Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.37 KB, 39 trang )

Lời nói đầu.
Trải qua các thời kỳ Cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn và vị trí
quan trọng của vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Công cuộc đổi mới
của Đảng ta trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp - nông thôn làm nền tảng
vững chắc cho sự phát triển nền kinh tế. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay nước ta
đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, bước vào xu hướng toàn cầu hoá,
hội nhập nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nhiều thành phần được phát triển với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng khơi dậy nhiều nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển năng động
hơn. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân có nhiều thay đổi theo hướng tích cực,
kinh tế trang trại được khẳng định là cơ sở kinh doanh nông lâm - ngư nghiệp, là hình
thức kinh doanh nhỏ trực tiếp sản xuất ra nông sản hàng hoá cho xã hội, là đối tượng
để tổ chức lại nền nông nghiệp - nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá.
Kinh tế trang trại được coi là một kiểu tổ chức sản xuất phù hợp với đặc thù
kinh tÕ nông thôn là một hướng đi đúng đắn của quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp - nông thôn ở nước ta hiện nay.
Phát triển kinh tế trang trại đã đưa lại những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế
xã hội, đã đưa bộ mặt nông thôn nước ta lên một bước phát triển mới. Song kinh tế
trang trại vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ cần được nghiên cứu, tổng kết nhằm cung
cấp thêm những tư liệu cần thiết để từ đó có thể tìm ra một hướng đi đúng đắn hơn
trong việc phát triển kinh tế trang trại ở nước ta. Nhận thức được vấn đề đó tôi mạnh
dạn chọn đề án “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta”.
Mục đích nghiên cứu:
- Nâng cao tầm hiểu biết về kinh tế trang trại, đánh giá được thực trạng phát
triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra được giải pháp nhằm thúc đẩy
kinh tế trang trại tiếp tục phát triển.
- Tập cho mình một phương pháp nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết những
vấn đề thực tiễn bằng lý luận mà nhà trường đã trang bị.
Kết cấu đề án bao gồm 4 chương:
Chương I: Bản chất, đặc trưng, vai trò, tiêu chí của kinh tế trang trại.
1




Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại.
Chương III: Phương hướng và những giải pháp nhằm phát triển trang trại trong
thời gian tới.
Chương IV: Kiến nghị và kết luận.
Đề án này được hoàn thành với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn - PGS.TS.
Hoàng Việt. Do thời gian có hạn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên nội dung của đề
án này không tránh khỏi sai sót. Vây kính mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để
đề tài hoàn chỉnh hơn.

2


MỤC LỤC
Lời nói đầu........................................................................................................1
Chương I: Bản chất, đặc trưng, vai trò, tiêu chí của kinh tế trang trại...........5
1. Khái niệm và bản chất kinh tế trang trại..................................................5
2. Đặc trưng kinh tế trang trại.......................................................................7
3. Vai trò của kinh tế trang trại......................................................................9
4. Tiêu chí để nhận dạng trang trại............................................................10
chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.......................12
I. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.....................................12
1. Sự phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thé giới...................12
2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam................15
II. Thực trạng phát triển kinh tÕ trang trại ở nước ta hiện nay...................17
1. Các loại hình kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay................................17
2. Tình hình về chủ trang trại.....................................................................19
3. Các yếu sản xuất của trang trại ở nước ta..............................................21
4. Tình hình tiêu thụ sản phẩm...................................................................23

5. Khoa học công nghệ.................................................................................24
6. Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại. ....................................26
III. Đánh giá kết quả của trang trại nước ta...............................................27
Chương III: Phương hướng và những giải pháp nhằm phát triển trang trại
trong thời gian tới........................................................................................................30
I. Phương hướng phát triển.........................................................................30
II. Các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế trang trại trong thời gian tới..31
1. Giải pháp về đất đai................................................................................31
2. Giải pháp về lao động..............................................................................32
3. Giải pháp về vốn......................................................................................33
4. Giải pháp về khoa học công nghệ............................................................34
5. Giải pháp về thị trường và phát triển khoa học công nghệ chế biến.....35
6. Giải pháp về thuế.....................................................................................35
7. Chính sách bảo hộ tài sản.......................................................................36
8. Giải pháp về đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. . . .36
3


9. Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn c ủa các chủ trang
trại...................................................................................................................... 36
Chương IV: Kết luận và kiến nghị.................................................................37
1. Kết luận...................................................................................................37
2. Kiến nghị..................................................................................................37
Tài liệu tham khảo...........................................................................................39

4


Chương I: Bản chất, đặc trưng, vai trò, tiêu chí của kinh tế trang trại.


1. Khái niệm và bản chất kinh tế trang trại.
Trên thế giới, trang trại đã có quá trình hình thành và phát triển trên 200 năm.
Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng trang trại là loại hình sản xuất chuyển từ tự túc
khép kín của hộ tiểu nông vươn lên sản xuất hàng hoá, tiếp cận với thị trường, từng
bước thích nghi với kinh tế thị trường cạnh tranh. Sự hình thành kinh tế trang trại gắn
liền với quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp. Mô hình kinh
tế trang trại được coi là phù hợp và đạt hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp.
Chính Các-Mác đã kết luận ở tác phẩm cuối cùng của mình: “Ngay ở nước Anh có nền
công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có thuận lợi không phải là các
xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động
làm thuê...”.
Kinh tế trang trại là vấn đề không còn mới mẻ với các nước tư bản phát triển và
đang phát triển. Song đối với nước ta đây vẫn còn là vấn đề rất mới, do nước ta mới
chuyển sang nền kinh tế thị trường nên việc nhận thức chưa đầy đủ về kinh tế trang
trại là điều không thể tránh khỏi.
Cho tới nay ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương hay đứng trên các
phương diện khác nhau các nhà khoa học đưa ra các khái niệm khác nhau về kinh tế
trang trại.
Trong thời gian qua, những vấn dề lý luận về kinh tế thị trường đã được các nhà
khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu trao đổi trên các diễn đàn và các
phương tiện thông tin đại chúng. Cho đến nay một số vấn đề cơ bản vẫn tiếp tục được
nghiên cứu, trao đổi và hoàn thiện. Ở đây các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các quan
điểm sau:
Quan điểm 1: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại...) là
hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hiệp tác và
phân công lao động xã hội bao gồm một số người lao động nhất định, được chủ trang
trại tổ chức trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động kinh
doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ”.

5



Quan điểm trên khẳng định trang trại là một đơn vị sản xuất hàng hoá cho nền
kinh tế thị trường và vai trò của người chủ nông trại trong quá trình sản xuất kinh
doanh nhưng chưa thấy được vai trò của các hộ gia đình trong các hoạt động kinh tế và
sự phân biệt giữa người chủ với người lao động khác.
Quan điểm 2 cho rằng: “Kinh tế trang trại là kinh tế hộ nông dân sản xuÊt hàng
hoá ở mức độ cao”. Quan điểm này cho thấy đặc trưng cơ bản quyết định của kinh tế
trang trại là sản xuất hàng hoá nhưng chưa thấy được vị trí, vai trò quan trọng của kinh
tế trang trại trong nền kinh tế thị trường và chưa thấy được vai trò của người chủ trang
trại trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quan điểm 3 cho rằng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng
hoá trong nông lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác ở nông thôn, có sức
đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, có
phương thức tạo ra tỷ xuất sinh lời cao trên đồng vốn bỏ ra, có trình độ đưa thành tựu
khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường,
mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao”.
Quan điểm trên khẳng định nền kinh tế thị trường là tiền đề chủ yếu cho việc
phát triển kinh tế trang trại. Đồng thời khẳng định vị trí vai trò của chủ trang trại trong
quá trình quản lý kinh doanh của trang trại.
Trong nghị quyết TW sè 06/NQ-TW 10/11/1998 cũng khẳng định “Trang trại
gia đình thực chất là kinh tế sản xuất hàng hoá với quy nô lớn hơn, sử dụng lao động,
tiền vốn của gia đình chủ yếu là để sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Qua các quan
điểm trên có thể rót ra nhận xét về kinh tế trang trại như sau:
- Bản chất của kinh tế trang trại là kinh tế hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp
hàng hoá, trang trại có quy mô (về đất đai, vốn, lao động, thu nhập...) tương đối lớn so
với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuÊt
cụ thể.
- Hình thức huy động các nguồn lực (đất đai, lao động, vốn...) không nên đề cập
trong khi đưa ra khái niệm trang trại nhưng việc huy động và sử dụng các nguồn lực

đó phải đảm bảo tính hợp pháp, được nhà nước bảo hộ và chủ trang trại phải chịu trách
nhiệm huy động và sử dụng các nguồn lực đó.

6


- Ngoài hoạt động nông nghiệp, các hoạt động ngành nghề dịch vụ cũng cần
được tính vào lĩnh vực và phạm vi hoạt động của trang trại để đảm bảo tính hệ thống
của mô hình kinh tế này.
Xuất phát từ những quan điÓm trên, theo khái niệm chung nhất về kinh tế trang
trại là: kinh tế trang trại là một hình thức sản xuất tổ chức sản xuất nông-lâm-ngư
nghiệp có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng của một chủ trang trại độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy
mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất khác tập trung đủ lớn với phương thức tổ chức
quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, kế hoạch sản xuất kinh doanh tự chủ
luôn gắn với thị trường.
2. Đặc trưng kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại là một cấp độ trong quá trình phát triển của kinh tế hộ từ sản
xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá.
Bảng 1: So sánh sự khác nhau về một số đặc trưng cơ bản giữa kinh tế
trang trại và kinh tế tiểu nông tự cấp, tự tóc.
STT

TIÊU THỨC

Kinh tế trang trại

1

Mục đích sản xuất


Chủ yếu sản xuất để bán

2

Quy mô diện tích

3

Quy mô vốn

lớn
Yêu cầu tích luỹ vốn lớn
Cao, có khả năng áp dụng

4

Trình độ sản xuất

phương tiện máy móc, kĩ

Trên diện tích tập trung đủ

thuật công nghệ hiện đại
5

Khả năng tích luỹ
sản xuất

Nhiều


Lao động

tiêu dùng
Manh mún, phân tán
Yêu cầu vốn Ýt
Thấp, mang nặng tính thủ
công
Ýt

Vừa sử dụng lao động gia
6

KINH TẾ TIỂU NÔNG
Chủ yếu thoả mãn nhu cầu

đình, vừa sử dụng lao động
thuê ngoài

7

Chủ yếu sử dông lao động
gia đình


Các-Mác đã phân biệt chủ trang trại với tiểu nông: “Người chủ trang trại bán ra
thị trường hầu hết sản phẩm làm ra, còn người chủ hộ gia đình tiêu dùng đại bộ phận
sản phẩm làm ra và mua bán càng Ýt càng tốt”.
Quy mô sản xuất hàng hoá được thể hiện qua tỷ xuất hàng hoá là đặc trưng cơ
bản nhất của kinh tế trang trại.

Đây là tiêu chuẩn hàng đầu và quan trọng nhất để phân biệt hộ nông dân sản
xuất tiểu nông với hệ nông dân sản xuất theo kinh tế trang trại.
Từ sự phân tích trên, ta thấy kinh tế trang trại có những đặc trưng sau:
- Trang trại là một trong hình thức tổ chức sản xuất cụ thể của nông, lâm
nghiệp. Ngoài trang trại, trong nông nghiệp còn rất nhiều hình thức tổ chức sản xuất
như hộ nông dân, các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp, các liên
doanh sản xuất...
- Trang trại là đơn vị sản xuất hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu (theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản). Như vậy, trang trại
không gồm những đơn vị thuần tuý hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nếu có
hoạt động chế biến hay tiêu thụ sản phẩm thì đó là những hoạt động kết hợp với hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Trong trường hợp này, trang trại là các doanh nghiệp sản
xuất nông nghiệp.
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Mục đích sản xuất của hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp là đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của họ về các loại nông sản. Vì vậy, quy mô của sản xuất hàng hoá của trang
trại phải đạt mức độ tương đối lớn, tức là hoạt động sản xuất của trang trại phải có sự
khác biệt với hộ sản xuất hàng hoá nhỏ, đặc biệt là hộ sản xuất tự cấp tự túc. Đây là
điểm cơ bản của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường so với các hình thức tổ
chức sản xuất nông nghiệp tập trung trước đây.
- Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của chủ thể độc lập.
Vì vậy, trang trại hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn
phương hướng sản xuất, quyết định kĩ thuật và công nghệ... đến tiếp cận thị trường,
tiêu thụ sản phẩm... Đây là đặc trưng cho phép phân biệt giữa trang trại và hộ công
nhân trong các nông, lâm trường đang trong quá trình chuyển đổi ở nước ta hiện nay.

8


- Chủ trang trại là người có ý chí và có năng lực tổ chức quản lý, có kinh

nghiệm và kiÕn thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp và thường là
người trực tiếp quản lý trang trại. Đây là những đặc trưng phân biệt trang trại với nông
hộ sản xuất tự cấp tự túc. Tuy nhiên, những đặc trưng trên của chủ trang trại không
được hội đủ ngay từ đầu mà được hoàn thiện dần cùng với quá trình phát triển của
trang trại.
- Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trại có nhu cầu cao
hơn nông hộ về ứng dụng tiến bộ kĩ thuật và thường xuyên tiếp cận thị trường. Điều
này biểu hiện:
Do mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá nên hầu hết các trang trại đều
kết hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp. Đây là điểm khác biệt của trang
trại so với hộ sản xuất tự cấp, tự túc.
Còng do sản xuất hàng hoá, đòi hỏi các trang trại phải ghi chép, hạch toán kinh
doanh, tổ chức sản xuất khoa học trên cơ sở những kiến thức về nông học, về kinh tế
thị trường.
Sự hoạt động của trang trại đòi hỏi phải tiếp cận với thị trường để biết được thị
trường cần loại sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại, giá cả và
thời điểm cung cấp thế nào?... Nếu chủ trang trại không có những thông tin về các vấn
đề trên, hoạt động kinh doanh sẽ không có hiệu quả. Vì vậy, tiếp cận thị trường là yêu
cầu cấp thiết với trang trại.
3. Vai trò của kinh tế trang trại.
Là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu của nền sản xuất hàng hoá,
vì vậy trang trại có vai trò hết sức to lớn trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm
cung cấp cho xã hội. Trang trại là tế bào kinh tế quan trọng để phát triển nông nghiệp
nông thôn, thực hiện sự phân công lao động xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế nước
ta chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, sự hình thành và phát triển
các trang trại có vai trò cực kì quan trọng. Biểu hiện:
- Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế
so sánh phục vụ nhu cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu, vì vậy nó cho phép
huy động, khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực khác một cách đầy đủ, hợp lý


9


và có hiệu quả. Nhờ vậy, nó góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Trang trại với kết quả và hiệu quả sản xuất cao góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần
tình trạng manh mún, tạo vùng chuyên môn hoá cao, đẩy nhanh nông nghiệp sang sản
xuất hàng hoá.
- Qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trang trại tạo ra nhiều nông sản, nhất
là các nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp, vì vậy trang trại góp phần thúc đẩy
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn phát triển.
- Trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ, vì vậy có khả năng
áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực.
- Với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là
nơi tiếp nhận và truyền tải các tiến bộ khoa học và công nghệ đến hộ thông qua chính
hoạt động sản xuất của mình.
- Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giàu trong nông thôn,
tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông
thôn, là tấm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức kinh doanh tiên tiến và
có hiệu quả... Tất cả những điều đó góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề kinh tế,
xã hội ở nông thôn.
4. Tiêu chí để nhận dạng trang trại.
Tiêu chuẩn để xác định thế nào là một trang trại vẫn còn là vấn đề còn nhiều
tranh cãi, thiếu thống nhất. Thực tế cho thấy, giữa các địa phương còn có sự khác biệt
rất lớn trong việc xác định tiêu chuẩn trang trại. Theo kết quả tổng hợp số liệu của các
địa phương tính đến ngày 01/7/1999 cả nước ta có 90160 trang trại (theo khái niệm
trang trại của các địa phương), nhưng theo quy định của tổng cục thống kê nhà nước
có 45372 trang trại, hiện nay theo điều tra của các cơ quan chức năng, cả nước hiện đã

có khoảng 120000 trang trại. Theo chính sách của Đảng và nhà nước về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới các loại hình doanh nghiệp nhà nước, để nhận dạng
trang trại, các tiêu chí nhận dạng trang trại cần đáp ứng các yêu cầu sau:

10


- Phải chứa đựng những đặc trưng cơ bản của trang trại. Yêu cầu này nhằm đảm
bảo tính chính xác của việc nhận dạng.
- Đơn giản hoá và dễ vận dụng khi nhận dạng trang trại.
- Phản ánh được tính chất phong phú của các loại hình trang trại và sự biến
động của nó qua các thời kỳ.
Từ quan niệm trên các tiêu chí nhận dạng trang trại gồm các chỉ tiêu sau:
- Thứ nhất, giá trị sản phẩm hàng hoá tạo ra trong 1 năm. Đây là chỉ tiêu chủ yếu
để nhận dạng trang trại tuỳ theo loại hình kinh doanh trang trại và những điều kiện
chưa thể quy định. Hiện nay, trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh sản xuất
nông nghiệp có giá trị sản phẩm hàng hoá từ 40 triệu đến 50 triệu đồng trở lên (ở Mỹ
năm 1970, người ta quy định ở mức 1000 USD, tương đương 14 triệu đồng). Có
những trường hợp chưa thể căn cứ vào tiêu chí này, như trang trại đang trong giai đoạn
xây dựng cơ bản hoặc mới bước vào kinh doanh, do đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp tuy chưa đạt yêu cầu này, nhưng nếu tính tới khả năng trang trại sẽ đạt được
khi đi vào kinh doanh còn tiêu thức khác đạt vẫn có thể coi là trang trại.
- Thứ hai, quy mô diện tích ruộng đất (nếu là trang trại trồng trọt là sản xuất
chính), số lượng gia sóc, gia cầm (nếu là trang trại chăn nuôi là chính). Cũng tuỳ thuộc
loại hình kinh doanh (cây hàng năm hay cây lâu năm, cây có giá trị kinh tế thấp hay
giá trị kinh tế cao). Hiện nay trong trồng trọt, trang trại được quy định là đơn vị kinh
doanh nông nghiệp có quy mô diện tích 2ha với cây hàng năm ở phía Bắc, 3ha đối với
cây hàng năm ở Tây Nguyên và Đồng băng sông Cửu Long... Có 3ha với cây lâu năm
ở tất cả các miền trong cả nước.
- Thứ ba, quy mô đầu tư cho sản xuất kinh doanh, trong đó lưu ý 2 yếu tố là vốn

và lao động. Các tiêu chí này cũng được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh
của trang trại. Hiện nay, người ta quy định trang trại vốn đầu tư trên 20 triệu, thuê 2
lao động trở lên.

11


chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.

I. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.
1. Sự phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thé giới.
Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại và phát triển, kinh tế trang trại được khẳng định
là mô hình kinh tế phù hợp đạt hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông lâm nghiệp ở
mỗi khu vực, mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau cho nên các mô
hình trang trại khác nhau. Có những chủ trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp như:
Kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp với lâm nghiệp (ở các nước Bắc Âu),
kết hợp nông nghiệp với các ngành nghề khác ở nông thôn (ở các nước châu Á), cũng
có những trang trại sản xuất cao như trang trại chuyên sản xuất ngũ cốc ở Mỹ hay Tây
Âu.
Về quy mô trang trại có sự thay đổi tuỳ theo từng nước. Cao nhÊt là các trang
trại ở Bắc Mỹ và Mỹ, quy mô bình quân một trang trại khoảng 180 ha, thấp nhất là các
nước châu Á, quy mô diện tích bình quân từ 0,9-4,5 ha. Quy mô về số lượng trang trại
cũng có sự thay đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn gắn liền với quá trình hiện đại
hoá. Ở Pháp, 1802 có 56720000 trang trại, đến năm1892 có 5703000 trang trại, tăng
31000 trang trại, nhưng từ đó số lượng trang trại liên tục giảm. Đến 1987 chỉ còn
893000 trang trại. Trong khi đó quy mô diện tích liên tục tăng, năm 1802 quy trung
bình một trang trại chỉ có 5,9 ha đến năm 1929 là 11,6 ha và đến năm 1987 tăng lên
29ha/1 trang trại. (xem biểu 3)
Ở Tây Đức cũng vậy, năm 1882 có 5276000 trang trại đến năm 1907 là
5736000 trang trại, tăng 46000 trang trại, nhưng từ năm 1907 đến 1985 số lượng các

trang trại liên tục giảm, đến năm 1985 chỉ còn 83000 trang trại, ngược lại, quy mô diện
tích của một trang trại lại có xu hướng tăng lên. Năm 1882 là 6ha/1 trang trại đến năm
1949 là 11 ha và năm 1985 là 15 ha/1 trang trại. (xem biểu 2)

BiÓu 2: Sự phát triển trang trại ở Tây Đức.
12


Số lượng trang trại
(x1000 trang trại)
Diện tích bình quân

1882

1895

1907

1949

1960

1971

1985

5276

5558


5736

2051

1709

1075

938

6,0
5,8
5,7
11
13
14
15
(ha/trang trại)
Nguồn: - Nguyễn Điền, Tuấn Đức- Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới

và châu Á, Hà Nội 1993.
- Đào Thế Tuấn- Quá trình phát triển trang trại gia đình- Tạp
chí thông tin lý luận 6/1992.
Biểu 3: Sự phát triển trang trại ở Pháp.
Số lượng trang
trại (x1000)
Diện tích bình

1802


1892

1908

1928

1950

1960

1970

1987

5672

5703

5505

3966

2285

1588

1263

938


6,0

11,6

14

19

23

29

5,9
5,8
quân (ha/tt)
Nguồn: Như biểu 2.

Ở Mỹ tình hình phát triển trang trại cũng theo xu thế các nước Châu Âu nhưng
chậm hơn 3-4 thập kỷ (xem biểu 4).
Biểu 4: Sự phát triển trang trại ở Mỹ.
1900

1910

1930

1940

1950


1960

1970

1980

1985

1990

5727

6404

6546

6350

5530

3960

2630

2300

2220

2140


24

39

61

72

86

120

151,1

173

182

190

Số lượng
TT
(x1000)
Diện tích
BQ
(ha/TT)
Nguồn: Như biểu số 2.
Đối với một số nước công nghiệp mới như Đài Loan và Hàn Quốc, tình hình
phát triển trang trại cũng theo quy luật chung: khi bước vào công nghiệp hoá thì trang
trại phát triển mạnh, khi công nghiệp hoá đã phát triển thì trang trại giảm về số lượng

(xem biểu 5, 6).
Biểu 5: Sự phát triển trang trại ở Đài Loan.
13


Số lượng trang trại (x1000)
Diện tích bình quân (ha/TT)

1955
714
1,1

1960
808
0,95

1970
916
0,83

1988
730
1,2

Biểu 6: Sự phát triển trang trại ở Hàn Quốc.
Số lượng trang trại (x1000)
Diện tích bình quân (ha/TT)

1953
2249

0,86

1965
2507
0,9

1975
2379
0,95

1980
1772
1,2

Như vậy lúc đầu công nghiệp hoá tác động tích cực đến sản xuất nông - lâm
nghiệp cho nên số lượng trang trại tăng nhanh. Khi công nghiệp hoá đạt đến mức độ
cao thì một mặt công nghiệp thu hót lao động từ nông nghiệp, mặt khác nó lại tác động
làm tăng năng lực sản xuất của các trang trại bằng việc trang bị máy móc thay thế lao
động thủ công. Do vậy số lượng các trang trại giảm nhưng quy mô diện tích và giá trị
tổng sản lượng được cung cấp từ trang trại lại tăng lên.
* Các yếu tố sản xuất trang trại:
- Ruộng đất: phần lớn trang trại sản xuất trên ruộng đất thuộc sở hữu của gia
đình. Nhưng cũng có trang trại phải đi thuê một phần hoặc toàn bộ ruộng đất tuỳ vào
từng nước. ở Anh, năm 1985 có 60% trang trại có ruộng đát riêng, 22% thuê một phần
và 18% thuê toàn bộ. Năm 1990 có 70% trang trại gia đình có ruộng đất riêng, 30%
trang trại phải đi thuê một phần hay toàn bộ ruộng đất. ở Đài Loan, năm 1981 có 84%
trang trại có ruộng đất riêng, 9% đi thuê một phần và 7% thuê toàn bộ ruộng đất để sản
xuất kinh doanh.
- Vốn sản xuất: Nhìn chung, để mở rộng sản xuất kinh doanh các trang trại ngày
càng có xu hướng sử dụng nhiều vốn vay từ bên ngoài. ở Mỹ, năm 1960 tổng số vốn

vay của trang trại là 10 tỷ USD, năm 1970 là 54,5 tỷ USD, năm 1985 là 88,5 tỷ USD.
ở Nhật Bản năm 1970 là nước có khoản đầu tư lớn nhất cho nông nghiệp, quỹ tài trợ
sản xuất lúa gạo chiếm 44% ngân sách cho đầu tư nông nghiệp.
- Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất: ở các trang trại công cụ sản xuất bao gồm
súc vật cày kéo, máy móc động lực cơ điện, công cụ máy nông nghiệp và các chuồng
trại nhà kho. Đến nay ở các nước phát triển đã tăng cường sử dụng máy móc hiện đại
với mức độ cơ giới hoá ngày càng cao, từng bước tự động hoá tin học hoá trong sản
xuất. Hình thức sử dụng máy móc do một hiệp hội đứng ra quản lý đang ngày càng
14


phổ biến. ở Nhật Bản năm 1985, 67% trang trại có máy kéo nhỏ, 20% trang trại có
máy kéo lớn.
- Sử dụng lao động trong các trang trại: Số lượng lao động trong các trang trại ở
mỗi nước không còn phụ thuộc vào quy mô sản xuất mà chủ yếu phụ thuộc vào trình
độ công nghệ sản xuất nông nghiệp. Một trang trại có quy mô 25 - 30 ha chỉ sử dụng
1-2 lao động gia đình và từ 1-2 lao động làm thuê thời vụ. Thậm chí ở Mỹ trang trại
lớn hơn 100ha chỉ sử dụng 2 lao động chính. ở một số nước châu á như Nhật Bản năm
1990 mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động làm nông nghiệp.
Từ quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới ta có thể rót
ra một số nhân xét sau:
- Phát triển kinh tế trang trại là thích hợp và đạt hệu quả kinh tế cao.
- Quy mô trang trại ở mỗi nước là khác nhau nhưng có xu hướng ngày càng tăng
lên.
- Đất đai của trang trại thuộc nhiều loại sở hữu khác nhau, trong đó chủ yếu là
đất thuộc sở hữu của hộ gia đình. Người chủ trang trại có toàn quyền quyết định
phương hướng sản xuất kinh doanh của trang trại sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
- Cơ cấu thu nhập của trang trại thay đổi theo chiều hướng giảm thu từ nông
nghiệp, trong khi đó thu từ các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng.
- Các chủ trang trại ngày càng chú trọng hơn vào việc đầu tư ứng dụng các thành

tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của trang
trại nhằm đáp ứng tốt hơn mục tiêu sản xuất hàng hoá của loại hình tổ chức sản xuất
hàng hoá này.
- Trong chính sách của Chính phủ các nước đều có xu hướng thống nhất là kích
thích, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để kinh tế trang trại thực sự phát huy được
nội lực và ưu thế của nó trong quá trình phát triển hướng tới một nền nông nghiệp văn
minh.
2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam.
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu nhưng kinh tế trang trại ở Việt Nam chỉ phát triển
mạnh mẽ trong những năm gần đây, có thể xem thực hiện chỉ thị 100 Ban bí thư TW
khoá IV, NQ10 của Bộ chính trị về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân và

15


đặc biệt sau khi luật đất đai ra đời năm 1993 thì kinh tế trang trại thực sự có bước phát
triển khá nhanh và đa dạng.
Nếu theo quy định của tổng cục thống kê về tiêu chuẩn trang trại (Quyết định số
359/1998/QĐ-TCTK ngày 01/07/1998) thì cả nước có 45372 trang trại, năm 2000 có
55685 trang trại. Trong đó chia theo hướng sản xuất có 37949 trang trại trồng cây công
nghiệp lâu năm và cây hàng năm, chiếm 83,6%; 1306 trang trại nuôi trồng thuỷ sản,
chiếm 3,8%; 2559 trang trại kinh doanh tổng hợp đa ngành, chiếm 5,6%.
Chia theo vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc có 3491 trang trại, chiếm 7,7%; vùng
Tây Bắc có 238 trang trại chiếm 0,5%; vùng Đông Bằng Sông Hồng có 1394 trang trại
chiếm 9,2%; vùng duyên hải miền Trung có 2706 trang trại chiếm 4,6%; vùng Tây
Nguyên có 6333 trang trại chiếm 13,6%; vùng Đông Nam Bộ có 8402 trang trại chiếm
18,5%; vùng Đồng Băng Sông Cửu Long có 19259 trang trại chiếm 42,4%.
Sè lao động bình quân 1 trang trại là 2,8 người, lao động thuê ngoài theo thời vụ
là 11,5 người. Bình quân 1 trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp
có 26,8ha, nuôi trồng thuỷ sản có 10,7ha, chăn nuôi có 528 con trâu, bò, 530 con gia

cầm. Vốn sản xuất bình quân của một trang trại là 60,2 triệu đồng; thu nhập bình quân
1 trang trại là 22,6 triệu đồng (thu nhập đã trừ chi phí).
Về quy mô diện tích của mỗi trang trại ở nước ta theo điều tra của cục thống kê
cho thấy: trang trại < 1ha chiếm 15%; từ 1-5ha chiếm 28%; từ 5-10ha chiếm 34%; từ
10-20ha chiếm 16%; từ 20-50ha chiếm 4% và trên 50ha chiếm 3%.
Ngoài việc góp phần làm giàu cho các chủ trang trại, phát triển kinh tế trang trại
ở Việt Nam trong những năm qua đã giải quyết việc làm tại chỗ cho hơn 50000 lao
động làm thuê thường xuyên và 520000 lao động làm thuê theo thời vụ tạm thời ở
nông thôn. Tổng số vốn huy động đầu tư phát triển kinh tế trang trại ước tính là 2730,8
tỷ đồng, thu nhập hàng năm từ các hoạt động kinh tế của trang trại là 1023,6 tỷ đồng.
Ngoài ra các trang trại còn đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường sinh thái,
nâng cao mức độ che phủ của rừng từ 22% lên 28%. Kinh tế trang trại đã tự khẳng
định vai trò của mình trên hầu khắp các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển.
Vùng đồi núi nước ta từ Bắc Bộ đến Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
có lợi thế về quỹ đất phát triển nông- lâm nghiệp với 9,3 triệu ha đất rừng và 9,6 triệu
đất trống đồi núi trọc, có thời tiết khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng rừng, trồng cây
16


công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia sóc theo mô hình kinh tế trang trại. Trong
những năm gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều các mô hình kinh tế trang trại của
các hộ gia đình từ miền xuôi lên trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây cà phê, chè,
tiêu, điều, cao su..., chăn nuôi trâu bò với quy mô nhỏ, vừa và lớn.
Vùng ven biển: nước ta có chiều dài bờ biển trên 2000 km với các eo biển, bãi
biển, đầm phá, rừng ngập mặn. Diện tích của vùng địa lý này ước tính vào khoảng
400000 ha là vùng lãnh hải rộng lớn có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng,
khai thác thuỷ sản. ở các vùng ven biển từ Bắc đến Nam đã xuất hiện các mô hình
trang trại nuôi tôm, cua, cá, ngao... với đủ mọi quy mô. Đến năm 1997, vùng ven biển
có 15666 trang trại có quy mô từ 5-20 ha.
Vùng Đồng Bằng: Đồng Bằng là nơi sản xuất ra 70-80% sản lượng lương thực,

thực phẩm của cả nước và là nơi xuất khẩu toàn bộ lúa gạo. Đồng Bằng là nơi đất chật,
người đông, lao động dồi dào, cơ sở hạ tầng phát triển, gần thị trường, có điều kiện
thuận lợi cho việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đồng Bằng Sông Cửu Long có quỹ
đất tương đối dồi dào nên nhiều hộ nông dân đã thực hiện sản xuất theo mô hình trang
trại với đủ quy mô từ 1-30 ha. Có trên 50% tổng số 1,8 triệu hộ nông dân Đồng Bằng
Sông Cửu Long sản xuất nông sản hàng hoá, trong đó có khoảng 400000 hộ nông dân
là trang trại gia đình với nhiều dạng khác nhau thông qua đấu thầu đất đai, mặt nước
hoang hoá, nhận khoán thâm canh, phát triển chăn nuôi, kinh doanh tổng hợp, nuôi
trồng các loại cây con đặc sản như: hoa, cây cảnh, ba ba, rùa.
II. Thực trạng phát triển kinh tÕ trang trại ở nước ta hiện nay.
1. Các loại hình kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay.
Là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhưng trang
trại có những loại hình với các nội dung tổ chức quản lý khác nhau. Xét về tính chất sở
hữu có các loại hình trang trại:
- Trang trại gia đình độc lập: là loại hình trang trại chủ yếu trong nông, lâm, ngư
nghiệp với các đặc trưng được hình thành từ hộ nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ, mỗi
gia đình là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân do chủ hé hay người có uy tín,
năng lực trong gia đình đứng ra làm quản lý.

17


Ruộng đất tuỳ theo từng thời kỳ có nguồn gốc khác nhau (từ địa chủ, thực dân
chuyển cho nông dân, từ Nhà nước giao, do thừa kế, mua bán chuyển nhượng). Quy
mô ruộng đất khác nhau giữa các trang trại ở các nước và ngay trong một nước, nhưng
so với các loại hình trang trại khác, trang trại gia đình thường có quy mô ruộng đất nhỏ
hơn.
Vốn của trang trại do nhiều nguồn vồn tạo nên, như vốn của nông hộ tích luỹ
thành trang trại, vay vốn, vốn cổ phần, vốn liên kết, vốn trợ cấp khác, nhưng trong
trang trại gia đình nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu do tích luỹ theo phương

châm “lấy ngắn nuôi dài”. Điều tra 3044 trang trại năm 1999 cho thấy, vốn tự có của
trang trại chiếm 91,03%, có nơi như Đắc Lắc chiếm tới 96%, nơi có tỷ trọng vốn tự có
nhỏ cũng chiếm 79,9% như Sơn La.
Sức lao động của các trang trại cũng do nhiều nguồn, của trang trại và thuê
mướn, nhưng trong trang trại gia đình, lao động chủ yếu từ nguồn lao động của trang
trại, lao động thuê mướn chủ yếu là lao động thời vụ, lao động thuê thường xuyên chỉ
ở trang trại gia đình quy mô lớn, kinh doanh sản phẩm mang tính liên tục (trồng hoa,
chăn nuôi bò sữa...).
Quản lý trang trại tuỳ theo quy mô khác nhau có các hình thức quản lý khác
nhau, nhưng trang trại gia đình do chủ thể gia đình trực tiếp quản lý, nếu chủ thể gia
đình không có điều kiện trực tiếp quản lý tì giao cho một thành viên trong gia đình có
năng lực và uy tín quản lý.
- Trang trại uỷ thác cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất kinh doanh từng việc
theo từng vụ hay liên tục nhiều vụ. Các trang trại loại này thường có quy mô nhỏ, đất
Ýt nên đã chuyển sang làm nghề khác, nhưng không muốn bỏ ruộng đất vì sợ sau này
muốn trở về khó đòi, hay chuộc lại ruộng đất. ở nhiều nước, hình thức này trở nên phổ
biến, đặc biệt là các nước châu á như Đài Loan 75% chủ trang trại gia đình áp dụng
hình thức này.
Xét về loại hình sản xuất có các loại hình trang trại:
- Trang trại sản xuất cây thực phẩm, các trang trại loại này thường ở vùng sản
xuất thực phẩm trọng điểm, xung quanh đô thị, khu công nghiệp, gần thị trường tiêu
thụ.

18


- Trang trại sản xuất cây công nghiệp (chè, cà phê, cao su, mía...) thường phát
triển ở vùng cây công nghiệp gần với hệ thống chế biến.
- Trang trại sản xuất cây ăn quả nằm ở vùng cây ăn quả tập trung, có cơ sở chế
biến và thị trường tiêu thụ thuận lợi.

- Trang trại nuôi trồng sinh vật cảnh thường phát triển ở gần các khu đô thị, các
khu du lịch lớn, thuận tiện cho việc tiêu thụ.
- Trang trại nuôi trồng đặc sản (hươu, trăn, rắn, ba ba, dê, cây dược liệu...) nằm ở
những nơi thuận lợi cho nuôi trồng và tiêu thụ.
- Trang trại chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò...), gia súc (lợn) hoặc gia cầm (gà,
vịt...) có thể chăn nuôi tổng hợp hoặc chuyên môn hoá theo từng loại gia sóc.
- Trang trại kinh doanh nông nghiệp tổng hợp, thường phát triển ở các vùng
trung du và miền núi có điều kiện về đất đai và hạn chế về thị trường tiêu thụ.
- Trang trại kinh doanh nông, công nghiệp và dịch vụ đa dạng, nhưng hoạt động
nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
2. Tình hình về chủ trang trại.
Kinh tế trang trại đã và đang là nhân tố mới cho sự phát triển nông nghiệp nông
thôn, là những hộ nông dân ưu tú trong hàng triệu hộ nông dân trong cả nước. Sau một
thời gian trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh theo tinh thần những chủ
trương, chính sách mà Đảng và nhà nước đã ban hành họ đã từng bước vươn lên, nhận
thầu đất mở rộng sản xuất kinh doanh với quy mô lớn, hiệu quả cao góp phần chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Như ta đã biết vai trò của kinh tế trang trại là hình thức tổ chức nông nghiệp
chủ yếu của nền sản xuất hàng hoá. Từ hộ sản xuất tự cung tự cấp để chuyển sang sản
xuất hàng hoá là cả một quá trình, ngoài việc tác động của tự nhiên, xã hội, môi
trường, nhất là chính sách đường lối của Đảng thì chủ trang trại đóng một vai trò hết
sức to lớn trong việc quyết định sản xuất kinh doanh của mình. Chủ trang trại phải có
hai điều kiện sau:
- Chủ trang trại phải là người có ý chí, quyết tâm làm giàu từ nghề nông.
- Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất, vef tri
thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh. Đây là những đặc trưng phân biệt trang

19



trại với hộ sản xuất tự cung tự cấp. Tuy nhiên những đặc trưng trên không được hội tụ
ngay từ đàu mà được hoàn thiện dần cùng với quá trình sản xuất.
Hiện nay trong quá trình phát triển trang trại thì chủ trang trại có cơ cấu xuất
thân rất đa dạng. Trong đó các chủ trang trại xuất thân từ hộ nông dân làm ăn giỏi là
chủ yếu. Theo thống kê năm 1999 thì chủ trang trại là nông dân chiếm 62,35% làm
ruộng sống bằng nghề nông, hiện nay chiếm 71,19%. Ngoài ra chủ trang trại còn là các
thành phần xuất thân khác: công chức 4,73%, cán bộ xã 8,84%, công nhân đang làm
việc 3,42%, bộ đội công an trở về 8,4%, cán bộ công nhân 9,36% còn các đối tượng
khác 3,19%.
Nhìn chung chủ trang trại có độ tuổi chủ yếu từ 25-50, trong đó chủ trang trại
có độ tuổi 30-40 chiếm nhiều nhất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
trang trại ở nước ta tại vì các chủ trang trại muốn thành công trong sản xuất kinh
doanh ngoài kinh nghiệm sản xuất, khả năng tổ chức quản lý còn rất cần thiết đến sức
khoẻ, tính giám chấp nhận rủi ro và sự nhanh nhẹn của tuổi trẻ.
Về trình độ văn hoá. Do các chủ trang trại xuất thân chủ yếu là nông dân cho
nên trình độ văn hoá của các chủ trang trại rất thấp, thường thì các chủ trang trại có
trình độ văn hoá ở bậc phổ thông chiếm đại đa số. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Bởi vì khả năng nắm bắt thông tin, khoa học
công nghệ, thích nghi với thị trường rất thấp.
Như ta đã nghiên cứu ở trên, xuất thân của chủ trang trại từ nông dân. Trước
công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước, cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn,
họ luôn khao khát vươn lên môth cuộc sống no đủ hơn về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988 thì kinh tế hộ gia đình được thừa nhân là
kinh tế tự chủ, từ đó đến nay cuộc sống của nông dân được nâng cao và cải thiện hơn.
Nước có truyền thống sản xuất nông lâm nghiệp từ rrất lâu đời, tuy nhiên sản xuÊt vẫn
còn mang tính thuần nông cao, tuy có bước phát triển nhưng quy mô và tỷ trọng không
cao, do vậy kinh nghiệm sản xuất hàng hoá của hộ nông dân và của trang trại còn rất
hạn chế, nhất là khâu tổ chức sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm. Qua nghiên cứu đã
cho ta thấy kinh nghiệm phổ biến của các chủ trang trại là:


20


- Các chủ trang trại đều tiến hành sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất tổng
hợp với cơ cấu chính là cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại
gia sóc...
- Phương thức sản xuất là “lấy ngắn nuôi dài” được tận dụng một cách phổ biến
ở từng trang trại vì đã tận dụng hết khả năng vốn, lao động, đất đai...
- Các chủ trang trại sử dụng lao động gia đình là chủ yếu.
3. Các yếu sản xuất của trang trại ở nước ta.
a. Thực trạng về đÊt đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế đối với sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất kinh tế trang trại nói riêng. Nguồn tài nguyên đất đai là
có hạn nên quy mô đất đai của chủ trang trại là khác nhau, nhưng quy mô đất đai của
trang trại lại phản ánh sự khác biệt giữa kinh tế trang trại với kinh tế hộ nông dân. Sự
hình thành và phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với sự tích tụ và tập trung ruộng
đất của chủ trang trại. Quy mô ruộng đất của trang trại quyết dịnh phương hướng sản
xuất kinh doanh của chủ trang trại, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguên đất đai là yêu
cầu hết sức quan trọng của trang trại.
Theo số liệu thống kê, các trang trại cả nước khai thác và sử dụng khoảng 270
ngàn ha mà trước đây đa phần là đất xấu, đất hoang hoá chiếm 3,2% đất nông nghiệp
cả nước. Bình quân đất đai của trang trại là 6,57 ha trên một trang trại. Trong đó đất
nông nghiệp chiếm 3,9 ha, đất lâm nghiệp là 1,91 ha, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
0,76 ha. Trong các loại đất đai này có một tỷ lệ khá lớn đất chưa được giao chiếm
30%. Phần chưa được giao này thường là phần cho thuê.
Nhìn chung đất đai của các trang trại có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, điều
này là vì quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất ở nước ta chậm, đất đai nông nghiệp ở
nước ta là hộ sản xuất manh mún, phân tán, mặt khác mặc dù nhà nước ta đã có chính
sách giao đất lâu dài cho nông dân nhưng tiến trình diễn ra chậm, một phần lớn là đất
chưa được giao (chưa có sổ đỏ).

b. Vốn và nguồn vốn trong trang trại.
Ngoài đất đai và lao động thì vốn là yếu tố quan trọng tạo nên quy mô sản xuất
và góp phần quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại.

21


Theo kết quả điều tra thì các trang trại của cả nước ta huy động trên 2700 tỷ
đồng để phát triển sản xuất. Vốn bình quân cộng với giá trị tài sản hiện có có khoảng
291,43 triệu đồng một trang trại trong đó vốn tự có là chủ yếu chiếm 265,18 triệu
đồng, vốn vay 22,13 triệu đồng, vốn khác 2,13 triệu đồng. Vốn cao nhất ở Đăc Lắc
619,52 triệu đồng sử dụng sản xuất cà phê, thấp nhất là một số tỉnh phía Bắc 95,9 triệu
đồng, vốn tự có chiếm 90,9%, vốn vay chiếm 9,1%.
Qua số liệu trên cho ta thấy việc chủ động vốn của chủ trang trại đều dựa vào
nguồn vốn tích luỹ là chính. Điều đó chứng tỏ phát triển kinh tế trang trại chưa được
thu hót, nhà nước còn chưa có chính sách phù hợp khuyến khích trang trại phát triển,
các chủ trang trại chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trong việc mở rộng quy mô sản xuất.
Mặt khác vốn vay chiếm tỷ trọng thấp một phần là do chính sách vay vốn còn nhiều
bất cập, thủ tuc rườm rà gây khó khăn cho người cần sử dụng vốn. Cụ thể thời gian
vay vốn ở ngân hàng là quá ngắn, vay từ 3-10 triệu đồng không quá 5 năm. Một mặt
khác quan trọng nhất là đầu ra tiêu thụ nông sản ở nước ta còn kém, thị trường nhỏ
hẹp, tiêu thụ nội địa là chính.
c. Lao động và sử dụng lao động trong trang trại.
Lao động là nhân tố quan trọng quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của
trang trại. Vì trong sản xuất lao động luôn gắn liền với đất đai, tài nguyên, điều kiện tự
nhiên, cây trồng, vật nuôi, công cô lao động... tác động tới các đối tượng đó làm ra sản
phẩm do đó lao động có tầm quan trọng quyết định chất lượng và số lượng sản phẩm
làm ra. Theo số liệu thống kê năm 2001 thì các trang trại của cả nước ta tạo thêm việc
làm cho 52,8 ngàn lao động thường xuyên, 520 ngàn lao động thời vụ/ 1năm. Mỗi một
trang trại bình quân có 5,82 nhân khẩu thuê, số lao động bình quân của gia đình 2,86

người, số lao động thuê thường xuyên là 2 lao động, thuê theo thời vụ 269,5 ngày
công. Tiền công bình quân lao động một tháng là 434 nghìn thuê một lao động thường
xuyên, còn tiền công thuê lao động thời vụ là 18 nghìn trên một ngay công.
Nước ta với dân số gần 80 triệu người, với lực lượng lao động dồi dào, đây là
điều kiện hết sức thuận lợi cho trang trại thuê lao động làm thuê, tạo điều kiện cho
trang trại phát triển. Hầu hết các lao động làm thuê ở các trang trại đều là những người
thất nghiệp không có việc làm, trình độ văn hoá thấp chiếm chủ yếu là trình độ văn
hoá cấp tiểu học. Về trình độ chuyên môn kĩ thuật đào tạo thấp, được đào tạo rất Ýt, tỷ
22


lệ lao động có chuyên môn 10% hầu hết là lao động gia đình. Trang bị công cụ lao
động cơ bản đang còn ở mức độ thấp.
Vậy qua số liệu trên cho ta thấy lao động thuê mướn chủ yếu là lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc đơn giản, những
công việc đòi hỏi có trình độ chuyên môn, kĩ thuật thì lao động thường xuyên và lao
động gia đình đảm nhiệm. Việc sử dụng lao động làm thuê đã góp phần tạo việc làm,
tăng thu nhập cho một bộ phận lao động dư thừa trong xã hội. Đồng thời lao động
cũng là một tiềm năng to lớn cần phải nâng cao sử dụng có hiệu quả hơn nữa.
4. Tình hình tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm và phân phối tổng hợp sản phẩm là một khâu của quá trình
tái sản xuất. Quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra thông qua việc phân phối nghĩa là
bù đắp các chi phí tham gia vào quá trình sản xuất và đầu tư để tái sản xuất mở rộng.
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của trang trại. Đó chính là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai
đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất và bước vào quá trình lưu thông,
đưa sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh vực tiêu dùng. Tiêu thụ hết và kịp thời sản
phẩm làm ra là tín hiệu tốt nhất cho trang trại điều chỉnh kế hoạch sản xuất tiếp theo.
Sản xuất kinh doanh của trang trại mang nặng tính thời vụ của sản xuất nông
nghiệp, sản xuất nông nghiệp lại dễ ôi thiu hư hỏng, do đó việc tiêu thụ hết và kịp thời

sản phẩm làm ra là một yêu cầu quan trọng đối với trang trại.
Kinh tế trang trại nước ta đã từng bước vượt qua vòng “cương toả” của tự cung
tự cấp tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá chiếm 87% sản phẩm hàng hoá cả nước là do
trang trại cung cấp, là nhân tố quyết định, tiên phong và là xu hướng để nước ta
chuyển qua sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Tuy vậy những vấn đề tiêu thụ nông sản vẫn đang còn là vấn đề rất khó khăn,
cụ thể thị trường tiêu thụ và hoạt động nông sản nước ta còn có một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, hầu hết các sản phẩm nông nghiệp thường bị tồn đọng. Có tình trạng
là chưa đến thời vụ thì thiếu hàng nghiêm trọng và dẫn đến đột biến giá cả, nhưng khi
vào thời vụ thu hoạch thì lại “thừa hàng”, tồn đọng, giá cả nông sản giảm mạnh gây
thiệt hại cho người sản xuất và người kinh doanh. Theo số liệu của bộ thương mại, 6

23


tháng đầu năm 1999 tồn đọng một lượng hàng hoá lớn các loại nông sản chưa có cách
nào để tiêu thụ, trong đó nổi lên ba mặt hàng có lượng tồn đọng lớn nhất là lúa hàng
hoá, đường mía và cà phê. Nhà nước đã buộc phải chỉ đạo cho các doanh nghiệp mua
tạm trữ 1 triệu tấn gạo, 100000 tấn đường và hỗ trợ đơn vị xuất khẩu cà phê để chờ lên
giá trên thị trường thế giới.
Thứ hai, trong tất cả các kênh phân phối liên quan đến sản xuất sản xuất nông
nghiệp và đời sống nhân dân ở các trang trại đều có sự tham gia rất phổ biến của tư
thương. Hệ thống tiêu thụ nông sản chủ yếu là dành cho nội địa và một phần dành cho
xuất khẩu cũng có sự tham gia phổ biến của tư thương trong các khâu mua gom, chế
biến. Điểm nổi bật trong phân phối là qua nhiều khâu trung gian làm chậm quá trình
lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.
Thứ ba, hệ thống kinh doanh thương mại nhà nước đang lâm vào thế lúng túng,
bị động, thị trường đầu ra không ổn định, bấp bênh, chủ yếu do tư thương điều tiết,
thương mại quốc doanh bỏ trống thị trường gây khó khăn thường xuyên cho nông
nghiệp nói chung và trang trại trong việc bao mua sản phẩm và bao cung tư liệu sản

xuất. Do không đủ sức mạnh điều tiết nên trong nhiều trường hợp phó mặc cho tư
thương và không tránh khỏi tình trạng nông sản bị Ðp giá.
Thứ tư, có thể nói rằng đối với nông dân nói chung và trang trại nói riêng chưa
đáp ứng được nông sản cho người tiêu dùng bởi vì hầu hết sản xuất nông nghiệp phổ
biến vẫn là “bán cái mình có chứ chưa phải là bán cái thị trường cần”, hoạt động chủ
yếu cái có sẵn chứ chưa chủ động khai thác các yếu của nền kinh tế thị trường.
5. Khoa học công nghệ.
Phát triển khoa học công nghiệp là khâu then chốt trong quá trình chuyển đổi
nền nông nghiệp nước ta thành nền nông nghiệp hàng hoá và góp phần đưa trang trại
nước ta phát triển thật sự là sản xuất hàng hoá.
Cụ thể theo nhiều đánh giá, thì khoa học công nghiệp góp vào tăng trưởng nông
nghiệp nông thôn 27% giai đoạn 1976-1980, 35% giai đoạn 1981-1985, 30% giai đoạn
1986-1990 và khoảng 30-35% giai đoạn 1991-1995. Từ năm 1996 đến nay nước ta có
một số kết quả khoa học công nghệ nông nghiệp nông thôn như sau:

24


- Đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng
tốt.
Trong nghiên cứu chọn giống, nhờ có những nghiên cứu có tính đột phá về sử
dụng khai thác ưu thế lai, kết hợp với phương pháp chọn giống cổ truyền với phương
pháp hiện đại. Các nhà khoa học đã chọn 37 giống lúa, 12 giống ngô, 9 giống khoai, 6
giống rau, 8 cây công nghiệp dài ngày... Chúng ta đã chọn được 171 giống cây trồng
vật nuôi.
Trong lâm nghiệp, đã áp dụng nhiều thành công các tiến bộ mới trong việc tạo
giống và nhân giống như nuôi cấy mô, giâm hom và cho phép nhân nhanh giống có
nhiều triển vọng như keo lai, phi lao, tràm óc, v.v...
Trong nghiên cứu chọn tạo giống vật nuôi đã tạo ra giống lợn lai có tỷ lệ nạc
trên 50%, tăng trọng nhanh 650-670 gam/ngày, Ýt thức ăn. Đối với bò thịt đã thành

công lai bò nhập nột với bò vàng Việt Nam nâng cao hiệu quả kinh tế cao.
Với gia sóc gia cầm đã công nhận các giống gà thả vườn có nguồn gốc từ Trung
Quốc như Tam Hoàng, Lông Phượng, v.v..., với vịt tạo ra nhiều vịt siêu trứng và siêu
thịt.
- Nghiên cứu và đề xuất, ứng dụng nhiều thành tựu tiến bộ kĩ thuật mới vào sản
xuất.
Cùng với giống, các biện pháp thâm canh tổng hợp cũng phát triển như khai
thác quy trình bón phân hợp lý v.v..., thó y thì đưa ra nhiều loại vắc-xin, nhiều loại
thuốc mới và quy trình phòng và trị bệnh cho gia sóc gia cầm...
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phân tử và kĩ thuật gen:
Như vậy khoa học công nghệ trong những năm qua có rất nhiều thành tựu, từ
nghiên cứu cơ bản chuyên sâu đến đến nghiên cứu ứng dụng. Nhiều kết quả ngay từ
trong quá trình sản xuất chấp nhận và chuyển giao. Tuy nhiên khoảng cách từ nghiên
cứu đến công nghệ vẫn còn khoảng cách, cần có những điều chỉnh thích hợp trong
định hướng, tổ chức, chính sách... để khoa học thực sự đến với đời sống nông dân nói
chung và trang trại nói riêng. Muốn vậy thì tổ chức công tác khuyến nông là công tác
đặc biệt quan trọng trong việc đưa khoa học đến với nông dân, trang trại.

25


×