Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

vấn đề ô nhiễm chế phẩm hóa học sử dụng trong nông nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.59 KB, 89 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 ĐĂT VẤN ĐỀ
Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm của
Việt Nam thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nhưng cũng thuận lợicho sự
phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màn. Do vậy việc sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) để phòng trừ sâu hại, dòch bệnh bảo vệ mùa màng,
giữ vững an ninh lương thực quốc gia vẫn là một biện pháp quan trọng và chủ
yếu. Cùng với phân bón hóa học, thuốc BVTV là yếu tố rất quan trọng để bảo
đảm an ninh lương thực cho loài người
Ngoài mặt tích cực là tiêu diệt các sinh vật gây hại mùa màng, thuốc BVTV
còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như: phá vỡ cân bằng hệ sinh thái đồng
ruộng, gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường sống và ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe người tiêu dùng và cả cho người sản xuất.
Vì vậy, việc tìm hiểu mức độ sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật ở Việt Nam,
ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường sống nhằm bổ sung những
kiến thức đã học và nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ môi trường sống cho
cộng đồng là rất cần thiết đối với những sinh viên ngành môi trường.
1.2 MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
Tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật và vấn đề ô
nhiễm các chế phẩm hóa học sử dụng trong nông nghiệp Việt Nam.
Đề xuất và biện pháp khắc phục.
1.3 NỘI DUNG KHÓA LUẬN
- Giới thiệu chung về thuốc BVTV và phân hóa học.
- nh hưởng của thuốc BVTV và phân bón hóa học.
- Tình hình sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật tại Việt Nam.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 1
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

- Một số kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học


ở vùng trồng rau của thành phố Hồ Chí Minh.
- Kết luận và kiến nghò..
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với thời gian và phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, đề tài chủ yếu là
thu thập tổng quan tài liệu và điều tra bổ sung thêm tình hình sử dụng thuốc trừ
sâu và phân bón hóa học trên một vài cây trồng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Việc điều tra tiền hành bằng cách phỏng vấn nông dân và ghi lại số lần
phun thuốc, loại thuốc, thời gian cách ly của thuốc trên các loại cây trồng.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ PHÂN BÓN
2.1.1. Sự ra đời của thuốc bảo vệ thực vật
2.1.1.1. Khái niệm về thuốc bảo vệ thực vật
Thuốc BVTV là những hợp chất độc nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp hóa
học được dùng để phòng và trừ sâu, bệnh, cỏ dại, chuột… hại cây trồng và nông
sản (được gọi chung là sinh vật gay hại cho cây trồng). Thuốc bảo vệ thực vật
gồm nhiều nhóm khác nhau, gọi theo tên nhóm sinh vật hại, như thuốc trừ sâu
dùng để trừ sâu hại, thuốc trừ bệnh dùng để trừ bệnh cây… trừ một số trường hợp
còn nói chung mỗi nhóm thuốc chỉ có tác dụng đối với sinh vật gây hại thuộc
nhóm đó. Thuốc BVTV nhiều khi còn gọi là thuốc trừ hại (Pesticide) và khái
niệm này bao gồm cả thuốc trừ các loại ve, rệp hại vật nuôi và trừ côn trùng hại
cây, thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng.
2.1.1.2. Trên thế giới
Khi con người bắt đầu canh tác nông nghiệp và có sự đấu tranh với dòch hại để
bảo vệ mùa màng thì một số biện pháp phòng trừ dòch hại đã hình thành. Chính vì
vậy, lòch sử của thuốc BVTV có từ rất lâu đời (cách đây khoảng 10.000 năm).
Vào thời kỳ năm 2500 BC (trước Công nguyên), hợp chất lưu huỳnh được sử
dụng để diệt côn trùng và nhện.

Năm 1500 BC, có hợp chất để diệt bọ chét trong nhà.
Năm 1200 BC, Trung Quốc đã có thuốc xử lý hạt giống.
Năm 900 AD (sau Công nguyên), người ta dùng arsenic sulfides để trừ côn
trùng trong vườn.
Thế kỷ thứ IV, người ta đã biết xử lý hạt lúa bằng Arsen trắng.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 3
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ cách mạng nông nghiệp
ở châu Âu. Sản xuất nông nghiệp tập trung và năng suất cao hơn, đồng thời tình
hình dòch hại càng nhiều hơn xảy ra trong phạm vi toàn thế giới. Một số thuốc trừ
sâu, dòch hại, diệt hại phổ biến ở cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, chủ yếu là chất
vô cơ như Arsen, Selenium, Antimony, Sulfur… hoặc một số chất thảo mộc vốn có
chất độc. Song thời bay giờ chưa ai biết được đến độc hại của nó.
Từ đầu thế kỷ XX, xuất hiện một biện pháp trừ sâu hại tích cực hơn và hiêu
quả hơn. Đó là sự ra đời củ DDT thuộc nhóm Clor hữu cơ vào năm 1939, và liên
tục sau đó ra đời nhiều các hợp chất hóa học khác. Đây là hợp chất đầu tiên trong
chuỗi thuốc trừ sâu được khám phá, nó tiêu diệt được một số lượng lớn côn trùng.
Trong suốt 25 năm sau đó, nó được xem như là vò cứu tinh của nhân loại, giúp
diệt trừ côn trùng và tăng sản lượng nông sản. Chu trình sản xuất cũng tương đối
rẻ nên nó được áp dụng phổ biến rộng rãi ở mọi nơi trên thế giới.
- Năm 1940, người ta tổng hợp nên các hợp chất có hốc lân hữu cơ.
- Năm 1947, người ta tổng hợp nên hóa chát Carbamate.
- Năm 1970 phát triện được các loại thuốc Pyrethroide.
Hiện nay, thuốc trừ sâu tồn tại 3 thế hệ, tính độc hại của thế hệ sau thường
thấp hơn thế hệ trước.
Thuốc trừ sâu thế hệ thứ nhất thường là thuốc chiết từ chất Nicotin, hay
Pyrethrum chiết từ một loại cúc khô, những chất vô cơ như phèn xanh, thạch tín…
Thuốc trừ sâu thế hệ thứ 2 là tổng hợp các chất hữu cơ: DDT, 666, Wofatox…
(xuất hiện vào thập niên 40).

Thuốc trừ sâu thế hệ thứ 3, xuất hiện vào những năm 70 và 80 như gốc lân
hữu cơ, Cardbamate và sự ra đời của Pyrethroide, thuốc sinh học.
2.1.1.3. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, việc sử dụng thuốc BVTV chỉ phổ biến từ thế kỷ thứ XIX.
Trước đó, việc việc diệt trừ sâu, bệnh chủ yếu bằng phương pháp bắt sâu hay
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 4
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

biện pháp mang tính mê tín, bùa phép.
Đầu thế kỷ 20, khi nền nông nghiệp Việt Nam bắt đầu phát triển đến một mức
nhất đònh, hình thành nên các đồn điền, trang trại nông nghiệp lớn thì việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật bắt đầu gia tăng. Trong thời kỳ này, Việt Nam cũng
sử dụng chủ yếu các hợp chất hóa học vô cơ như các nước trên khu vực và trên
thế giới.
Từ những năm 50, Việt Nam chỉ sử dụng một số thuốc bảo vệ thực vật như
DDT, Lindan, Oarathion-ethyl, Polyclorocamphene…
Tình hình sử dụng thuốc BVTV ở Việt Nam có những bước chậm hơn so với
các nước phát triển. Thập niên 70 và 80 Việt Nam còn sử dụng hợp chất hóa học
gốc Clor hay gốc phosphor hữu cơ (DDT thuộc nhóm clor hữu cơ, Metyl
Parathion, Monocrophos thuộc nhóm lân hữu cơ, Furadan thuộc nhóm Carbamate)
thì các nước phát triển đã ngưng sử dụng các loại hợp chất này. Ví dụ như ở Mỹ
đã cấm sử dụng DDT từ năm 1992, mãi đến năm 1993 Việt Nam mới có lệnh
cấm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nhóm Clor hữu cơ.
2.1.2. Sự ra đời của phân bón hóa học
Hơn một trăm năm qua người ta tổng kết thấy rằng năng suất cây trồng tăng
vọt lên nhờ phân bón đạt trên 50%. Vai trò của phân bón bằng tất cả các biện
pháp khác cộng lại như thời vụ trồng, làm đất, luân canh, giống, tưới tiêu. Nước ta
ở vùng nhiệt đới đới, nhiều ánh sáng, nhiệt độ cao, mưa nhiều do đó bón phân là
biện pháp cơ bản để tăng năng suất cây trồng và độ phì nhiêu của đất.
2.1.2.1. Trên thế giới

Trong những năm qua, sự tiêu thụ PBHH trên thế giới tăng rất nhanh. Trong
đó, tăng nhiều nhất là đạm, kế đến là phân lân, phân kali tăng chậm hơn so với
các loại khác.
Năm 1973 mức tiêu thụ phân đạm là 38,9 triêu tấn/năm, đến năm 1981 tăng
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 5
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

60,3 triệu tấn/năm (bình quân hằng năm tăng 5,6%)
Năm 1973, mức tiêu thụ phân lân trên toàn thế giới là 24,2 triệu tấn; năm
1983 là 31,9 triệu tấn (bình quân mức tiêu thụ hằng năm tăng 2,8%)
Mức tiêu thụ phân kali trong những năm gần nay tăng chậm, năm 1973 tiêu
thụ 120,75 triệu tấn (bình quân hằng năm tăng 2,2%).
Tổng lượng PBHH tiêu thụ tăng từ khoảng 69 triệu tấn năm 1970 lên khoảng
146 triệu tấn năm 1990, nghóa là tăng gấp 2 lần. Tỷ lệ tiêu thụ ở các nước đang
phát triển cao hơn nhiều (360%) so với nước phát triển (61%), thế nhưng lượng
phân bón sử dụng cho 1 ha ở các nước phát triển lại cao hơn so với nước đang
phát triển.
Trong sử dụng phân bón thì số lượng và tỷ lệ N, P, K giữa các khu vực có sự
khác nhau rõ rệt. Các nước phát triển năm 1982 sử dụng bình quân 51 kg N; 31 kg
P
2
O
5
, 28 kg K
2
O (tổng số là 110 kg phân bón nguyên chất cho 1 ha đất canh tác).
Tỉ lệ N: P: K sử dụng là 1: 0,6: 0,54. các nước đang phát triển bình quân bón 33
kg N, 12 Kg P
2
O

5
, 4 Kg K
2
O, tỉ lệ sử dụng N: P: K là 1: 0,36: 0,12 (tổng số phân
bón cho 1 ha đất canh tác là 49 Kg phân bón nguyên chất).
2.1.2.2. Ở Việt Nam
Việt Nam là nước nông nghiệp trồng lúa nước, nhưng mãi đến những năm 50
của thế kỷ này thì mới bắt đầu làm quen với PBHH. Tuy vậy, độ sử dụng PBHH ở
Việt Nam mỗi năm mỗi tăng. Năm 1980 cả nước sử dụng 500.000 tấn phân đạm
(qui về đạm tiêu chuẩn) và trên 200.000 tấn phân lân (qui về super photphat đơn);
đến năm 1990 đã sử dụng 2,1 triệu tấn phân đạm và 650.000 phân lân. Mức sử
dụng chất dinh dưỡng cho cây trồng là thấp và không cân đối, mức sử dụng phân
lân và phân kali khá ít, tỷ lệ trung bình dinh dưỡng của thế giới hiện nay là N:
P2O5: K2O = 1: 0,47: 0,36; đối với các nước đang phát triển hiện nay tỷ lệ này là
1: 0,37: 0,17; còn Việt Nam mới đạt 1: 0,23: 0,04. Mức độ sử dụng phân bón khác
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 6
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

nhau theo các đòa giới hành chánh nên năng suất cây trồng của Việt Nam còn
thấp so với các nước trong khu vực.
Bảng 2.1: Tiêu thụ phân hóa học ở Việt Nam
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 7
Năm tiêu thụ N + P
2
O
5
+ K
2
O
(kg/ha)

1976 17,6
1980 15,6
1985 51,5
1990 65,3
1991 75,3
1992 68,9
1993 74,3
1994 99,2
1995 87,0
1995 so với năm 1976 494,3
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

2.2. PHÂN LOẠI THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ PHÂN BÓN
2.2.1. Phân loại thuốc bảo vệ thực vật
Hiện nay, thuốc BVTV rất đa dạng và phong phú về cả chủng loại và số lượng,
tuy nhiên có thể phân loại thuốc BVTV theo các hướng sau
2.2.1.1. Phân loại theo nhóm chất hóa học
- Gốc Clor hữu cơ:
Thành phần hóa học có chất clo là những dẫn xuất Clorobenzen (DDT),
Cyclohexan (BHC) hoặc dẫn xuất đa vòng (Aldrin, Dieldrin). Các loại thuốc
thuộc nhóm này đã đưa vào danh mục các loại bò cấm sử dụng ở Việt Nam vì tính
độc hại của nó rất cao.
- Gốc phosphor hữu cơ (lân hữu cơ):
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 8
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Từ những năm 40 và 50 các thuốc BVTV có gốc lân hữu cơ bắt đầu được
sử dụng. Dẫn xuất từ các acid phosphoric, trong công thức có chứa P, C, H, O, S…
có khả năng diệt trừ các loại sâu bệnh và một số thiên đòch.
- Carbamate:

Các Cardbamate là dẫn xuất của axit cabamic, tác dụng như lân hữu cơ ức chế
men cholinesterase. Thuốc có 2 đặc tính tốt là ít độc (qua da và miệng) đối với
động vật có vú và khả năng tiêu diệt côn trùng rộng rãi. Nhiều Carbamate là lưu
dẫn dễ hấp thụ qua lá, rễ, mức độ phân giải trong cây cây trồng thấp, tiêu diệt
tuyến trùng mạnh mẽ. Nhìn chung nhóm này có độc chất thấp, cơ thể cũng có thể
phục hồi nhanh hơn nếu bò nhiễm độc.
- Pyrethroid và Pyrethrum (Cúc tổng hợp):
Pyrethrum được chiết xuất từ cây hoa cúc, công thức hóa học phức tạp, diệt
sâu chủ yếu bằng đường tiếp xúc và vò độc tương đối nhanh, dễ bay hơi, tương đối
mau phân hủy trong môi trường và thường không tồn tại trong nông sản. Rau màu
và cây ăn trái khi phun Perythrum có thể dùng được vài ngày hôm sau.
2.2.1.2. Phân loại theo nguồn gốc
- Vô cơ
- Thảo mộc
- Hữu cơ tổng hợp: Clo hữu cơ, Phospho (lân) hữu cơ, Carbamate, Pyrethroid
- Các chất điều hòa tăng trưởng (Growth Regulator) côn trùng.
- Vi sinh vật: Nấm (Fungus), Vi khuẩn, (Bacteria), Virus Protozoa (động vật
đơn bào)
2.2.1.3. Phân loại theo con đường xâm nhập
- Các thuốc lưu dẫn: Furadan, Aliette…
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 9
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

- Các thuốc tiếp xúc: Sherpa, Cypermethrin, Sumialpha…
- Các thuốc công hơi: Methyl Bromide, Chloropicrin…
Tuy vậy vẫn còn nhiều thuốc có một đến ba con đường xâm nhập
2.2.1.4. Phân loại theo tính độc của thuốc
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) trực
thuộc Liên Hợp Quốc phân loại độc tính của thuốc như sau:
Bảng 2.2: Phân loại độc tính thuốc bảo vệ thực vật của tổ chức Y tế thế giới

và tổ chức Nông Lương Thế Giới
Loại độc
LD50 (chuột)(mg/kg thể trọng)
Đường miệng Đường da
Chất rắn Chất lỏng Chất rắn Chất lỏng
Ia: Cực độc ≥5 ≥20 ≥10 ≥40
Ib: Rất độc 5-50 20-200 10-100 40-400
II: Độc vừa 50-500 200-2.000 100-1.000 400-4.000
III: Độc nhẹ >500 >2.000 >1.000 >4.000
IV Loại sản phẩm không gây độc cấp khi sử dụng bình thường
(Nguồn: Asian Development Bank,1987)
2.2.1.5. Đặc tính sinh, hóa học của một số nhóm thuốc bảo vệ thực vật
a. Nhóm Clo hữu cơ
Nhóm Clo hữu cơ bao gồm những hợp chất hóa học rất bền vững trong môi
trường tự nhiên đất và nước, với thời gian bán phân hủy rất dài, được xếp vào loại
độc tính loại I và loại II. Các chất này tích lũy trong chuỗi thức ăn của hệ sinh
thái, trong các mô dự trữ của sinh vật và rất ít được đào thải ra ngoài. Hợp chất
này rất bền vững trong tự nhiên như kim loại nặng. Trong nhóm Clo hữu cơ có
các nhóm thuốc sau:
- Nhóm DDT và các chất liên quan
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 10
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Nhóm này có các đại diện như DDT, DDD (TDE), Methoxychlor, Ethylen,
Dicofol, Chorobenzilate. Hai đặc tính cơ bản của DDT và chất chuyển hóa của nó
DDE là:
Bền vững trong môi trường, không bò phân hủy bởi vi sinh vật, men, nhiệt, và
UV.
Tích lũy và phóng đại sinh học trong chuỗi thực phẩm, chủ yếu tích lũy trong
mô mỡ động vật.

Các thuốc nhóm này có tính độc thần kinh, phá hủy sự can bằng muối và kali
trong sợi trục tế bào thần kinh, làm chúng không chúng không còn dẫn truyền
thần kinh được nữa. Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử dụng DDT
và hạn chế Dicofol (Kenthal) vào tháng 5 năm 1996.
- Hecxachlorcyclohexan (HCH)
Hecxachlorcyclohexan (HCh, 666) hay còn gọi là Benzenhexachloride (BHC)
được biết tới từ nằm 1825, nhưng mãi đến name 1940 mới được dùng như thuốc
diệt côn trùng. Chất này có nhiều đồng phân (alpha, beta, gamma, delta, epsilon).
Trong hỗn hợp bình thường của các đồng phân, gamma BHC chiếm 12%. Về sau,
người ta chế tạo được Lindane với 99% BHC
Thuốc BHC thường lưu lại mùi trên sản phẩm nhưng do giá rẻ nên vẫn còn
được sử dụng ở các nước thuộc Thế giới thứ 3. Lindane không mùi, bay hơi
nhanh, gay độc thần kinh, gây run rảy, co giật và cuối cùng là suy kiệt
Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử dụng Lindane và BHC vào
thánh 5 năm 1996.
- Các Cyclodiens
Các thuốc trong nhóm Cyclodien được chế tạo vào những năm Thế chiến thứ
II gồm có: Chlodan (1945); Aldrin, Dieldrin (1948); Heptachlor (1949); Endrin
(1951); Merix (1954); Endosulfan (1956); và Chlordecone (1958). Còn có một số
khác ít quan trọng hơn như: Isodrin, Alodan, Bromodan, Telodrin.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 11
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Nhìn chung, các cyclodien là những chất bean vững trong đất và khá bean
trước tác động của UV và ánh sáng nhìn thấy. Do đó, chúng được dùng phổ biến
ở dạng thuốc xử lý vào đất để trừ mối và các côn trùng đất có giai đoạn ấu trùng
ăn phá rễ non. Các thuốc nhóm này rẻ, khả năng tiêu diệt bền bỉ nên được ưa
chuộng trước nay. Tuy nhiên, hiện nay côn trùng đất đã phá triển tính kháng
thuốc với chúng, do đó mức tiêu thụ sau đó ít dần. Riêng ở Mỹ, từ năm 1975 –
1980 cơ quan Bả-o vệ Môi Trường đã cấm dùng nhóm này. Riêng Aldrin và

Dieldrin còn tiếp tục dùng trừ mối thì đến năm 1984 cũng đưa vào danh mục cấm,
riêng Chlordane và Heptaclor cũng bò cấm từ năm 1998.
Các thuốc cyclodien gay độc thần kinh tương tự DDT và HCH, chúng cũng
làm rối loạn sự cân bằng muối và kali trong các nơ-ron nhưng theo một cách khác
so với DDT và HCH. Trong nhóm này, nhà nước Việt Nam đã cấm sử dụng
Aldrin, Dieldrin, Endrin. Chlordane, Heptachlor, Isodrin, và hạn chế Endosulfan
vào tháng 5 năm 1996.
- Các Polycholorterpene
Nhóm Polychlorterpene chỉ có 2 chất là Toxaphene (1947) và Strobane 1951).
Trong nông nghiệp, Toxaphene được dùng rất nhiều, dùng ở dạng đơn độc hoặc
phối hợp với DDT hoặc Metul Parathion. Toxapehe là hỗn hợp gồm 177 chất dẫn
xuất clohoa1 của hợp chất 10 cardbon. Thành phần cực độc của hỗn hợp
Toxaphene này là Toxacant A, chỉ chiếm 3% trong hỗn hợp kỹ thuật. Chất này
độc gấp 18 lần trên chuột, 6 lần trên ruồi và 36 lần trên cá vàng so với hỗn hợp
Toxaphene kỹ thuật.
Các loại thuốc này lưu lại trong đất nhưng không bằng Cyclodiene, và thường
biến mất khỏi bề mặt thực vật sau khi phun thuốc hai hay ba tuần. Sự mất đi chủ
yếu là do bay hơi hơn là do biến dưỡng hoặc quang phân giải. Thuốc dễ bò biến
đổi trong cơ thể động vật hoặc loài chim, không tồn lưu trong mô mỡ. Tuy ít độc
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 12
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

cho côn trùng, động vật có vú và chim, thuốc lại rất độc đối với cá (tương tự như
Toxaphene). Cơ chế gay độc cũng tương tự như Cylodiene.
Ở Mỹ, Toxanphen đã bi cấm vào năm 1993. Trong nhóm này, Việt Nam đã
cấm sử dụng Toxphene và Strobane vào tháng 5 năm 1996.
b. Nhóm Phospho hữu cơ
Nhóm thuốc trừ sâu này gây tác động đến hệ thần kinh và ngộ độc cấp tính rất
mạnh mẽ, làm ngăn cản sự hình thành của các men cholinestera làm thần kinh
hoạt động kém, teo cơ, gây choáng váng và tử vong. Phosphor hữu cơ có độ phân

giải rất nhanh, không tích lũy trong cơ thể sinh vật nhưng ngược lại có thể gây
ngộ độc cấp tính và nguy hiểm, dễ dàng gây tử vong đối với người khi bò nhiễm
thuốc với liều lượng nhỏ và nhất là đối với một số loài chân đốt và các loài thủy
sinh như cá, loài hữu nhũ, chim…
Nhóm này dễ bò thủy phân hơn nhóm clor hữu cơ nên khó xác đònh được
tồn tại của nó trong môi trường nước. Phosphor hữu cơ được sử dụng nhiều nhất
(90% khối lượng, trong khi đó Clor hữu cơ chỉ chiếm có 5%). Các chất này được
xếp vào loại độc Ia và Ib. độc tính nhất là Systox kế đến là Thinoc, Wofatox
Thiphos. Wofatox được đánh giá là độc hơn so với DDT (gấp hàng chục lần).
Nông dân thường dùng Methamidophos để phòng trừ sâu cuốn lá, sâu phao, sâu
keo và sâu đục thân.
Trong những năm gần đây, các loại Methyl Parathon, Azodrin,Dichlorvos,
Methamidophos (Monitor), Monocrotophos, DIcrotophos, Phosphamidon cũng đã
được đưa vào danh mục cấm sử dụng. Do độc tính cao, với mức dư lượng cao
thuốc trừ sâu nhóm phosphor hữu cơ thường gây ra các vụ ngộ độc do sử dụng
thực phẩm, rau màu…
Các thuốc phosphor hữu cơ được chia làm 3 nhóm dẫn xuất: Aliphatic, Phenyl
và Heterocylic:
- Các dẫn xuất của Aliphatic
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 13
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Tất cả các dẫn xuất của Aliphatic là những dẫn xuất của acid phosphoric
mang chuỗi cacbon thẳng. Chất phospho hữu cơ đầu tiên được dùng trong nông
nghiệp từ năm 1946 là TEPP. Loại thuốc này dễ thủy phân trong nước và biến
mất sau khi phun từ 12-24 giờ. Malathion là chất được dùng nhiều nhất, bắt đầu
từ năm 1950. Ngoài phạm vi nông nghiệp, Malathion còn được dùng trong nhà,
trên súc vật và thậm chí trên con người để trừ các loại ký sinh. Malathion thường
được trộn với đường để làm bả tiêu diệt côn trùng.
Monocrotophos là phosphor hữu cơ aliphatic chứa nitrogen. Đó là loại thuốc

lưu dẫn, có độc tính cao đối với động vật máu nóng. Thuốc này hiện vẫn nằm
trong danh mục hạn chế sử dụng của Việt Nam.
Trong số các dẫn xuất aliphatic có nhiều chất khác lưu dẫn trong cây như:
dimethoate, dicrotophos, oxydemetonmethyl và disulfoton. Các loại này, ngoại
trừ dicrotophos bò hạn chế sử dụng, đều có thể dùng trong vườn nhà với dạng
loãng thích hợp.
Dichlorvos là dẫn xuất aliphatic có áp suất hơi lớn, hiện bò hạn chế sử dụng.
Mevinphos là một phospho hữu cơ rất độc nhưng rất mau phân hủy, dùng tốt
cho sản xuất rau thương phẩm. Thuốc này có thể dùng một ngày trước khi thu
hoạch mà không để lại dư lượng trên rau thu hoạch ngày sau.
Methamidophos (hiện đã bò cấm sử dụng) và Acephate là hai phospho hữu cơ
được dùng nhiều trong nông nghiệp, đặc biệt là côn trùng trên rau. Ngoài ra, còn
có các thuốc khác cùng loại là Phosphamidon (Dimecron), Naled (Dibrom) và
Propretamphos (Saprotin).
Sebutos (Apache, Rugby) là loại diệt côn trùng và tuyến trùng hiệu quả trên
bắp, đậu phòng, mía và khoai tây.
Nhìn chung, các dẫn xuất aliphatic đều có cấu trúc đơn giản, độ độc thay đổi
rất nhiều, khả năng hòa tan trong nước cao, có tính dẫn lưu tốt. Một số trong
nhóm này hiện bò hạn chế hoặc cấm sử dụng ở Việt Nam.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 14
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

- Các dẫn xuất Phenyl
Các thuốc nhóm này có một phenyl gắn vào phân tử acid phosphoric, các vò trí
còn lại của phân tử acid phosphoric thường mang các nhóm Cl, NO
2
,CH
3
,CN hoặc
S. các phospho phenyl thường bean hơn các phosphor hữu cơ Aliphatic, do đó dư

lượng trong môi trường cũng cao hơn.
Parathion là một phospho hữu cơ phenyl quen thuộc nhất và là chất phosphor
hữu cơ thừ nhì được đưa vào dùng trong nông nghiệp từ năm 1947 (sau TEPP).
Ethyl Parathion là dẫn xuất phenyl đầu tiên được sử dụng rộng rãi nhưng do quá
độc nên đã bò cấm sử dụng ở Việt nam từ tháng 5 năm 1996 (ở Mỹ cấm từ năm
1991).
Năm 1949 Methyl Parathion (hiện đã bò cấm sử dụng) xuất hiện và tỏ ra ưu
việt hơn Ethyl Parathion ở chỗ nó ít độc cho gia súc và người, đồng thời tiêu diệt
được nhiều côn trùng.Độ tồn lưu của nó cũng ngắn hơn Ethyl Parathion. Có hai
loại dẫn xuất phenyl khác là Profenofos và Sulprofor đều có phổ tiêu diệt rông và
hiện nay được dùng cho các loại hoa khác nhau.
- Các dẫn xuất dò vòng
Trong phân tử, các thuốc dò vòng các cấu trúc vòng có nhiều carbon bò oxygen
hoặc nito thế chỗ. Chất đầu tiên trong nhóm này là Diazinom, xuất hiện năm
1952.Diazinon là một chất tương đối khá an toàn và có nhiều công dụng.
Azinphosmethyl là chất thứ hai ra đời sau Diazinon vừa là thuốc diệt nhện. Các
thuốc khác là Chlorpyrifos, Methidathion, Phosmet và Pirimiphos, Isazophos,
Chlorpyrifos-methyl, azinphod-ethyl, phosalon…
Các phospho hữu cơ dò vòng là những phân tử phức tạp và thường có tính tồn
lưu cao hơn so với các phosphor hưu cơ thuộc nhóm aliphatic và phenyl. Vì phân
tử thuốc dò vòng phức tạp nên khi phân rã sẽ tạo ra nhiều sản phẩm khó có thể
xác đònh hoàn toàn chính xác.
c. Nhóm Carbamate
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 15
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Nhóm này có độ độc cấp tính tương đối cao, khả năng phân hủy tương tự như
nhóm phosphor hữu cơ. Sự chuyển hóa của Carbamate trong cơ thể sinh vật chậm
và đơn giản hơn các chất phosphor hưu cơ. Các chất trung gian trong quá trình
chuyển hóa có độc tính thấp hơn các chất ban đầu nhưng cũng có chất độc hơn.

Nhóm này có tác động trực tiếp vào men cholimestera của hệ thần kinh.
Trong đó, có metyl izoxianat (CH
2
NCO) là chất gây ô nhiễm có thể gây chết
người (đã làm cho toàn thế giới chú ý).
Carbaryl lần đầu tiên được sử dụng thành công vào năm 1956. Thuốc có hại
đặc tính tốt là ít độc (qua miệng và qua da) đối với động vật có vú và tiêu diệt
côn trùng rộng rãi. Nhiều carbamate là chất lưu dẫn dễ hấp thu qua lá và rễ, mức
độ phân giải trong cây thấp. Các thuốc Methomyl, Oxamyl, Aldicarb và
Carbofuran (Carbofuran hiện bò hạn chế sử dụng ở Việt Nam) có đăïc tính lưu dẫn
rất tốt, do đó chúng có khả năng tiêu diệt tuyến trùng mạnh mẽ.Một số
carbamate là: Methiocarb, Trimethacarb (Broot), soprocarb (MIPC,Hytox),
Cloethocarb, Carbosulfan (Avantage), Aldoxycarb (Standak), Promecarb
(Carbamult), Mexacarbate và Fenoxycarb (Logic).
d. Nhóm Pyrethrum và Pyrethroids
Pyrethrum được ly trích từ hoa cây thủy cúc trồng ờ Phi Châu và Nam Mỹ.
Thuốc có độc tính đường miệng LD
50
khoảng 1500 mg/kg và là thuốc diệt côn
trùng xưa nhất. Pyrethrum nhanh chóng làm côn trùng tê liệt, tuy nhiên nếu
không trộn với các thuốc hợp lực thì côn trùng sẽ hợp lực nhanh chóng. Rau và
trái cây sau khi phun Pyrethrum xong có thể ăn được liền ngay ngày hôm sau.
Pyrethrum ít được dùng trong sản xuất nông nghiệp bởi vì giá đắt và không
bean với ánh sáng. Gần nay nhiều chất lượng tương tự Pyrethrum đã được tổng
hợp và gọi là Pyrethroid. Các Pyrethroid bean với ánh sáng và phổ tiêu diệt côn
trùng rộng, sử dụng với liều thấp. Các pyrethroid có 4 thế hệ:
- Thế hệ thứ nhất:
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 16
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai


Thế hệ này chỉ có một chất là Allethrin (Pynamin), được thương mại hóa vào
1949. Allethrin là moat chất tổng hộp giống hệt Cinerin I (là một thành phần của
Pyrethrum) có các day nhánh tương đối ôn đònh và bền hơn Pyrethrum.
Thế hệ thứ hai:
Thế hệ thứ hai gồm có Tetramethrin (Neo-Pynamin) ra đời năm 1965. Thuốc
có tác dụng tiêu diệt nhanh hơn Allethrin và có thể phối hợp dễ dàng với các chất
cộng hưởng (synergist). Resmethrin xuất hiện vào năm 1967, hiệu lực hơn
Pyrethrum gấp 20 lần (thí nghiệm trên ruồi nhà), Bioresmethrin là một chất đồng
phân của Resmethrin hiệu lực hơn Pyrethrum gấp 50 lần. Cả hai chất này đều bền
hơn Pyrethrum nhưng bò phân hủy nhanh chóng trong không khí và ánh sáng, do
đó khó mở rộng sử dụng vào nông nghiệp. Bioallethrin (d-trans-allethrin) được
giới thiệu vào năm 1969, tác dụng mạnh hơn Allethrin và dễ pha trộn với các chất
hợp lực nhưng không hiệu quả bằng Resmethrin. Chất cuối cùng trong thế hệ này
là Phenonthrin (Sumithrin), xuất hiện vào năm 1973, chất này có độc lực trung
bình và hơi tăng hiệu lực khi trộn với các chất hợp lực.
- Thế hệ thứ ba
Thế hệ thứ ba gồm có các Fenvalerate (Pydrin, Tribute) và Permethrin
(Ambush, Dragnet, Pouce, Pramex, Torpedo), xuất hiện vào năm 1972 – 1973.
các chất này dùng nhiều trong nông nghiệp vì có hoạt tính diệt côn trùng cao và
bền với ánh sáng. Thuốc không bởi ảnh hưởng UV và ánh sáng, tồn tại 4 – 7 ngày
trên mặt đá.
- Thế hệ thứ tư:
Thế hệ thứ tư hiện nay có nhiều tính độc đáo, chúng có hiệu lực tiêu diệt với
nồng độ chỉ bằng 1/10 các loại thuốc thế hệ thứ ba. Gồm có các thuốc sau:
Bifenthrin (Talstar), Lamda CYhalothrin (Karate,Force), Cypermethrin (Ammo,
Cymbush, Cynoff), Cyfluthrin (Baythroid), Deltamethrin (Decis), Esfenvalerate
(Asana XL), Fenpropathrin (Danitol), Flucithrynate (Pay-off), Fluvalinate
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 17
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai


(Mavrik, Spur), Tefluthrin, Praleethrin (Eto), và Tralomethrin (Scout). Tất cả
những chất trên đều bền với ánh sáng, rất ít bay hơi nên tồn lưu có thể đến 10
ngày trong điều kiện môi trường thuận lợi.
Các Pyrethroid có tác dụng tương tự DDT là làm hở các kênh muối ở màng tế
bào thần kinh. Các Pyrethroid có hai loại tác dụng: loại I có hoạt tính độc mạnh ở
nhiệt độ thấp, loại II có hoạt tính độc mạnh ở nhiệt độ cao.
e. Nhóm các thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ khác
- Các thuốc lưu huỳnh hữu cơ
Các thuốc lưu huỳnh hữu cơ có phân tử lưu huỳnh trong trung tâm của phân tử.
Chúng tương tự như như DDT ở chỗ có vòng phenyl. Bột rắc lưu huỳnh có tác
dụng trừ nhện, nhấ là vào lúc trời nóng. Các lưu huỳnh hữu cơ có ưu thế hơn, vì
lưu huỳnh kết hợp với phenyl có độc tính rất cao với côn trùng.
- Các thuốc Formamidine
Các thuốc Formamidine là những thuốc mới, có nhiều triển vọng. Ba loại
thuốc tiêu biểu là Chlordimeform, Formetanate và Amitraz. Thuốc có hiệu lực
chống lại sâu non và trứng của nhiều loại sâu hại trong nông nghiệp. Năm 1976,
Công ty Ciba Geigy đã thôi không sản xuất Chlordimeform vì khả năng gây ung
thư trên chuột thí nghiệm của thuốc. Loại thuốc này có giá trò trong việc tiêu diệt
các loại côn trùng đã kháng với thuốc phosphor hữu cơ và Carbamate. Thuốc ức
ch61 men monoamine oxidase làm tích tụ các hợp chất Amine, nay là một cơ chế
tác động mới khác với các thuốc cổ điển.
- Các thuốc Thiocyanates
Các thuốc Thiocyanates chứa gốc SCN trong cấu trúc phân tử (S = thio; CN =
cyanate). Thuốc có cơ chế tác động là cản trở sự hô hấp và biến dưỡng tế bào,
tiêu biểu là Lathane 384 và Thanite.
- Các thuốc Dinitrophenol
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 18
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Các thuốc gốc Dinitophenol chứa một đến hai phenol. Các thuốc chứa hai

phenol có tính độc đối với nhiều sâu hại. Các hợp chất này được dùng làm thuốc
diệt côn trùng, diệt cỏ, diệt trứng sâu và diệt nấm. Tác động của thuốc là chống
sự phosphoryl hóa trong quá trình sử dụng năng lượng từ dưỡng chất trong cơ thể.
Từ năm 1892 đã có chất DNOC (3,5-dinitro-o-cresol) được dùng làm thuốc diệt
côn trùng. Sau đó DNOC còn được dùng làm thuốc diệt cỏ, diệt nấm. Các thuốc
khác là Dioseb, Binapacryl và Dino. Dinoseb có vấn đề về khả năng ảnh hưởng
sức khỏe lâu dài trên người nên đã bò ngưng sản xuất. Dino có mặt từ năm 1949
dùng để diệt nhện và nấm, đã bò ngưng sản xuất từ năm 1987.
Nói chung, các Dinitrophenol được dùng rộng rãi làm thuốc diệt côn trùng,
diệt nấm nấm, diệt cỏ, diệt trứng côn trùng, chất tỉa thưa hoa… nhưng do độc tính
của dinitrophenol, tất cả các thuốc này đều bò ngưng sản xuất và sử dụng.
Bacillus thuringiensis
Bacillus thuringiensis là loại thuốc vi sinh ,dùng vi khuẩn Bacillus
thuringiensis, vi khuẩn này được phát hiện đầu tiên vào năm 1902 tại Nhật trên
con sâu non của tằm (Bombyx mori) đang chết. Vào năm 1938 lần đầu tiên chúng
được dùng dưới tên “Sporien” để diệt sâu non các loài bướm. Cho tới cuối năm
1997 đã có 13 chế phẩm Bacillus thuringiensis được đăng ký sử dụng ở Việt Nam.
Thuốc được sản xuất bằng cách nuôi ủ trong môi trường chứa rỉ đường, bột cá
và một số vi lượng dưới điều kiện kiểm soát chặt chẽ. Vào thời kỳ phóng bào tử,
mỗi vi khuẩn hình que tạo ra một khối glycoproteine trong suốt,miên bào tử và
tinh thể được tách ra bằng phương pháp ly tâm, rồi cho bốc hơi ở nhiệt độ thấp và
làm khô bằng cách phun tinh thể không hòa tan trong nước và không bền trong
nước và không bền trong môi trường kiềm hoặc cho tác động bởi một số men nào
đó.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 19
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Các glycoprotein cao phân tử bò phá hủy bởi dòch tiêu háo tính kiềm của các
côn trùng mẫn cảm, tạo ra các phân tử phá hủy vách trong ống tiêu hóa, làm sai
lệch cân bằng thẩm thấu, gây tê liệt phần miệng và ống tiêu hóa làm sâu không

ăn được. Ở một số loài bào tử nảy mầm trong ống tiêu hóa và gây độc, sau cùng
là làm cho sâu chết vì nhiễm độc máu.
Nhiều dòng Bacillus thuringienses tiết ra một loại nucleotide adenine là beta-
toxin, trong thời kỳ tăng trưởng mạnh, tuy nhiên các dòng này không được thong
mại hóa. Tại Việt Nam chuốc chủ yếu được dùng để trừ sâu sơ trên bắp cải. Sản
xuất thuốc này trong nước gặp khó khăn do trực khuẩn thường làm hư các mẻ sản
xuất.
Bacillus thuringiensis là một thuốc diệt côn trùng gốc vi sinh chỉ có hiệu lực
đối với nhiều sâu non bộ Lepidoptera (cánh vảy). Vì thuốc có tác dụng chuyên
biệt trên sâu non Lepidoptera và an toàn đối với người và thiên đòch của nhiều
loại côn trùng gây hại, cho nên nay là loại thuốc lý tưởng để quản lý tổng hợp
dòch hại. Thuốc không độc đối với cây trồng, không có triệu chứng độc cấp tính
trên chuột, chó và các loại động vật có vú khác, kể cả người. Trên động vật thí
nghiệm thường có phản ứng ngứa nhẹ do hít phải hoặc tiếp xúc với thuốc.
2.2.2 Phân loại phân bón hóa học
Khái niệm: phân bón là chất hữu cơ hay vô cơ có nguồn gốc tự nhiên hay nhân
tạo dùn để bón vào đất làm thức ăn cho cây và cải thiện độ phì nhiêu của đất.
Chúng ta có thể phân loại thành 3 dạng:
2.2.2.1 Phân hữu cơ
Phân hữu cơ là phân chứa những chất dinh dưỡng ở dạng những hợp chất hữu
cơ gồm: phân chuồng (phân heo, trâu, bò, gà), phân xanh, phân than bùn, phụ chế
phẩm nông nghiệp, rác… Tác dụng của phân hữu cơ là giúp tăng năng suất cây
trồng đồng thời chúng nâng cao độ ẩm, độ xốp và độ phì nhiêu trong đất.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 20
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Phân chuồng: Đây là phân hữu cơ chính, được dùng phổ biến ở các nước trồng
luau và những nước công nghiệp hóa học vẫn xem phân chuồng là loại phân quý,
không chỉ làm tăng năng suất cây trồng mà còn làm tăng hiệu lực phân hóa học,
đặc biệt là cải tạo đất vì phân chuồng chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cho cây

như: đạm, lân, kali và cả những yếu tố vi lượng như Bo, Mo, Cu,Mn,Zn, các kích
thích tố như Auxin, Heteroauxin và nhiều loại Vitamin.
Phân xanh: là loại phân hữu cơ sử dụng các loại lá cây tươi bón ngay vào đất
mà không qua quá trình ủ mục. Do đó, phân xanh chỉ dùng để bón lout vào lần
cày đầu tiên để các chất hữu cơ có thời gian phân hủy thành các dạng dễ tiêu cho
cây và đất hấp thụ. Cây phân xanh thường được dùng là cây họ đậu, cây muồng,
bèo hoa dâu…
Phân vi sinh: Có nguồn gốc là chế phẩm vi khuẩn bón cho đất để làm tăng độ
phì của đất. Khi vi sinh vật được bổ sung vào đất, nó phân giải chất dinh dưỡng
khó tiêu cho đất hoặc hút đạm khí trời để bổ sung dinh dưỡng cho đất và cây.
Hiện nay loại phân này đang được khuyến khích sử dụng để hạn chế ô nhiễm môi
trường.
Các loại phân hữu cơ khác: là tro, bùn ao, phân gia cầm, phân dơi, phân thỏ,
xác mắm, khô dầu…
2.2.2.2 Phân vô cơ
Phân đạm: đạm là chất dinh dưỡng cơ bản nhất, tham gia vào thành phần
chính của protenin, tham gia vào quá trình hình thành các chất quan trọng như tạo
clorophil, protit, pep1tit, các amino axit, men và nhiều Vitamin cho cây. Ngoài ra,
phân đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng, đặc biệt là giai đoạn tăng
trưởng mạnh, can cho các loại cây ăn lá. Moat số loại đạm thông dụng như ure
(CO(NH)
2
), đạm amôn nitrat (NH
4
NO
3
), đạm sunfat (còn gọi là phân SA)
(NH
4
)

2
SO
4
, đạm clorua NH
4
Cl.
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 21
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Phân lân: Đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng vì nó có trong
thành phần của protit tạo nên nhân tế bào, can cho việc tạo nên một bộ phận mới
của cây. Tham gia vào thành phần các men, tham gia tổng hợp acid amin, kích
thích phát triển rễ, giúp cây đẻ nhiều chồi, ra hoa kết quả và tăng khả năng
chống chòu của cây như chống rét, hạn, nóng, chua đất. Có 2 loại phân lân là
phân lân tự nhiên (Apatire, boat phosphorit (Ca
3
(PO
4
)
2
) ) và phân lân chế biến
(super lân, phân lân nung chảy còn được gọi là lân Phosphat canxi magie,
Tecmophotphat, cao ôn lân).
Kali: là tên gọi chung của các phân đơn cung cấp kali cho cây. Kali đóng vai
trò chủ yếu trong việc chuyển hóa năng lượng trong quá trình đồng hóa của cây.
Phân Kali giúp tăng khả năng đề kháng của cây, tăng khả năng chòu úng, chòu
han, chòu rét cho cây, tăng phẩm chất và tăng năng suất nông sản khi thu hoạch
cũng như làm giàu đường trong quả, màu sắc đẹp hơn, thơm, dễ bảo quản. Một số
loại phân kali đang được người ta sử dụng như Kali Clorua (KCl), Kali Sunfat
(K

2
SO
4
), Kali nitrat (KNO
3
).
Phân hỗn hợp: là loại phân được chế biến qua tác động của những phản ứng
hóa học để tạo thành một phức hợp, chẳng hạn như một số loại phân NPK với tỉ
lệ N, P, K khác nhau ví dụ như NPK 16-16-8, NPK 20-20-15.
2.2.2.3 Phân vi lượng
Nguyên tố vi lượng là nguyên tố cần thiết (không kém so với phần đa lượng)
cho cây trồng nhưng với số lượng rất ít. Nếu thiếu một trong những nguyên tố vi
lượng, cây sẽ không thể sinh trưởng và phát triển bình thường. Có 6 loại nguyên
tố vi lượng: là sắt (Fe), kẽm (Zn), mangan (Mn), đồng (Cu), borit (Bo), molipden
(Mo). Các nguyên tố vi lượng cũng góp phần nâng cao năng suất nông sản, mang
lại hiệu quả kinh tế cao vì bón ít. Các nguyên tố vi lượng thường có sẵn trong các
loại phân đa lượng, cây thiếu vi lượng sẽ phát triển mất cân đối. Ngoài ra, các
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 22
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

nguyên tố vi lượng cũng thường có trong tàn dư thực vật, trong phụ phẩm nông
nghiệp, trong xác các động vật, trong phân chuồng, phân trộn ủ… Ngoài ra, trong
một số trường hợp người ta cũng sản xuất phân vi lượng để bón cho cây.
2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ PHÂN BÓN
HÓA HỌC
2.3.1. Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật
2.3.1.1. Con đường phát tán của thuốc bảo vệ thực vật trong môi trường:
Môi trường thành phần như đất, nước, không khí là những môi trường chính
nhưng có sự tương tác và tương hỗ lẫn nhau. Sự ô nhiễm của môi trường này sẽ
gây tác động đến môi trường xung quanh.

Hình 2.1: Con đường phát tán của thuốc BVTV trong môi trường
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 23
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

Các thuốc trừ sâu khi phun rải lên nông sản, lúa, hoa màu, cây ăn trái… chòu
tác động của nhiều yếu tố môi trường làm giảm hiệu lực và thất thoát. Một phần
thuốc bò phân hủy do tác động của các yếu tố vô sinh ( độ ẩm, ánh sáng, oxy...)
Và yếu tố sinh học như tác động của của vi sinh vật trong đất, thực vật và đi vào
môi trường, một phần bò tồn lưu trong cơ thể sinh vật, sâu hại. Con đường phát tán
thuốc BVTV trong môi trường được trình bày theo hình 2.1.
Thuốc trừ sâu có thể khuếch tán bằng nhiều con đường khác nhau. Khi di
chuyển đi xa, các nhóm clo hữu cơ không dễ tan trong nước nên tích tụ nhanh
chóng ở lớp trầm tích dưới đáy các vũng nước, ao hồ… Do thuốc trừ sâu có chứa
trong khí quyển nên ta thấy trong nước mưa có nồng độ bằng hoặc cao hơn nồng
độ cao nhất tìm thấy trong nước sông.
Thuốc trừ sâu có thể khuếch tán bằng nhiều con đường khác nhau.
Trong môi trường không khí: khi phun thuốc trừ sâu vào môi trường không khí
bò ô nhiễm dưới dạng bụi, hơi. Dưới tác dụng của ánh sáng, nhiệt độ, gió… và tính
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 24
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thò Hai

chất hóa học, thuốc trừ sâu có thể lan truyền trong không khí. Lượng tồn lưu trong
không khí sẽ khuếch tán và có thể di chuyển xa đến nơi khác.
Trong môi trường nước: Ô nhiễm môi trường đất dẫn đến ô nhiễm nguồn
nước. Thuốc trừ sâu trong đất, dưới tác động của mưa và rửa trôi sẽ tích lũy, lắng
đọng trong lớp bùn đáy ở sông, hồ, ao… sẽ làm ô nhiễm nguồn nước. thuốc trừ sâu
có thể phát hiện trong các giếng, ao, hồ, suối cách nơi sử dụng thuốc trừ sâu vài
km.
Thuốc trừ sâu phun lên cây trồng thì trong đó có đến khoảng 50% rơi xuống
đất, sẽ tạo thành lớp mỏng trên bề mặt, một lớp lắng gọi là dư lượng gây hại

đáng kể cho cây trồng. Sự lưu trữ của thuốc trừ sâu trong đất là yếu tố quan trọng
để đánh giá khả năng gây ô nhiễm môi trường và trồng.
2.3.1.2. Dư lượng của thuốc bảo vệ thực vật trong nước.
Theo chu trình tuần hoàn các hóa chất BVTV, thuốc tồn tại trong môi trường
đất sẽ rò rỉ ra sông ngòi theo các mạch nước ngầm hay do quá trình rửa trôi, xói
mòn đất bò nhiễm thuốc trừ sâu. Mặt khác, khi sử dụng hóa chất BVTV, nước có
thể bò nhiễm thuốc trừ sâu nặng nề do nông dân đổ hóa chất dư thừa, chai lọ chứa
hóa chất, nước súc rửa… Điều này đặc biệt có ý nghóa nghiêm trọng khi các nông
trường, vườn tược lớn nằm gần kề sông xòt xuống ao.
Trong nước, thuốc BVTV có thể tồn tại ở các dạng khác nhau và đều có thể
ảnh hưởng đến tác động của nó đối với sinh vật đó là: hòa tan, bò hấp thụ bởi các
thành phần vô sinh hoặc hữu sinh và lơ lửng trong nguồn nước hoặc lắng tụ xuống
đáy và tích tụ trong cơ thể sinh vật.
Thuốc BVTV tan trong nước có thể tồn tại bền vững và duy trì được đặt tính lý
hoá của chúng trong khi di chuyển và phân bố trong môi trường nước. Các chất
bền vững có thể tích tụ trong môi trường nước đến mức gây độc. Thuốc BVTV khi
xâm nhập vào môi trường nước chúng phân bố rất nhanh theo gió và nước.
Bảng 2.3. Tính tan của hóa chất bảo vệ thực vật trong môi trường nước
SVTH: Lưu Nguyễn Thành Công Trang 25

×