vậy tác giả đã có sự lựa chọn cân nhắc để đặt nhan đề cho tác phẩm, để qua nhan đề làm nổi
bật ý nghĩa t tởng của truyện ngắn này.


Trn Quang Khi _ CT0754M038


15


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
II . Giải quyết vấn đề.
Đọc Đôi mắt ta hiểu ngay vấn đề cách nhìn quần chúng và cuộc kháng chiến khác nhau
giữa những ngời nghệ sĩ có quan điểm lập trờng khác nhau, đợc thể hiện qua Hoàng và Độ là
hai nghệ sĩ, hai nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Trớc hết ta thấy Hoàng không phải nhìn quần chúng với đôi mắt thù địch. Nhà văn này về
cơ bản không phải là một kẻ phản động. Hoàng vẫn có những nét đáng trân trọng nh thái độ bộc
lộ thẳng thắn những suy nghĩ của mình với nhân vật Độ, lòng ngỡng mộ chân thành với lãnh tụ
một cách ngây thơ. Và cũng không nên coi những chuyện Hoàng nói về ngời nông dân là vu cáo
hay xuyên tạc. Tất cả bắt nguồn từ đôi mắt nhìn nhận thời cuộc của cá nhân nhân vật Hoàng.
Nhắc đến điều này để thấy rõ bản lĩnh nghệ thuật của Nam Cao. Ông phát hiện và miêu tả
đôi mắt của Hoàng từ nhiều góc độ, không đơ giản, một chiều tạo nên sự chấp nhận dễ dãi từ phía
ngời đọc.
Đôi mắt của Hoàng dần dần đợc thể hiện qua việc anh kể lần lợt những điều tai nghe mắt
thấy một cách hóm hỉnh, sắc sảo. Tài quan sát, tài diến đạt hấp dẫn, cộng với năng lực hài hớc
hóa, lố bịch hóa những gì mình không a thích khiến những mẫu chuyện Hoàng kể thật sinh động.
Bằng đôi mắt của mình, Hoàng cảm nhận ngời nông dân tham gia kháng chiến toàn là
những ngời vừa ngố vừa nhặng xị, hầu hết đều ngu độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam bần tiện. Cha
con, anh em chẳng tốt với nhau. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng nhố
nhăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà cứ hay nói chuyện chính trị rối nhặng cả lên. Sắc sảo, có tài
quan sát, nhng Hoàng hoàn toàn không nhìn thấy bên trong việc cảnh giác quá đáng, ham tuyên
truyền cách mạng: động thấy ai đi qua là hỏi giấy, hay nói chuyện nói chuyện chính trị, đọc
thuộc lòng cả bài dài 5 trang giấy về đờng lối kháng chiến nh một con vẹt biết nói kia là bản
chất yêu nớc, cách mạng của họ.
Cũng xuất phát từ đôi mắt khinh bạc, thiếu thiện cảm với ngời nông dân nên Hoàng chẳng
những chỉ nhìn thấy mặt nhợc điểm đáng cời mà còn ít nhiều phóng đại, cờng điệu, hài hớc

hóa mặt nhợc điểm đó để chế nhạo, giễu cợt một cách bất nhẫn. Tác giả đã tờng thuật cuộc trò
chuyện giữa hai vợ chồng Hoàng với Độ nh một minh chứng cho sự bất công trong cách nhìn
ngời, nhìn đời của nhân vật Hoàng. ở đây nhà văn không cố ý đóng cũi tình cảm của mình để
ngời đọc tự nhận thấy kẻ đáng cời, đáng trách không phải là những ngời nông dân mà chính lại
là vợ chồng Hoàng - những kẻ đang ra sức bêu xấu họ.
Chỉ nhìn thấy nông dân ngu dốt, ngây ngô, tất yếu Hoàng không bao giờ tin vào quần chúng nhân
dân mà lực lợng chủ yếu là nông dân sẽ đa cuộc kháng chiến đến thành công, Hoàng rất nản.
Tuy vậy, anh ta lại tin vào tài năng của cụ Hồ, cứ cho rằng dân mình có tồi đi nữa. Ông cụ xoay
quanh rồi cũng cứ độc lập nh thờng điều này chứng tổ bằng cách nhìn phiến diện, Hoàng đã tạo
nên một sự đối lập giữa lãnh tụ và dân tộc.
Với đôi mắt nói trên còn tất yếu dẫn Hoàng đến thái độ chỉ giao thiệp với đám ngời: cặn
bã của giới thợng lu trí thức, mà anh ta thừa biết toàn những kẻ thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm
đời, Hoàng chơi với họ, nhng có a gì họ. Nghĩ cho cùng giữa anh và họ chính là quan hệ của
những ngời cùng hội cùng thuyền. Bởi vậy anh chỉ có thể chơi với họ chứ không cộng tác với
những ngời kháng chiến. Và việc anh đóng cửa suốt ngày không giám đi đâu nữa cũng hoàn
toàn có thể giải thích bằng đôi mắt nói trên.
Vốn là một nhà văn hiện thực, Nam cao rất có ý thức giải thích một cách hệ thống toàn diện
dĩ nhiên bằng các chi tiêt nghệ thuật đôi mắt của Hoàng.
Hoàng vốn là một văn sĩ trởng giả, nhân cách thấp kém có cái tật hay đá bạn, trong khi
đồng nghiệp chỉ còn một dúm xơng trong nạn đói năm 1945 thì Hoàng vẫn phong lu nhờ tài
chạy chợ đen rất tài tình và con chó của anh vẫn cha phải nhịn đói bữa nào.
Đặc biệt, khi kháng chiến bùng nổ, bao tầng lớp nhân dân đặc biệt là nông dân sẵn sàng
chịu đựng gian khổ thiếu thốn, hi sinh đóng góp sức lực cho cuộc kháng chiến, thì Hoàng vẫn giữ
nguyên cách sống cũ, ích kỷ, co mình lại trong vỏ ốc gia đình với những bữa ăn ngon, những món


Trn Quang Khi _ CT0754M038

16



Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
quà vặt lạ miệng, với nhà cửa khang trang với nếp sinh hoạt trởng giả: Nuôi chó dữ, đọc truyện
Tam quốc trớc khi đi ngủ, hút thuốc lá thơm, nằm màn tuyn trắng toát, chăn đắp thoang thoảng
nớc hoa Hoàng hoàn toàn dửng dng trớc thời cuộc, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung của
nhân dân của đất nớc. (dĩ nhiên trong hoàn cảnh bình thờng, chúng ta có thể nghĩ khác về
Hoàng).
Nh vậy ở nhân vật này thiếu hẳn sự gắn bó với những ngời lao khổ, nói rộng là thiếu sự
gắn bó với nhân dân với đất nớc, thiếu cội nguồn nhân đạo cần thiết của một nhà văn. Do đó, đôi
mắt nhìn ngời nông dân của Họàng trớc trớc sau không hiểu nổi ngời nhà quê, không hiểu
cuộc kháng chiến là diều có thể giải thích đợc.
Đối lập với Hoàng là Độ. Thực ra, phân tích đôi mắt của Hoàng đã hàm cha việc phân tích
đôi mắt của Độ, vì hai nhân vật này đợc xây dựng để bổ sung cho nhau, làm rõ luận đề của tác
phẩm. Vả lại, nhân vật Hoàng đã đợc miêu tả dới đôi mắt của Độ.
Trớc hết, Độ cũng không thấy ít những điểm yếu của những ngời nông dân: răng đen,
mắt toét, phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhác sợ, nhịn nhục một cách đáng thơng. Nhng điều
quan trọng hơn, Độ nhìn thấy đợc nét chủ yếu trong con ngời họ. Đó là bản chất tốt đẹp của
ngời nhà quê. Theo anh họ có thể làm cách mạng, mà bằng chứng hùng hồn nhấtt là lúc ra trận,
giáp mặt với cái chết, chính anh cũng thấy họ xung phong can đảm lắm. Tin vào sức mạnh của
nông dân, cũng có nghĩa là Độ tin vào tơng lai của cuộc kháng chiến.
Sở dĩ Độ có đợc đôi mắt nói trên không phải chỉ vì anh đã sống ở nhà quê nhiều, mà điều
quan trọng hơn là anh yêu mến và đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với nông dân, với sự nghiệp
chung của cả dân tộc. Ngay từ ngày tổng khởi nghĩa, độ đã theo nông dân: đi đánh phủ. Sau cách
mạng, anh đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Từ một nhà văn, Độ sẵn sàng làm ngời
tuyên truyền nhãi nhép cho cách mạng, anh có thể ngủ ngay trong nhà in đèn sách và máy chạy
ầm ầm.
Tóm lại, bằng truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao đã khắc họa hai cái nhìn (mà thực chất là hai
tính cách, hai con ngời) khác hẳn nhau. Nhà văn biểu dơng đôi mắt đúng đắn của Độ - ngời
nghệ sĩ gắn sự nghiệp của mình với quần chúng, tích cực tham gia kháng chiến; phê phán đôi
mắt chua chát chán nản của Hoàng - một kiểu trí thức ích kỷ, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung

của dân tộc. Qua đó Nam Cao khẳng định: Nhà văn trớc hết phải đứng trên lập trờng của ngời
công dân có trách nhiệm với cuộc kháng chiến, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kể cả văn
chơng nghệ thuật, và có cái nhìn mới về ngời lao động - những con ngời bình thờng nhng vĩ
đại. Đồng thời, nhà văn muốn viết đúng phải có đôi mắt nhìn nhận đúng; muốn nhìn nhận đúng
phải có tấm lòng nhân ái.
Chính vì lẽ đó mà nhà văn Tô Hoài coi tác phẩm Đôi mắt là bản tuyên ngôn nghệ thuật của
cả một lớp nhà văn cũ đi theo cách mạng. Bởi nó đề cập đợc đến vấn đề đôi mắt của ngời nghệ
sĩ, của nhà văn trong kháng chiến. Đôi mắt ở đây chính là cách nhìn ngời, cách nhìn đời; nói khái
quát hơn là vấn đề quan điểm, lập trờng của ngời trí thức văn nghệ sĩ đối với cuộc kháng chiến
chống Pháp của dân tộc và ngời nông dân - lực lợng nòng cốt của cuộc kháng chiến.
Đôi mắt là một truyện ngắn nhng đã nêu đợc vấn đề lớn: Vấn đề thế giới quan của ngời
nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Sau ngót nửa thế kỷ, đến nay, điều ấy vấn có ý nghĩa mới mẻ.
Qua phân tích đôi mắt của Hoàng và đôi mắt của Độ, chúng ta không những khâm
phục chất trí tuệ sắc sảo, thâm trầm của Nam Cao, mà còn trân trọng tấm lòng gắn bó sâu nặng với
nhân dân với đất nớc của một nhà văn luôn phấn đấu cho những gì tốt đẹp trên đời.
III. Kết thúc vấn đề.
Truyện ngắn Đôi mắt là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao sau cách mạng
tháng Tám. Đó là tác phẩm u tú của văn học Việt Nam thời kì đầu kháng chiến. Tác phẩm không
chỉ đơn thuần phản ánh đôi mắt của cá nhân mà còn lớn hơn, khẳng định vấn đề lập trờng quan
điểm của văn nghệ sĩ. Điều đó đã nâng tác phẩm lên một tầm cao mới, xứng đáng là bản tuyên
ngôn nghệ thuật cho cả một thế hệ nhà văn nh nhận xét của Tô Hoài.


Trn Quang Khi _ CT0754M038

17


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Bài 10. Đất nớc

Nguyễn Đình Thi
I . đặt vấn đề.
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài, có nhiều thành tựu xuất sắc trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là thi ca.
Đất nớc là bài thơ ngắn đợc Nguyễn Đình Thi viết trong một khoảng thời gian dài (1948
- 1955). Có thể xem Đất nớc là bức tợng đài bất tử về Tổ quốc từ trong máu lửa đau thơng rũ
bùn đứng dậy sáng loà. Trong bản đại hợp xớng của thơ ca Việt Nam viết ca ngợi nhân dân, ca
ngợi đất nớc, thì Đất nớc của Nguyễn Đình Thi là một khúc nhạc với giai điệu thiết tha, hào
hùng, sâu lắng, gây đợc ấn tợng sâu đậm cho ngời đọc. Bài thơ là cảm xúc về tổ hợp lịch sử, về
đất nớc, có quá khứ, có hiện tai và tơng lai.
II . Giải quyết vấn đề.
1 . Bảy câu thơ đầu.
Khởi nguồn cảm xúc và suy ngẫm về đất nớc là những cảm giác nảy sinh trong một buổi
sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc.
Cách mở đầu này có phần giống với thể hứng trong ca dao:
Sáng mát trong nh sáng năm xa
Gió thổi mùa thu hơng cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Cảm giác mát trong của thời tiết mùa thu đợc truyền qua chuỗi âm thanh trong trẻo, nhẹ
nhàng và êm dịu của câu thơ mở đầu, thấm vào hồn ngời đọc, gợi lên nỗi nhớ về mùa thu năm xa
ở Hà Nội. Buổi sáng mùa thu trong lành, mát mẻ, gió nhẹ thổi và thoang thoảng trong gió mùi
hơng cốm mới. Một mùi hơng thanh tao, lịch lãm, rất đỗi quen thuộc của Hà Nội. Chỉ bằng một
vài nét mà Nguyễn Đình Thi đã gợi lên cả không gian và thời gian, cả màu sắc và hơng vị của Hà
Nội mùa thu.
Trong niềm hoài niệm của nhà thơ, mùa thu Hà Nội hiện lên với những cảnh vật thiên nhiên
và con ngời thật cụ thể, sinh động và gợi cảm:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Ngời ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lng thềm nắng lá rơi đầy.

Sự nhạy cảm, tinh tế của một nhà thơ đã giúp Nguyễn Đình Thi nhận ra cái chớm lạnh của
một buổi sáng mùa thu, cảm giác đợc thật cụ thể cái xao xác của gió heo may trên những con phố
dài một nét đặc trng của phố phờng Hà Nội. Trên cái nền của không gian và thời gian đó, nhà
thơ ghi lại thật sống động hình ảnh và tâm trạng chàng trai Hà Nội năm xa phải rời thành phố ra
đi, dứt khoát nhng cũng đầy lu luyến. Ta bất chợt nhớ đến ngời li khách trong Tống biệt hành
của Thâm Tâm dứt khoát ra đi vì lí tởng, hay hình tợng ngời lính trong Tây Tiến của Quang
Dũng: Tây Tiến ngời đi không hẹn ớc.
Những câu thơ viết về Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ là những câu thơ hay nhất, đẹp
nhất của bài thơ. Mỗi chi tiết, hình ảnh nh đợc chắt lọc ra từ chính máu thịt tâm hồn ông. Hình
ảnh thơ phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc một
trạng thái nào đấy. Nguyễn Đình Thi quan niệm về hình ảnh thơ nh vậy. Cho nên ta hiểu vì sao
mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết viết về mùa thu năm xa ở Hà Nội có cái gì đó vừa da diết, nhớ nhung,
vừa ngậm ngùi, vừa lu luyến. Phải là ngời yêu tha thiết Hà Nội, am hiểu sâu sắc Hà Nội mới có
thể gợi lên đợc thần thái, cái hồn của mùa thu Hà Nội và tâm trạng con ngời những năm tháng
trớc cách mạng: đẹp hiu hắt, vắng lặng, phảng phất buồn. Nỗi buồn đó phảng phất trong cái chớm
lạnh của mùa thu, trong khung cảnh thềm vắng lá rơi đầy, qua thái độ dứt khoát ra đi càng bộc lộ
sự lu luyến, qua nhịp điệu khoan thai, dịu dàng, man mác buồn của cả đoạn thơ.
2 . Mời bốn câu tiếp.


Trn Quang Khi _ CT0754M038

18


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Từ hoài niệm về mùa thu năm xa ở Hà Nội, bài thơ lại trở về với không gian và thời gian
nơi chiến khu Việt Bắc.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thỏi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cời thiết tha.
Giọng điệu, nhịp điệu của đoạn thơ biến đổi hẳn: khoẻ khoắn, phấn khởi, vui tơi, đầy hào
hứng. Những câu thơ nh những tiếng reo vui, hình ảnh thơ cũng vận động biến đổi, không còn
bóng dáng ớc lệ sen tàn cúc lại nở hoa, lá ngô đồng rụng lá của thơ cổ hay với áo mơ phai dệt
lá vàng đài các trong thơ mới mà đã thay áo mới, hiện diện bằng những hình ảnh bình dị, dân dã,
khoẻ khoắn và tơi sáng hơn. Giữa không gian rộng lớn, bao la, tựa lòng mình vào cuộc kháng
chiến của toàn dân tộc, nhà thơ không còn thấy cảnh mùa thu vắng lặng, buồn hiu hắt nữa mà tơi
sáng trong trẻo, rộn ràng những tiếng nói câu cời trong biếc, thiết tha.
Từ cảm xúc mới về mùa thu, mạch thơ vận động một cách khá tự nhiên dẫn đến niềm tự hào
đợc làm chủ non sông đất nớc. Cái tôi trữ tình đã nhờng chỗ cho cái ta đại chúng. Việc sử dụng
những điệp ngữ (của chúng ta) cùng với từ chỉ định (đây) trong những câu thơ mang tính chất
khẳng định vang lên một cách đàng hoàng, dõng dạc thể hiện niềm tự hào về quyền làm chủ non
sông. Cách tính ở dạng số nhiều: những cánh đồng, những ngả đờng, những dòng sông... gợi lên
một đất nớc mênh mông, rộng lớn, ăm ắp niềm tự hào. Thể hiện t thế, ý thức làm chủ, niềm tự
hào chân chính của con ngời Việt Nam trong kháng chiến.
Từ giọng thơ phơi phới bốc men say, những câu thơ cuối lại trầm xuống trong những suy
tởng, sâu lắng khi nói tới truyền thống lịch sử bất khuất của đất nớc.
Nớc chúng ta
Nớc những ngời cha bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xa vọng nói về.
Đất nớc không chỉ là những cái hữu hình (bầu trời, núi sông bờ cõi) mà còn là những cái
vô hình, là truyền thống quật cờng, bất khuất hàng ngàn đời của dân tộc. Những từ láy: đêm đêm,
rì rầm nh tiếng vọng thì thầm của hồn thiêng đất nớc từ ngàn xa vọng về. Tạo không khí linh
thiêng khi nhắc đến truyền thống tinh thần hàng ngàn đời của dân tộc. Khẳng định sự bất biến của
linh hồn dân tộc.
3 . Đoạn còn lại.
Ôi những cánh đồng que chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt ngời yêu.
Mạch cảm xúc của Nguyễn Đình Thi về đất nớc đang ăm ắp niềm tự hào và lắng sâu khi
nghĩ về truyền thống lich sử, đột ngột có sự chuyển đổi để hiện lên một đất nớc đau thơng, mất
mát bởi chiến tranh.
Từ cảm thán Ôi đặt ở đầu câu nh một tiếng thở dài thốt lên từ trái tim nhà thơ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu. Cánh đồng quê hay là hình hài đất nớc, là dáng hình xứ sở ?
ở đây, hình ảnh cánh đồng trở thành hình ảnh mang tính chất biểu trng, điển hình cho đất nớc
đau thơng trong chiến tranh. Thủ pháp nghệ thuật nhân hoá đợc sử dụng nh cầu nối điễn tả cảm
giác đau đớn của quê hơng làm ngời đọc cảm thấy nhói đau trong tim mình bởi máu đó là máu
của những ngời dân lơng thiện, của những ngời con yêu nớc thơng nòi đã ngã xuống vì độc
lập của tổ quốc. Ta chợt nhớ hình ảnh đất nớc trong thơ Vũ Cao:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới


Trn Quang Khi _ CT0754M038

19


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
hay cảnh cánh đồng xanh trở nên khô cháy trong Bên kia Sông Đuống:
Ruộng ta khô, nhà ta cháy
nhng cha câu thơ nào làm ta nhói đau nh câu thơ miêu tả cánh đồng nhuốm một màu máu nh
câu thơ của Nguyễn Đình Thi. Đây là hình ảnh có thật, nhà thơ ghi lại vào những buổi chiều hành
quân qua những cánh đồng vành đai trắng ở tỉnh Bắc Giang cháy lên trong ráng chiều. Hình ảnh
cánh đồng quê chảy máu đặt trong sự tơng phản với những cánh đồng thơm mát càng làm ngời
đọc thấm thía hơn nỗi đau đất nớc có chiến tranh, càng hiểu thêm cái giá của đất nớc trong

những ngày tự do độc lập.
Hình ảnh đất nớc đau thơng trong chiến tranh trở nên ấn tợng hơn, tô đậm hơn bằng
hình ảnh Dây thép gai đâm nát trời chiều. Đúng là trời xanh không thoát khỏi cảnh đau thơng.
Đặt câu thơ trong thế tơng phản với trời thu thay áo mới để nhấn mạnh hình ảnh đất nớc đau
thơng trong chiến tranh. Đặc biệt sự tơng phản trong nội bộ câu thơ càng làm nổi bật sự khốc liệt
của chiến tranh: dây thép gai là biểu tợng của chiến tranh tàn phá, của hành động tàn bạo đâm
nát tơng phản với cảnh trời chiều gợi sự yên bình, êm ả.
Trên cái nền của đất nớc đau thơng, Nguyễn Đình Thi đã làm nổi bật tâm trạng của ngời
chiến sĩ:Những đêm dài hành quân nung nấu. Bỗng bồn chồn nhớ mắt ngời yêu. Nhà thơ đã cảm
nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn ngời ra trận. Những đêm dài hành quân nung
nấu thể hiện ý thức sâu sắc của ngời lính về nghĩa vụ của bản thân mình với đất nớc. Đó là thứ
tình cảm luôn thờng trực, hằn sâu trong suy nghĩ của ngời ra trận, nhng trái tim yêu thơng đa
anh trở lại với những xúc cảm rất đời thờng. Chữ dài đi với chữ nung nấu song hành cùng từ bồn
chồn đã diễn tả rất đạt mối quan hệ giữa tình cảm thờng trực và đột xuất, thể hiện thật thoả đáng
và sâu sắc sự hài hoà giữa cái chung và cái riêng, giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nớc. Đúng
nh Nguyễn Đình Thi đã từng viết:
Anh yêu em nh yêu đất nớc
Vất vả đau thơng tơi thắm vô ngần
Đó là nét đẹp trong tâm hồn ngời Việt Nam, luôn thống nhất tình yêu lứa đôi với tình yêu
đất nớc, và có gì lớn lao hơn khi chiến đấu bảo vệ quê hơng khỏi những đau thơng cũng là bảo
vệ sự vẹn tròn của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát, tợng trng cho đất nớc từ trong máu lửa chiến
tranh, từ trong đau thơng căm phẫn đứng dậy hào hùng:
Súng nổ rung trời giận dữ
Ngời lên nh nớc vỡ bờ
Nớc Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà
Đây là khổ thơ duy nhất trong bài tác giả sử dụng thể thơ sáu chữ. Cách ngắt nhịp dồn dập,
đều đặn tạo nên một âm hởng hùng tráng. Nhà thơ đã tạo nên một bức tợng đài của đất nớc
sừng sững hiện lên chói ngời trên cái nền của máu, lửa, bùn lầy, trong không gian dồn dập ầm vang

tiếng súng nổ rung trời.
III . Kết thúc vấn đề.
Đất nớc là bài thơ tiêu biểu nhất của đời thơ Nguyễn Đình Thi. Bài thơ cũng rất tiêu biểu
cho cái nhìn nghệ thuật của ông về đất nớc. Ông là nhà thơ của đất nớc trong đau thơng. Đất
nớc soi bóng vào tâm hồn ông, chỉ bộc lộ rõ nhất vẻ đẹp trong đau khổ, trong gian nan, vất vả,
nhọc nhằn.
bài 11. Vợ chồng a phủ
Tô Hoài
I . Đặt vấn đề.
Trớc cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm Dế mèn phu lu kí. Sau
cách mạng tháng Tám và đi theo kháng chiến, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình


Trn Quang Khi _ CT0754M038

20


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
bằng tập Truyện Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn
viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc
sống của ngời dân lao động vùng núi cao, dới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến
miền núi. Đặc biệt truyện đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách
mạng của họ.
II . Giải quyết vấn đề.
Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thờng trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi
gai bên tảng đá trớc cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ
củi hay đi cõng nớc dới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rời rợi.
Vợ chồng A Phủ mở đầu nh thế , một sự mở đầu xứng đáng với giọng kể chuyện đẹp nh
ru. Thế giới Tây Bắc đã đợc mở ra xa xăm kì diệu, trên cả ý nghĩa và nhạc điệu và lời văn. Một thế

giới không phải cổ tích mà nh thoảng hơng ca dao cổ tích, một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi
cảm, qua một bức chân dung thiếu phụ buồn.
Mị là một ngời con gái đẹp, một vẻ đẹp mang tính thuần nhất với vẻ đẹp trong văn chơng.
Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, không có đàn tì bà, không có nguyệt cầm thì cô giỏi sáo
và giỏi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay nh thổi sáo. Mà tài năng âm nhạc, cũng theo
truyền thống thờng hé mở một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đơng. Quả
thế, Mị đã đợc yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trớc trớc âm
thah hò hẹn của ngời yêu.
Nhng ngời con gái tài hoa miền sơn cớc đó phải chịu một cuộc đời có thể nói là bạc
mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm ngời con dâu gạt
nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã không quên diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của ngời con gái ấy, con ngời với
danh nghĩa là con dâu, nhng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa,
Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đợc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái
ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm.
Song nhà văn xem ra vẫn thông cảm nhiều hơn với nỗi đau khổ về tinh thần. Chính cảm xúc
về nỗi đau thinh thần ấy đã giúp ông sáng tạo ra những ngôn từ, những hình ảnh khó quên: Một cô
Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đơng, bây giờ lạng câm, lùi lũi nh con rùa nuôi trong xó cửa.
Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó
trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sơng hay là nắng . Đó quả thực là một
thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và
sức sống của cô. Rõ ràng tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã đợc cất lên nhân
danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn
lửa của niềm vui sống trong những con ngời vô cùng đáng sống.
Mị đã tùng muốn chết mà không đợc chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của ngời cha. Nhng
dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn taị vật vờ.
Chính lúc này cô gái còn đáng thơng hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một
cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa
là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nơng, thái cỏ ngựa hay
cõng nớc cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

Nh vậy sức sống của Mị đã vĩnh viễn mất đi ? Không phải thế, bên trong cái hình ảnh con
rùa lầm lũi kia dang còn một con ngời. Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong
đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận
lợi thì nó lại cháy lên từ lớp tro tàn. Và nó, cái khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật
nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Có thể nói cuộc nổi loạn lần thứ nhất trong tâm hồn Mị là đoạn văn thử thách thực sự ngòi
bút của Tô Hoài. Làm sao có thể cắt nghĩa đợc vì lí do gì mà cô Mị của ngày xa, cô Mị đầy xuân
tình xuân sắc lại bỗng dng thức dậy trong ngời đàn bà âm thầm, chịu đựng mỏi mòn đúng


Trn Quang Khi _ CT0754M038

21


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
vào, và chỉ đúng vào cái đêm tình mùa xuân ấy ? Làm sao con ngời đã chôn vùi cả tuổi thanh
xuân trong gian buồng kín mít chỉ có cái lỗ vuông nhỏ mờ mờ trăng trắng kia suốt từng ấy năm
trời, vào đúng đêm ấy lại muốn vùng lên, nảy sinh ý định đi chơi xuân ? Nguyên do là bởi đất trời ?
Quả thực bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng ngời, ngất ngây tâm
hồn tuổi trẻ. Song gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hay sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòa hoa
đẹp cha hẳn đã đủ để làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau
khổ. Cần phải có những tác nhân khác nữa, mạnh mẽ hơn, có sức lôi cuốc Mị ra khỏi hiện tại để Mị
trở về với chính mình của xa xa : phơi phới , trẻ trung, yêu đời.
Tác nhân ấy, theo Tô Hoài trớc hết phải là hơi rợu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rợu,
Mị lén uống từng bát, uống ừng ực rồi say đến lịm ngời đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng
quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi ngời nhảy đồng, ngời hát mà không
nghe, không thấy và cuộc rợu tan lúc nào cũng không hay) nhng lại nhớ về ngày trớc (ngày
trớc, Mị thổi sáo cũng giỏi), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con ngời, vẫn có cái
quyền sống của một con ngời : Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu ngời có chồng cũng

đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau .
Nhng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát
khao hạnh phúc yêu đơng có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình
yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo lúc đầu đã có tình cảm lắm, nhng còn vọng lại từ xa, mãi từ ngoài đầu
núi, và Mị vẫn còn đủ tỉnh táo để để nhẩm theo lời hát. ít lâu sau, tai Mị lại vẳng tiếng sáo, nhng
không còn vẳng từ ngoài đầu núi xa nữa mà là tiếng sáo gọi bạ đầu làng. Rồi đến lúc tiếng sáo
không chỉ là gọi bạn. Nó gọi bạn yêu. Và nó lửng lơ bay ngoài đờng, nh tình ai không thể tan,
nh lòng ai đợi chờ, hờn trách. Để rồi cuối cùng tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng
lòng của ngời thiếu phụ.
Tô Hoài đã đặt Mị trong sự tơng giao giữa một bên là sức sống tiềm tàng với một bên là
cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng
phơi phới nhng Mị vẫn theo quán tính bớc vào buồng, ngồi xuống giờng, trông ra cái lỗ vuông
mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là đợc chết ngay đi.
Nhng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn
chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo
giác: Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động nh một
kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã
làm nh trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bớc vào, không nghe thấy A Sử hỏi.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bác đi chơi, bỏ
mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang
bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của
đời thực cha thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn
khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bớc theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa đợc. Nhng
nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa
cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ,
gãi chân. Nhng bây giờ thì theo chiều ngợc lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng
hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trớc.
Nhng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng
nh Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính
tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đa A Phủ trở thành con ở gạt

nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một ngời con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn
bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thơng đó đã đánh
thức lòng thơng cảm trong con ngời Mị. Nhng tình thơng đó không phải tự nhiên bùng phát
trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy
hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trớc mắt: A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi.
Câu văn nh một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bớc ngoặt bắt đầu từ những dòng nớc


Trn Quang Khi _ CT0754M038

22


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
mắt : Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nớc mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen. Và
giọt nớc mắt kia là giọt nớc cuối cùng làm tràn đầy cốc nớc. Nó đa Mị từ cõi quên trở về với
cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nớc mắt chảy
xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi đợc. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nớc mắt của A Phủ, đã
giúp Mị nhớ ra mình, xót thơng cho mình.
Và đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có
ngời nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thơng mình, Mị dần dần có tình thơng với A Phủ, tình
thơng với một con ngời cùng cảnh ngộ. Nhng nó còn vợt lên giới hạn thơng mình: Mình là
đàn bà chỉ còn biết đợi ngày rũ xơng ở đây thôi còn ngời kia việc gì mà phải chết. Mị cởi trói
cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con ngời nh đợc thổi bùng
lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị nh tìm lại đợc con ngời thật, một con
ngời còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị, A Phủ với tất cả lòng yêu thơng, thông cảm, và chỉ có
lòng yêu thơng thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con
ngời ham sống nh Mị, nh A Phủ.
III .Kết thúc vấn đề.

Vợ chồng A Phủ là bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép đối với những thế lực phong kiến,
thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày ngời dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định
khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những ngời lao động. Đặc biệt đề cao
sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những ngời lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức
sống và sự vững vàng trớc thời gian của Vợ chồng A Phủ.
Bài 12. Vợ nhặt
Kim Lân
Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám không chỉ giầu tính chiến đấu mà còn giầu
tính nhân đạo. Hai tính chất này không tách rời nhau, luôn gắn bó khăng khít và hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Vợ nhặt của Kim Lân đợc hoàn thành vào thời gian sau năm 1955, trên cơ sở một bản
thảo cũ viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Khoảng cách mơi năm ấy đã giúp nhà văn thể
nghiệm sâu sắc t tởng của tác phẩm, làm cho nó trở thành một tác phẩm mang những giá trị nhân
đạo hết sức sâu sắc và phong phú.
Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn đói tràn tới.
Anh cu Tràng, một ngời vô t, vui tính, đợc trẻ con yêu mến mà nay đi từng bớc mệt mỏi,
cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trớc. Các lều chợ đầy những ngời đói bồng bế, dắt díu nhau
xanh xám nh những bóng ma. Nạn đói tràn đến đang gieo rắc cái chết và xóa mất sinh khí của
xóm làng. Hình nh không ai tin mình có thể sống qua nạn đói, và chính cái đói đã làm mất đi
nhân cách con ngời nh ngời đàn bà mà Tràng gặp. Giữa lúc ấy thì Tràng nhận ngời đàn bà kia
làm vợ. Ngời ta thờng nói cái đói làm cho con ngời trở nên mất giá. Cô gái theo Tràng chỉ vì
một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc làm cỗ cới. Nhng đó không phải là cách nhìn của nhà văn.
Với cái nhìn nhân đạo, nhà văn nhìn thấy khát vọng sống còn bức thiết của cô gái. Ông cũng thấy
niềm khát khao có đợc vợ của anh cu Tràng. Anh cũng liều lĩnh tắc lỡi: Kệ, cứ đón cô ta về đã.
Lòng yêu thơng, trân trọng của tác giả đối với những ngời bất hạnh thể hiện ở cảnh dắt díu nhau
về làng của cả hai ngời. Nhà văn không hề có chút rẻ rúng nào khi miêu tả cuộc về làng của họ.
Trái lại ngòi bút tơi vui, dí dỏm, tinh tế khắc họa mọi cảm nhận hạnh phúc của Tràng. Hơn hai
mơi lần truyện ngắn nhắc đến nụ cời của Tràng với nhiều sắc thái khác nhau. Đi bên thị, anh
quên đi cảm giác ê chề, tăm tối của cuộc sống hàng ngày. Đó là gì nếu không phải do anh đã thấy ở
cô gái một nguồn ấm áp tơi sáng tỏa rạng đời mình. Về cô gái cũng vậy, cô không hề có một chút
mặc cảm thân phận bị nhặt. Bên cạnh dáng vẻ thẹn thùng của nàng dâu mới về nhà chồng, cô vẫn

chế giễu Tràng bé lắm đấy, khi thì phết vào lng anh và khoặm mặt lại với anh, khi thì mắng là
khỉ gió Cô vẫn cảm thấy mình có đủ sức mạnh đối với phái mạnh nh bất cứ một cô gái bình


Trn Quang Khi _ CT0754M038

23


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
thờng nào khác. Họ thực sự hớng về nhau, thích thú nhau nh mọi đôi tình nhân khi bắt đầu làm
quen.
Điều thú vị là tác giả đã để cho hai ngời dắt díu nhau diễu qua trớc mặt dân làng. Rõ ràng
sự kết hợp của họ đem lại sinh khí cho cái làng đầy tử khí. Trẻ con thì gào lên Chông vợ hài.
Ngời trong xóm thì những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì
lạ lùng và tơi mát thổi vào cuộc sống đói khát , tăm tối ấy của họ. Họ không hiểu nổi, họ thở dài,
họ nín lặng, bởi vì họ đang tuyệt vọng. Sự kết hợp liều lĩnh của Tràng và cô gái là một thách thức
quyết liệt của khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc trớc mọi ý thức tuyệt vọng và tê dại vù nạn
đói, và không phải không có tác dụng làm cho tâm hồn họ rạng rỡ hơn. Nhà văn nh hoàn toàn
khẳng định sự sống và ý chí sống còn của con ngời, trân trọng và yêu mến hành động liều lĩnh của
họ trong đoạn văn này.
Nhng t tởng chủ đạo của tác phẩm không chỉ có thế. Qua cuộc gặp gỡ với ngời mẹ và
sau một đêm trở thành vợ chồng, nhà văn khẳng định tình yêu cuộc sống sẽ thắng đợc chết chóc,
cuộc sỗng sẽ thay đổi.
Bà mẹ trớc nạn đói cũng thất vọng và hoài nghi nh mọi ngời biết rồi chúng nó có nuôi nổi
nhau qua đợc cơn đói khát này không, bà cũng thở dài. Nhng bà là mẹ, bà thấy sự nhặt vợ
cũng là may, nên bà mừng lòng, bà nuôi hi vọng cho đôi trẻ. Bà mẹ nhìn con dâu lòng đầy thơng
xót, không chút coi thờng. Bà nghĩ đến việc phải có dăm ba mâm cho phải lẽ, chứng tỏ trong lòng
bà không vớng ý nghĩ nhặt không ngời đàn bàcho con mình. Đó là tình cảm nhân đạo có tác
dụng nâng cao phẩm giá con ngời. Có thể nói Kim Lân chọn tình huống nhặt vợ, một tình

huống con ngời bị đánh mất phẩm giá trong mắt mọi ngời ngoài cuộc để nâng niu, khẳng định
phẩm giá của họ, những ngời trong cuộc.
Sau một đêm thành vợ chồng tại ngôi nhà nát, sáng hôm sau vẫn trong cơn đói khát, nhng
một không khí đầy sinh khí đã đến với tất cả mọi ngời. Ngôi nhà sạch sẽ, gọn gàng, ang nớc đầy
ắp, ngời vợ trở nên hiền hậu đúng mực, còn Tràng thì: bỗng dng hắn thấy thơng yêu gắn bó
với cái nhà của hắn lạ lùng,Bây giờ hắn mới thấy hắn nên ngời. Một niềm tin vào tơng lai
gieo vào lòng mọi ngời: Hình nh ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề
nếp thì cuộc đời họ sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. Cha bao giờ trong nhà này, mẹ con
lại đầm ấm, hòa hợp nh thế. Nhng bữa ăn ngày đói đa họ trở lại với hiện tại đói khổ, mặc dù
trớc đó họ luôn nói chuyên tơng lai với những khát khao hạnh phúc, để họ nhận thức đợc muốn
tồn tại phải hành động và Việt Minh là cánh cửa đa họ tới ớc mơ tơi sáng ngày mai, dù hiện tại
trong suy nghĩ của Tràng, Việt Minh vẫn còn xa vời và đã có lúc Tràng chạy trốn Việt Minh bởi ở
Tràng vẫn còn tồn tại hố sâu ngăn cách về nhận thức.
Mở đầu tác phẩm là một tình huống truyện độc đáo, tình huống Tràng cới vợ khác với tập
tục truyền thống. Cốt truyện thay đổi theo sự vận động của những tâm hồn ham sống và cái tất yếu
phải đến là sự vùng lên giải thoát của những thân phận đau khổ. Mặc dù hiện tại nhà văn cha nói
đến sự giác ngộ cách mạng của gia đình Tràng.
Tóm lại tác phẩm là một truyện ngắn chứa chan tình cảm nhân đạo. Nó khẳng định sức
sống tiềm tàng trong mỗi con ngời và khát vọng hạnh phúc không gì có thể vùi lấp nổi. Đó là một
t tởng nhân đạo mới mẻ, đầy tính chiến đấu.
Bài 13. Tiếng hát con tàu
Chế Lan Viên
I . Đặt vấn đề.
Tiếng hát con tàu đợc Chế Lan Viên viết năm 1960 và in trong tập ánh sáng và phù sa.
Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi, vừa mới trải qua thời kì khôi phục
kinh tế, bắt đầu bớc vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Hoàn cảnh đặc biệt đó đã làm nảy sinh
trong giới văn nghệ sĩ một ý thức nghệ thuật gắn liền với công cuộc xây dựng cuộc sống mới của
nhân dân, tự nguyện đi đến những vùng miền khó khăn của đất nớc, hòa nhập vào cuộc sống của
nhân dân bởi chỉ có nh vậy mới tìm lại niềm hạnh phúc, mới tìm thấy ngọn nguồn cảm xúc sáng



Trn Quang Khi _ CT0754M038

24


Ti Liu ễn Thi Mụn Vn Hc
tạo nghệ thuật.
II . Giải quyết vấn đề.
Tiếng hát con tàu không đơn thuần chỉ là một bài thơ lấy sự kiện chính trị làm điểm xuất
phát và tập trung thể hiện t tởng chủ đạo là cổ vũ động viên thanh niên lên đờng xây dựng Tổ
quốc. Bài thơ còn là tấm lòng của những ngời gắn bó sâu nặng nghĩa tình với nhân dân, với đất
nớc. Lời mời gọi lên Tây Bắc trở thành lời giục giã, lời mời gọi những tâm hồn hãy đến với đời
sống cần lao và rộng lớn của nhân dân. Từ một vấn đề thời sự, bài thơ đã mở ra những suy tởng về
cuộc sống, về nghệ thuật.
Nhan đề Tiếng hát con tàu của bài thơ mang tính biểu tợng bởi thực tế cha hề có đờng
tàu và con tàu lên Tây Bắc. Hình tợng con tàu trong bốn câu thơ đề từ là biểu tợng cho tâm hồn
nhà thơ đang khát khao lên đờng, vợt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh đi đến với cuộc đời
rộng lớn. Tây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ địa danh một miền đất xa xôi của Tổ quốc, còn là một
biểu tợng của cuộc sống lớn của nhân dân và đất nớc, là cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ
thuật.
Bài thơ mở đầu bằng một lời mời gọi thiết tha:
Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vầng trăng .
Ta bắt gặp chủ thể trữ tình tự phân thân để đối thoại với chính mình với hàng loạt những câu
hỏi nâng cao dần cấp độ để bộc lộ khát vọng lên đờng. Không chỉ là lời hối thúc bản thân, câu thơ
còn là lời động viên, thuyết phục mọi ngời đi đến với những miền đất lạ xa xôi, hòa nhập vào cuộc
sống rộng lớn của nhân dân. Chế Lan Viên đã mợn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên

đờng của mọi ngời:
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vầng trăng .
Nhà thơ nói với ngời khác và cũng là tự nhủ với chính lòng mình. Cuộc kháng chiến
trờng kì gian khổ đã kết thúc thắng lợi, đất nớc bớc vào công cuộc tái thiết, xây dựng cuộc sống
mới đang rất cần sự đóng góp của mỗi ngời. Cuộc sống lớn đó là ngọn nguồn của mọi sáng tạo
nghệ thuật. Song nghệ thuật không thể nảy sinh khi ngời nghệ sĩ không mở rộng lòng mình đón
nhận tất cả những vang vọng của cuộc đời. Từ sự chiêm nghiệm về cuộc đời thơ của chính mình,
Chế Lan Viên đã đa ra những lời khuyên đầy tâm huyết: hãy đi ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình
mà hòa nhập với mọi ngời, hãy vợt ra khỏi chân trời của cái tôi nhỏ bé để đến với chân trời của
tất cả. Đi theo con đờng ấy, có thể tìm kiếm đợc nghệ thuật chân chính và gặp đợc tâm hồn của
chính mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân:
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ Chế lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tởng, khao
khát lên đờng, hăm hở say sa, háo hức trong hành trìng trở về với cuộc đời rộng lớn, về với nhân
dân. Khát vọng đến với cuộc sống rộng lớn, đến với nhân dân trở thành cảm hứng, tình cảm chân
thành của nhà thơ. Khát vọng ấy đã một lần vang lên trong thơ ông:
Ôi chim én có bay không, chim én ?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
ở đâu cha đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.
Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, khát vọng lên đờng ấy mỗi lúc càng đợc bộc lộ cụ thể
hơn, say mê hơn và rạo rực hơn: Khi lòng ta đã hóa những con tàu, Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh
vội. Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga, Mắt ta nhớ mặt ngời, tai ta nhớ tiếng; Khát vọng ấy
càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết khi có sự gặp gỡ giữa đòi hỏi của nhân dân, đất nớc với


Trn Quang Khi _ CT0754M038


25


×