TRƯỜNG ĐHSP TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
NGÀNH ĐỊA LÝ HỌC
TIỂU LUẬN MÔN
ĐỊA LÝ HỌC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI:
HDKH:
TS. TRƯƠNG VĂN TUẤN
TÊN HỌC VIÊN:
ĐẶNG VĂN TUẤN
NGÀNH: ĐỊA LÍ HỌC.
KHÓA: 24
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 09/ 2014
Mục lục
Lời mở đầu
1/ Khái niệm hiện tượng đảo nhiệt đô thị
2/ Lịch sử nghiên cứu hiện tượng đảo nhiệt đô thị
3/ Nguyên nhân sinh ra hiện tượng đảo nhiệt đô thị
4/ Đặc điểm, bản chất của hiện tượng đảo nhiệt đô thị
4/ Những biện pháp hạn chế, khắc phục hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Lời kết
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
Những năm gần đây, nhiều thành phố trên thế giới thời tiết và khí hậu trở
nên nóng và oi bức, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người dân. Nhiều người cho
rằng đó là biểu hiện của biến đổi khí hậu, tuy nhiên, theo số liệu của của nhiều
đai quan trắc, cạnh những thành phố có nhiệt độ tăng lên cao là những nước có
nhiệt độ tăng lên rất chậm. Vì vậy, nguyên nhân chủ yếu khiến nhiệt độ thành
phố tăng nhanh không phải do biến đổi khí hậu mà là hậu quả của quá trình đô
thị hóa thiếu bền vững dẫn đến hiện tượng “Đảo nhiệt đô thị” hay còn gọi là
“Hòn đỏa nhiệt đô thị”, khiến nhiệt độ ở các đô thị, các thành phố tăng cao.
1/ Khái niệm hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Đảo nhiệt đô thị (Urban heat island) được hiểu là hiện tượng nóng lên ở
khu vực trung tâm của thành phố hay sư chênh lệch giữa nhiệt độ của đô thị lõi
so với khu vực ngoại ô, nông thôn xung quanh.
2/ Lịch sử nghiên cứu hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Vào năm 1810, Luke Howard là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả hiện
tượng này, mặc dù ông không phải là người đã đặt tên cho hiện tượng. Hiện
tượng đảo nhiệt đô thị đã được tập trung nghiên cứu nhiều hơn từ những năm 20
của thế kỷ XX tại thành phố Luân đôn, Anh. Trong những năm gần đây, được
tiếp tục quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khí hậu học ở các thành phố lớn trên
thế giới đã xác định hiện tượng đảo nhiệt là sự chênh lệch nhiệt độ giữa thành
phố trung tâm với các vùng nông thôn xung quanh.
3/ Nguyên nhân sinh ra hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Nguyên nhân chính của đảo nhiệt đô thị là sự thay đổi bề mặt sử dụng đất
trong quá trình phát triển đô thị. Quá trình này sử dụng nhiều loại vật liệu có tác
dụng giữ nhiệt hiệu quả. Nhân tố thứ hai góp phần tạo ra đảo nhiệt đô thị là
lượng nhiệt thải ra do quá trình sử dụng năng lượng. Khi các trung tâm đông dân
cư phát triển, người dân có xu hướng thay đổi diện tích đất đai nhiều và ngày
càng nhiều hơn nữa, gây ra sự gia tăng nhiệt độ trung bình tương ứng
4/ Đặc điểm, bản chất của hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Các thành phố thường nóng hơn vùng quê xung quanh khoảng 4 0C và
ngày một mở rộng hơn, và sự chênh lệch nhiệt độ đó ngày một lớn hơn. Để tìm
hiểu nguyên do, chúng ta phải xét đến sự cân bằng năng lượng của hai khu vực
(hình 1). Mặc dù việc đun nấu, sưởi ấm, điều hòa không khí và đi lại đều tạo ra
năng lượng trong các thành phố, nhưng đây lại là một thành phồ nhỏ đến bất ngờ
của sự cân bằng nhiệt của chúng – chỉ khoảng 50 W/m2. Ngoại trừ vào mùa
đông, con số này rõ ràng là nhỏ so với năng lượng chúng ta thu nhận từ Mặt trời,
năng lượng đó thậm chí ở nước Anh cũng có cực đại là hơn 800 W/m2. Sự chênh
lệch nhiệt độ của thành phố và vùng quê xung quanh, vì thế, chủ yếu là do cái
xảy ra với năng lượng Mặt trời trong hai môi trường đó.
Ở khu vực nông thôn, cây cối phản xạ khoảng một phần tư bức xạ sóng
ngắn tới (ánh sáng nhìn thấy hoặc những bước sóng ngắn hơn). Trong số ba
phần tư bị hấp thụ, phần lớn năng lượng được sử dụng để làm bay hơi nước từ lá
cây – một quá trình gọi là “thoát hơi nước”. Quá trình này làm mát cây cối, do
đó phát ra ít bức xạ sóng dài (hồng ngoại), và còn làm giảm phần năng lượng
còn lại để làm nóng không khí bởi sự đối lưu và làm nóng đất đai bởi sự dẫn
nhiệt.
Nhiệt độ thành phố vào cuối buổi chiều
Ở các thành phố, nơi cây cối phần lớn được thay thế bởi những tòa nhà và
đường xá, sự cân bằng năng lượng đó bị dịch chuyển nhiều. Các vật liệu nhân
tạo, màu tối phản xạ ít – và hấp thụ nhiều – bức xạ hơn so với cây cối. “Suất
phản chiếu” thấp hơn này có nghĩa là chỉ khoảng 10% bức xạ của Mặt trời bị
phản xạ; con số này thậm chí còn thấp hơn ở thành phố cao tầng, nơi ánh sáng bị
phản xạ trở xuống các “hẻm núi” đô thị. Hầu như toàn bộ năng lượng này đi vào
làm nóng đường phố khô ráo và các mái nhà, nơi nó được trữ lại bên trong gạch
vữa, hoặc làm nóng không khí phía bên trên, do đó làm tăng nhiệt độ không khí
và nhiệt độ mặt ban ngày so với môi trường vùng quê xung quanh.
Hình 1. Sự trao đổi năng lượng ở khu vực nông thôn và đô thị. Các thành phố
có ít sự phản xạ và bay hơi hơn, nhưng đối lưu nhiệt nhiều hơn và trữ lại một
phần nhiệt suốt đêm trong các tòa nhà. Ở đây, dòng năng lượng tỉ lệ với bề rộng
của các mũi tên.
Ban đêm, sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng quê và hòn đảo nhiệt đô thị có
thể trở nên dễ nhận thấy hơn nữa. Các thành phố nguội đi từ từ vì có nhiều nhiệt
trữ lại trong các tòa nhà của nó, chúng liên tục tiêu tán nhiệt vào bầu không khí
đêm; vì có nhiều chất ô nhiễm bắt giữ bức xạ sóng dài; và bên trong các hẻm núi
đô thị, có ít không gian bầu trời thoáng đãng phía trên có thể nhìn thấy, cho nên
có ít bức xạ có thể thoát ra ngoài hơn.
Tất cả những điều này đang gây khổ sở cho cư dân đô thị. Sự gia tăng
nhiệt độ không khí đô thị so với nhiệt độ của vùng quê xung quanh, cái có thể
đạt tới 70C ở một thành phố như London, khiến cho các thành phố là những nơi
kém dễ chịu hơn để sinh sống trong những tháng mùa hè. Nhiệt độ tăng lên cũng
làm tăng nguy cơ bệnh tật và thậm chí có thể giết người trong những đợt nắng
nóng: người ta cho rằng hơn 35.000 người chết ở châu Âu là do hệ quả của đợt
nắng nóng năm 2003, phần lớn trong số họ sống ở các thị tứ và thành phố. Hòn
đảo nhiệt đô thị còn làm cho các thành phố khó thở hơn, vì nó làm tăng lượng
năng lượng dùng cho điều hòa không khí – năng lượng được bơm vào không khí
ngoài trời và làm cho tình hình thêm tồi tệ.
Về nguyên tắc, các hiệu ứng đảo nhiệt đô thị có thể xảy ra trong suốt cả
năm. Tuy nhiên, đối với đời sống và tiêu dùng bị ảnh hưởng chủ yếu là thời tiết
nóng trong hiệu ứng đảo nhiệt mùa hè. Để giảm nhiệt độ trong nhà và lưu thông
không khí trong nhà, người sử dụng điều hòa không khí, người hâm mộ và các
thiết bị khác, và những nhu cầu tiêu thụ rất nhiều điện năng. Nếu năm 2012 Mỹ
1/6 lượng điện tiêu thụ cho mục đích làm mát, điều này tương đương với 4 tỉ
USD mỗi năm thanh toán tiền điện. Thời tiết nóng trên sức khỏe con người cũng
bị ảnh hưởng xấu. Nghiên cứu cho thấy nhiệt độ môi trường là trên 28 0C, mọi
người sẽ có cảm giác khó chịu, nhiệt độ cao cũng dễ dẫn đến khó chịu, nhiệt đột
quỵ, rối loạn tâm thần và các triệu chứng khác, nhiệt độ vẫn trên 34 0C, có thể
dẫn đến một loạt các bệnh, đặc biệt là tim, bệnh mạch máu não và hô hấp tăng tỷ
lệ mắc, tỷ lệ tử vong tăng lên đáng kể. Ngoài ra, nhiệt độ cao hơn sẽ đẩy nhanh
tốc độ phản ứng quang hóa, do đó nồng độ ozone trong khí quyển gần mặt đất
làm tăng ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Một đô thị đông dân với dân số từ 5 – 8 triệu người trở lên, quá trình tiêu
thụ năng lượng sẽ càng cao thường tạo ra nhiệt độ trung bình cao hơn so với
vùng nông thôn ngoại vi từ 7 – 80C.
4/ Những biện pháp hạn chế, khắc phục hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Các bề mặt nguội
Việc tăng suất phản chiếu của các tòa nhà và đường xá để chúng phản xạ
nhiều ánh sáng mặt trời hơn là một phương pháp đã được sử dụng trong hàng
thế kỉ ở Địa Trung Hải – hãy nghĩ tới những ngôi nhà quét vôi trắng ở Hi Lạp,
miền nam Italy và Tây Ban Nha. Tại phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence
Berkeley ở California, tính hiệu quả của phương pháp này đã được nghiên cứu
bởi Nhóm Nghiên cứu Hòn đảo Nhiệt Đô thị, đứng đầu là nhà vật lí Hashem
Akbari. Tác dụng làm nguội của các mái nhà tùy thuộc và các tính chất phản
chiếu và phát xạ của nó – khả năng của nó phản xạ các bước sóng ngắn như ánh
sáng khả kiến và bức xạ hồng ngoại gần, và phát ra bức xạ nhiệt trong vùng
hồng ngoại xa. Trong khi những bề mặt sơn màu trắng bình thường giữ nguội
tốt, thì người ta còn có thể chế tạo các bề mặt nguội sơn màu trung-bình-tối, loại
dễ bắt gặp hơn trên các mái nhà hiện nay. Các bề mặt này được tạo ra bằng cách
kết hợp một lớp sơn nền phản xạ, thí dụ như titanium dioxide trắng, với một sắc
tố tối hơn có hệ số phản xạ khả kiến vừa phải, thí dụ như oxide sắt đỏ hoặc
perylene đen. Từ hồi năm 1999, nhóm của Akbari đã chứng tỏ được rằng
“những bề mặt nguội” này có thể làm giảm nhiệt độ cực đại của các mái nhà và
vỉa hè ở California từ 50o C xuống còn khoảng 30oC.
Cũng nhóm trên đã nghiên cứu các ứng dụng của sự làm nguội này cho
các tòa nhà tư nhân. Trước tiên, các nhà nghiên cứu so sánh hiệu suất nhiệt của
các tòa nhà thông thường với các tòa nhà giống hệt có mái nhà phủ các bề mặt
nguội. Những thí nghiệm kiểm tra này cho thấy vào mùa hè, các bề mặt nguội
thường làm giảm chi phí điều hòa không khí đi 20-30%. Tuy nhiên, những thí
nghiệm này đã bỏ qua tác dụng làm nguội lũy tích có thể thu được từ việc sử
dụng quy mô lớn các chất liệu nguội trong toàn thành phố.
Để nghiên cứu tác dụng của các chất liệu nguội trên hòn đảo nhiệt đô thị,
nhóm của Akbari phải sử dụng các phương pháp gián tiếp hơn, vì rõ ràng việc
tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm có điều khiển so sánh hai thành phố
giống hệt nhau về mọi phương diện, ngoại trừ sự che phủ bề mặt của chúng, là
hoàn toàn không khả thi. Cái các nhà nghiên cứu đã làm là mô phỏng nhiệt độ
không khí ở khu vực Los Angeles, sử dụng các mô hình khí hậu chạy trên máy
tính cực mạnh và phức tạp. Các phép tính cho thấy hòn đảo nhiệt đô thị có thể
giảm đi 2oC nếu toàn bộ các tòa nhà và đường xá được phủ những bề mặt có
suất phản xạ cao hơn hiện nay 30%. Sự giảm nhiệt độ này làm giảm chi phí điều
hòa không khí vào mùa hè đi thêm 2-3% nữa.
Phủ xanh các tòa nhà
Một phương pháp kiểm soát hòn đảo nhiệt đô thị có khả năng còn hiệu
quả hơn so với sử dụng các bề mặt nguội là gia tăng suất phản xạ lẫn sự nguội đi
do bay hơi của các thành phố thông qua cây cối và nước. Lại một lần nữa,
phương pháp này đã được sử dụng phổ biến từ lâu ở các thành phố thuộc Địa
Trung Hải, nơi có những quãng trường mát mẻ và những con đường lớn phủ đầy
bóng cây và được làm mát bằng những vòi phun nước.
Các nhà nghiên cứu ở Mĩ, thí dụ như nhóm của Akbari và Cục Lâm
nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kì (USDA) do David Nowak lãnh đạo, chủ
yếu tập trung vào khảo sát xem bóng cây có thể làm chi phí điều hòa không khí
của các tòa nhà như thế nào. Các thí nghiệm và mô phỏng máy tính chứng tỏ
rằng một số cây xanh lớn được trồng có chiến lược ở phía nam và phía tây của
các tòa nhà có thể cắt giảm chi phí này đi khoảng 30%. Tuy nhiên, tác dụng làm
nguội của cây xanh hiện có ở thành phố mà họ nghiên cứu – Chicago – chỉ vào
khoảng 4-5% do độ che phủ hạn chế của thành phố này, đặc biệt là ở những khu
vực xây dựng cao tầng tập trung.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở Đức và Canada tập trung vào các tác
dụng của một phương pháp khác: đưa cây cối lên trên nóc của các tòa nhà để tạo
ra những “mái nhà xanh”. Các nghiên cứu do Brad Bass và nhóm của ông ở
Trung tâm Môi trường tại trường Đại học Toronto thực hiện hồi năm 2008 cho
thấy bằng cách sử dụng các mái nhà xanh, chi phí điều hòa không khí có thể
giảm đi tới 70% ở những căn nhà một tầng do cây cối làm nguội mái nhà qua sự
thoát hơi nước và do đất trồng tách li các phòng ốc bên dưới khỏi dòng nhiệt.
Tuy nhiên, những chi phí tiết kiệm này tương ứng giảm đi khoảng 30% và 20%
đối với các tòa nhà hai và ba tầng.
Phủ xanh đường phố
Việc xác định xem cây cối có hiệu quả như thế nào đối với sự nguội đi
của một thành phố tỏ ra khó hơn nhiều, do tính phức tạp của nó; cây cối làm
tăng suất phản xạ lẫn sự nguội đi do bốc hơi, và có rất nhiều tầng lá cây, đó là
cái khó thể hiện trong các mô hình khí hậu vùng. Một nỗ lực như vậy đã được
thực hiện bởi Limor Shashua-Bar và Milo Hoffman thuộc Viện Công nghệ
Technion Israel, họ nhận thấy rằng các đường phố phủ nhiều cây xanh ở Tel
Aviv có thể có nhiệt độ không khí nguội hơn môi trường xung quanh đến 4 oC.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu phải biểu diễn tác dụng của cây xanh không phải
bằng một mô hình chi tiết mà đơn giản là bởi sự giảm đi bức xạ tới khoảng 40%.
Trước khi chúng ta có thể lập mô phỏng chính xác các tác dụng của cây xanh lên
hòn đảo nhiệt đô thị, rõ ràng chúng ta cần phải biết nhiều thứ hơn.
Một phương pháp xác định cái gì đang xảy ra, thực hiện bởi một nhóm ở
trường Đại học Basel, Thụy Sĩ, đứng đầu là nhà thực vật học Sebastian
Leuzinger và nhà khí tượng học Roland Vogt, là sử dụng một camera nhiệt phân
giải cao gắn trên trực thăng. Các nhà nghiên cứu đã đo nhiệt độ bề mặt của các
bộ phận thuộc Basel vào một ngày mùa hè nắng nóng khi nhiệt độ không khí là
25oC. Họ nhận thấy đường phố đạt tới nhiệt độ 37 oC và các mái nhà là 45oC,
trong khi nhiệt độ cây cối trung bình chỉ là 25 oC và các vật có nước là 18 oC.
Những con số này có khả năng cho vào một mô hình khí hậu vùng để mang lại
một gợi ý của các tác dụng của cây xanh lên nhiệt độ không khí. Tuy nhiên, kết
quả này đã bỏ qua độ cao của tán cây; nhưng tầng lá thấp hơn, bị những tầng lá
trên che phủ, sẽ nguội hơn những tầng lá bên trên. Vì thế, cây xanh sẽ mang lại
sự làm nguội nhiều hơn cái được tiên đoán từ các phép đo camera nhiệt.
Để giải quyết vấn đề này, nhóm của tôi tại trường Đại học Manchester,
bao gồm các nhà vật lí, nhà sinh học và nhà lập kế hoạch, đã sử dụng một mô
hình cân bằng năng lượng đơn giản để tính ra nhiệt độ bề mặt của cây cối, các
tòa nhà và đường phố tiêu biểu (hình 1). Vốn được phát triển ban đầu bởi Chih
Pin Tso, khi đó làm việc tại trường Đại học Malaya, Kuala Lumpur, vào thập
niên 1990, mô hình trên đề xuất rằng cây xanh có tác dụng hiệu quả hơn so với
các phép đo nhiệt của Basel đề xuất. Vào những ngày nắng nóng, nhiệt độ cực
đại theo dự đoán của vùng rừng nguội hơn 18-25oC so với nhiệt độ của các tòa
nhà và đường phố.
Nhóm của chúng tôi đã sử dụng khu vực Greater Manchester làm một
trường hợp nghiên cứu, vùng này bao gồm toàn bộ thành phố Manchester và các
đô thị vệ tinh của nó. Trước tiên, chúng tôi phân loại kiểu cây xanh của khu vực
bằng ảnh chụp từ trên máy bay (hình 2) và nhận thấy rằng, thật bất ngờ đối với
một khu vực xây dựng công nghiệp, 59% vùng Greater Manchester được bao
phủ bởi cây xanh thoát hơi nước. Tất nhiên, độ bao phủ cây xanh, và do đó nhiệt
độ bề mặt mà mô hình tiên đoán, không đồng đều trong toàn khu vực. Các khu
vực đông đúc như trung tâm thành phố có độ che phủ cây xanh chưa tới 30% và
nóng hơn các không gian xanh tới 13oC. Chúng tôi còn thao tác với không gian
xanh trong mô hình để tiến hành các “thí nghiệm” thông thường không thể thực
hiện được. Chẳng hạn, chúng tôi đã chứng minh được rằng việc bổ sung thêm
10% độ che phủ cây xanh cho các trung tâm thành phố sẽ làm giảm nhiệt độ bề
mặt cực đại đi khoảng 4oC. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi thật
sự cần phải đưa vào một mô hình khí hậu vùng để có thể tính ra nhiệt độ không
khí.
Hình 2. Sự phân bố không đồng đều của các bề mặt thoát hơi nước xung
quanh vùng Greater Manchester ở Anh.
Một cái nữa các nhà khoa học cần phải khám phá ra là cây xanh và thảm
có tác dụng làm nguội tốt như thế nào so với các đối tượng khác. Cách tốt nhất
thực hiện điều này là khảo sát sự cân bằng năng lượng của các bề mặt một cách
trực tiếp hơn. Vì cây xanh tự nguội đi bởi sự thoát hơi nước, và nhiệt hóa hơi
của nước là không đổi ở mức 2,43 kJ/gram, nên sự làm nguội do một cây xanh
mang lại tỉ lệ với tốc độ mất nước của nó. Người ta có thể trông đợi cây cối
mang lại sự làm nguội nhiều hơn cỏ, vì lá của chúng được giữ cao hơn phía trên
mặt đất và vì thế sẽ mất nước nhanh hơn, giống như việc phơi quần áo trên sào;
mặt khác, cây xanh dẫn nước lên lá của chúng phải kháng lại trọng lực. Các nhà
vật lí môi trường và các nhà thực vật học đã phát triển các kĩ thuật đo sự mất
nước, chúng sẽ cho phép chúng ta kiểm tra những ý tưởng này.
Sự mất nước ở cỏ được đo tốt hơn bằng cách gắn lớp cỏ lên trên một cái
cân nhạy và theo dõi sự mất trọng lượng trong ngày. Sự mất nước ở cây cối
được đo bằng thước đo dòng nhựa: một vòng đệm làm nóng bằng điện áp các
xung nhiệt vào thân cây để làm nóng nhựa cây bên trong. Dụng cụ gắn cao trên
thân cây theo dõi nhiệt độ ở đó, cho phép tính ra vận tốc và, do đó, thể tích dòng
nước dâng lên thân cây. Sử dụng những kĩ thuật này, nhiều nghiên cứu do các
nhà lâm học và nông học thực hiện nhận thấy các rừng cây và thảm cỏ có sự
nguội đi do bay hơi là 100–200 W/m2. Nhưng ít có thông tin nào như thế này đối
với thảm cỏ và cây cối ở đô thị - cho nên việc nghiên cứu thực nghiệm là hết sức
cần thiết.
Bức xạ từ Mặt trời
Một lợi ích khí hậu tối hậu của cây xanh là mang lại những ốc đảo mát mẻ
để nghỉ dưỡng. Nhiều nghiên cứu, do đó, đã so sánh nhiệt độ không khí trong
các công viên với nhiệt độ không khí trên đường phố xung quanh, chỉ để nhận ra
rằng, ngoại trừ vào những ngày thật sự lặng gió, sự chênh lệch nhiệt độ là khá
nhỏ - thường chưa tới 1oC, vì không khí ấm từ môi trường xung quanh cứ thổi
vào công viên. Vậy thì tại sao khi ở trong công viên chúng ta cảm thấy mát mẻ
hơn, và bóng cây thật sự có tác dụng gì?
Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta phải xét sự cân bằng nhiệt của một
người. Ở trạng thái nghỉ, cơ thể một người sản sinh ra nhiệt ở tốc độ khỏng
60 W/m2 bề mặt cơ thể của chúng ta. Chúng ta cảm thấy nóng như thế nào là tùy
thuộc vào chỗ chúng ta có thể mất nhiệt làm nóng môi trường xung quanh chúng
ta đều đặn như thế nào. Thật bất ngờ, ngoại trừ trong những cơn gió rất cao,
chúng ta mất rất ít nhiệt bởi sự đối lưu – chỉ khoảng 9 W/m2 – và khoảng
15 W/m2 bởi sự bay hơi từ hơi thở của chúng ta. Tuy nhiên, mọi cá thể đều phát
ra bức xạ hồng ngoại xa ở tốc độ tỉ lệ với lũy thừa bốn của nhiệt độ của chúng,
nhưng chúng cũng hấp thụ bức xạ ấy từ môi trường xung quanh của chúng. Do
đó, nếu môi trường xung quanh chúng ta lạnh hơn 37 oC, thì rốt cuộc chúng ta có
sự mất nhiệt do bức xạ.
Ở ngoài một công viên đầy bóng râm, chúng ta cảm thấy dễ chịu vì chúng
ta bị vây quanh bởi những tán lá mát lạnh. Ở trên một đường phố rộng thênh
thang, trái lại, chúng ta cảm thấy nóng hơn vì hai nguyên do: thứ nhất, chúng ta
nhận thêm tới 120 W/m2 bức xạ sóng ngắn từ Mặt trời đến; thứ hai, nhựa đường
xung quanh cũng nóng hơn, làm giảm sự mất nhiệt do bức xạ khoảng 6
W/m2 đối với mỗi sự tăng nhiệt độ 1 oC. Trong những điều kiện như vậy, chúng
ta phải toát mồ hôi để giải thoát cho gánh nặng nhiệt bổ sung.
Để nghiên cứu tầm quan trọng tương đối của Mặt trời theo bóng râm trên
nhiệt độ của môi trường xung quanh, chúng tôi đã thực hiện một thí nghiệm đơn
giản vào mùa hè năm 2009. Thí nghiệm theo dõi nhiệt độ bức xạ trên cỏ và các
thảm bê tông, chúng hoặc nằm trong bóng nắng vĩnh viễn hoặc nằm trong bóng
cây vĩnh viễn. Chúng tôi thực hiện thí nghiệm với một nhiệt độ cầu, về cơ bản là
một nhiệt kế gắn bên trong một quả cầu plastic màu xám. Giữ ở độ cao 1,1 mét,
thí nghiệm này nhại lại các tính chất nhiệt của một người trưởng thành mặc y
phục. Chúng tôi nhận thấy việc ở trên cỏ hoặc bê tông có ít ảnh hưởng lên nhiệt
độ bức xạ; những điều kiện này bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi bóng râm, chúng
làm giảm nhiệt độ bức xạ cực đại lên tới 9 oC, từ 35oC xuống 26oC. Vì người ta
có xu hướng cảm thấy không thoải mái ở những nhiệt độ bức xạ trên 24 oC, cho
nên rõ ràng là bóng râm có tác dụng lớn lên cảm giác dễ chịu của mọi người, do
đó xác nhận tầm quan trọng của cây xanh ở khu vực đô thị.
Tác động lên chính sách đô thị
Toàn bộ nghiên cứu này là dựng nên một bức tranh mô tả xem chúng ta
có thể cải tạo các đô thị như thế nào: cây cối có tiềm năng lớn nhất cải tiến các
môi trường đô thị, còn những bề mặt nguội, các mái nhà xanh và thậm chí
“những bức tường sống” có thể cải thiện hiệu suất môi trường của từng tòa nhà
một. Ngoài ra, hạ tầng kiến trúc xanh còn có những lợi ích khác thí dụ như làm
giảm sự ngập tràn ánh nắng chói chang và sự ô nhiễm hạt không khí. Tuy vậy,
rõ ràng vẫn có rất nhiều việc phải làm nữa. Chúng ta không biết những loài cây
nào có thể làm mát đô thị và bắt giữ các hạt ô nhiễm tốt nhất, không biết một
cây to thì có tốt hơn nhiều cây nhỏ hay không, hay cây rụng lá có tốt hơn cây
thường xanh hay không. Chúng ta cũng chẳng biết hiệu quả của những loại thực
vật khác nhau sẽ thay đổi như thế nào theo sự biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, chúng ta thật sự biết đủ để tác động đến các nhà hoạch định
chính sách. Các nhà khoa học thuộc Cục Lâm nghiệp Mĩ, chẳng hạn, đã hợp tác
với các nhà kinh tế học để ước tính những lợi ích kinh tế của việc trồng cây xanh
đường phố, từ việc làm giảm chi phí năng lượng cho đến việc giảm chi phí chăm
sóc sức khỏe do sự ô nhiễm không khí. Mô hình kinh tế mà họ sáng tạo ra – mô
hình iTree – cho thấy với mỗi đô la đầu tư vào trồng và bảo dưỡng cây xanh
đường phố thì người ta tiết kiệm được năm đô la. Ở New York, kiến thức này,
cùng với sự hậu thuẫn của thị trưởng Michael Bloomberg, đã đưa đến việc trồng
mới 20.000 cây xanh đường phố mỗi năm, còn thị trưởng London, Boris
Johnson, cũng đã cam kết trồng mới thêm 10.000 cây xanh đường phố trong
nhiệm kì chính trị của ông. Cùng với cây xanh, người ta còn triển khai giải pháp
mái nhà xanh cho những tòa nhà mới mọc ở các thành phố lớn. Thật vui khi
chúng ta có thể nói rằng chính các nhà vật lí đang góp phần làm cho các thành
phố của chúng ta ngày một xanh hơn, dễ chịu hơn để sống.
Lời kết
Tóm lại, đảo nhiệt đô thị là một trong những hậu quả để lại của quá trình
đô thị hóa. Hiện nay, hiện tượng này cùng với biến đổi khí hậu toàn cầu đã và
đang làm cho thời tiết và khí hậu trên thế giới nói chung và các thành phố nói
riêng ngày trở nên oi bức và khó chịu hơn. Tuy nhiên, đô thị hóa là qúa trình tất
yếu của sự phát triển của xã hội, chính vì vậy không còn cách nào khác là chúng
ta phải sống chung với những hậu quả gây ra do quá trình đọ thị hóa để lại với
sự thích ứng và những biện pháp nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của “Đảo nhiệt
đô thị” tới đời sống con người và tự nhiên.
Tài liệu tham khảo
- TS. Trương Văn Tuấn, Giáo trình địa lí học và một số vấn đề về môi
trường, ĐHSP TP. HCM
-
Luke Howard, The climate of London, deduced from Meteorological
observations, made at different places in the neighbourhood of the
metropolis, 2 vol., London
-
Physics World, tháng 8/2010
- />
Lời nói đầu
Những năm gần đây, nhiều thành phố trên thế giới thời tiết và khí hậu trở
nên nóng và oi bức, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người dân. Nhiều người cho
rằng đó là biểu hiện của biến đổi khí hậu, tuy nhiên, theo số liệu của của nhiều
đai quan trắc, cạnh những thành phố có nhiệt độ tăng lên cao là những nước có
nhiệt độ tăng lên rất chậm. Vì vậy, nguyên nhân chủ yếu khiến nhiệt độ thành
phố tăng nhanh không phải do biến đổi khí hậu mà là hậu quả của quá trình đô
thị hóa thiếu bền vững dẫn đến hiện tượng “Đảo nhiệt đô thị” hay còn gọi là
“Hòn đỏa nhiệt đô thị”, khiến nhiệt độ ở các đô thị, các thành phố tăng cao.
1/ Khái niệm hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Đảo nhiệt đô thị (Urban heat island) được hiểu là hiện tượng nóng lên ở
khu vực trung tâm của thành phố hay sư chênh lệch giữa nhiệt độ của đô thị lõi
so với khu vực ngoại ô, nông thôn xung quanh.
2/ Lịch sử nghiên cứu hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Vào năm 1810, Luke Howard là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả hiện
tượng này, mặc dù ông không phải là người đã đặt tên cho hiện tượng. Hiện
tượng đảo nhiệt đô thị đã được tập trung nghiên cứu nhiều hơn từ những năm 20
của thế kỷ XX tại thành phố Luân đôn, Anh. Trong những năm gần đây, được
tiếp tục quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khí hậu học ở các thành phố lớn trên
thế giới đã xác định hiện tượng đảo nhiệt là sự chênh lệch nhiệt độ giữa thành
phố trung tâm với các vùng nông thôn xung quanh.
3/ Nguyên nhân sinh ra hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Nguyên nhân chính của đảo nhiệt đô thị là sự thay đổi bề mặt sử dụng đất
trong quá trình phát triển đô thị. Quá trình này sử dụng nhiều loại vật liệu có tác
dụng giữ nhiệt hiệu quả. Nhân tố thứ hai góp phần tạo ra đảo nhiệt đô thị là
lượng nhiệt thải ra do quá trình sử dụng năng lượng. Khi các trung tâm đông dân
cư phát triển, người dân có xu hướng thay đổi diện tích đất đai nhiều và ngày
càng nhiều hơn nữa, gây ra sự gia tăng nhiệt độ trung bình tương ứng
4/ Đặc điểm, bản chất của hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Các thành phố thường nóng hơn vùng quê xung quanh khoảng 4 0C và
ngày một mở rộng hơn, và sự chênh lệch nhiệt độ đó ngày một lớn hơn. Để tìm
hiểu nguyên do, chúng ta phải xét đến sự cân bằng năng lượng của hai khu vực
(hình 1). Mặc dù việc đun nấu, sưởi ấm, điều hòa không khí và đi lại đều tạo ra
năng lượng trong các thành phố, nhưng đây lại là một thành phồ nhỏ đến bất ngờ
của sự cân bằng nhiệt của chúng – chỉ khoảng 50 W/m2. Ngoại trừ vào mùa
đông, con số này rõ ràng là nhỏ so với năng lượng chúng ta thu nhận từ Mặt trời,
năng lượng đó thậm chí ở nước Anh cũng có cực đại là hơn 800 W/m2. Sự chênh
lệch nhiệt độ của thành phố và vùng quê xung quanh, vì thế, chủ yếu là do cái
xảy ra với năng lượng Mặt trời trong hai môi trường đó.
Ở khu vực nông thôn, cây cối phản xạ khoảng một phần tư bức xạ sóng
ngắn tới (ánh sáng nhìn thấy hoặc những bước sóng ngắn hơn). Trong số ba
phần tư bị hấp thụ, phần lớn năng lượng được sử dụng để làm bay hơi nước từ lá
cây – một quá trình gọi là “thoát hơi nước”. Quá trình này làm mát cây cối, do
đó phát ra ít bức xạ sóng dài (hồng ngoại), và còn làm giảm phần năng lượng
còn lại để làm nóng không khí bởi sự đối lưu và làm nóng đất đai bởi sự dẫn
nhiệt.
Ở các thành phố, nơi cây cối phần lớn được thay thế bởi những tòa nhà và
đường xá, sự cân bằng năng lượng đó bị dịch chuyển nhiều. Các vật liệu nhân
tạo, màu tối phản xạ ít – và hấp thụ nhiều – bức xạ hơn so với cây cối. “Suất
phản chiếu” thấp hơn này có nghĩa là chỉ khoảng 10% bức xạ của Mặt trời bị
phản xạ; con số này thậm chí còn thấp hơn ở thành phố cao tầng, nơi ánh sáng bị
phản xạ trở xuống các “hẻm núi” đô thị. Hầu như toàn bộ năng lượng này đi vào
làm nóng đường phố khô ráo và các mái nhà, nơi nó được trữ lại bên trong gạch
vữa, hoặc làm nóng không khí phía bên trên, do đó làm tăng nhiệt độ không khí
và nhiệt độ mặt ban ngày so với môi trường vùng quê xung quanh.
Hình 1. Sự trao đổi năng lượng ở khu vực nông thôn và đô thị. Các thành phố
có ít sự phản xạ và bay hơi hơn, nhưng đối lưu nhiệt nhiều hơn và trữ lại một
phần nhiệt suốt đêm trong các tòa nhà. Ở đây, dòng năng lượng tỉ lệ với bề rộng
của các mũi tên.
Ban đêm, sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng quê và hòn đảo nhiệt đô thị có
thể trở nên dễ nhận thấy hơn nữa. Các thành phố nguội đi từ từ vì có nhiều nhiệt
trữ lại trong các tòa nhà của nó, chúng liên tục tiêu tán nhiệt vào bầu không khí
đêm; vì có nhiều chất ô nhiễm bắt giữ bức xạ sóng dài; và bên trong các hẻm núi
đô thị, có ít không gian bầu trời thoáng đãng phía trên có thể nhìn thấy, cho nên
có ít bức xạ có thể thoát ra ngoài hơn.
Tất cả những điều này đang gây khổ sở cho cư dân đô thị. Sự gia tăng
nhiệt độ không khí đô thị so với nhiệt độ của vùng quê xung quanh, cái có thể
đạt tới 70C ở một thành phố như London, khiến cho các thành phố là những nơi
kém dễ chịu hơn để sinh sống trong những tháng mùa hè. Nhiệt độ tăng lên cũng
làm tăng nguy cơ bệnh tật và thậm chí có thể giết người trong những đợt nắng
nóng: người ta cho rằng hơn 35.000 người chết ở châu Âu là do hệ quả của đợt
nắng nóng năm 2003, phần lớn trong số họ sống ở các thị tứ và thành phố. Hòn
đảo nhiệt đô thị còn làm cho các thành phố khó thở hơn, vì nó làm tăng lượng
năng lượng dùng cho điều hòa không khí – năng lượng được bơm vào không khí
ngoài trời và làm cho tình hình thêm tồi tệ.
Về nguyên tắc, các hiệu ứng đảo nhiệt đô thị có thể xảy ra trong suốt cả
năm. Tuy nhiên, đối với đời sống và tiêu dùng bị ảnh hưởng chủ yếu là thời tiết
nóng trong hiệu ứng đảo nhiệt mùa hè. Để giảm nhiệt độ trong nhà và lưu thông
không khí trong nhà, người sử dụng điều hòa không khí, người hâm mộ và các
thiết bị khác, và những nhu cầu tiêu thụ rất nhiều điện năng. Nếu năm 2012 Mỹ
1/6 lượng điện tiêu thụ cho mục đích làm mát, điều này tương đương với 4 tỉ
USD mỗi năm thanh toán tiền điện. Thời tiết nóng trên sức khỏe con người cũng
bị ảnh hưởng xấu. Nghiên cứu cho thấy nhiệt độ môi trường là trên 28 0C, mọi
người sẽ có cảm giác khó chịu, nhiệt độ cao cũng dễ dẫn đến khó chịu, nhiệt đột
quỵ, rối loạn tâm thần và các triệu chứng khác, nhiệt độ vẫn trên 34 0C, có thể
dẫn đến một loạt các bệnh, đặc biệt là tim, bệnh mạch máu não và hô hấp tăng tỷ
lệ mắc, tỷ lệ tử vong tăng lên đáng kể. Ngoài ra, nhiệt độ cao hơn sẽ đẩy nhanh
tốc độ phản ứng quang hóa, do đó nồng độ ozone trong khí quyển gần mặt đất
làm tăng ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Một đô thị đông dân với dân số từ 5 – 8 triệu người trở lên, quá trình tiêu
thụ năng lượng sẽ càng cao thường tạo ra nhiệt độ trung bình cao hơn so với
vùng nông thôn ngoại vi từ 7 – 80C.
4/ Những biện pháp hạn chế, khắc phục hiện tượng đảo nhiệt đô thị
Các bề mặt nguội
Việc tăng suất phản chiếu của các tòa nhà và đường xá để chúng phản xạ
nhiều ánh sáng mặt trời hơn là một phương pháp đã được sử dụng trong hàng
thế kỉ ở Địa Trung Hải – hãy nghĩ tới những ngôi nhà quét vôi trắng ở Hi Lạp,
miền nam Italy và Tây Ban Nha. Tại phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence
Berkeley ở California, tính hiệu quả của phương pháp này đã được nghiên cứu
bởi Nhóm Nghiên cứu Hòn đảo Nhiệt Đô thị, đứng đầu là nhà vật lí Hashem
Akbari. Tác dụng làm nguội của các mái nhà tùy thuộc và các tính chất phản
chiếu và phát xạ của nó – khả năng của nó phản xạ các bước sóng ngắn như ánh
sáng khả kiến và bức xạ hồng ngoại gần, và phát ra bức xạ nhiệt trong vùng
hồng ngoại xa. Trong khi những bề mặt sơn màu trắng bình thường giữ nguội
tốt, thì người ta còn có thể chế tạo các bề mặt nguội sơn màu trung-bình-tối, loại
dễ bắt gặp hơn trên các mái nhà hiện nay. Các bề mặt này được tạo ra bằng cách
kết hợp một lớp sơn nền phản xạ, thí dụ như titanium dioxide trắng, với một sắc
tố tối hơn có hệ số phản xạ khả kiến vừa phải, thí dụ như oxide sắt đỏ hoặc
perylene đen. Từ hồi năm 1999, nhóm của Akbari đã chứng tỏ được rằng
“những bề mặt nguội” này có thể làm giảm nhiệt độ cực đại của các mái nhà và
vỉa hè ở California từ 50o C xuống còn khoảng 30oC.
Cũng nhóm trên đã nghiên cứu các ứng dụng của sự làm nguội này cho
các tòa nhà tư nhân. Trước tiên, các nhà nghiên cứu so sánh hiệu suất nhiệt của
các tòa nhà thông thường với các tòa nhà giống hệt có mái nhà phủ các bề mặt
nguội. Những thí nghiệm kiểm tra này cho thấy vào mùa hè, các bề mặt nguội
thường làm giảm chi phí điều hòa không khí đi 20-30%. Tuy nhiên, những thí
nghiệm này đã bỏ qua tác dụng làm nguội lũy tích có thể thu được từ việc sử
dụng quy mô lớn các chất liệu nguội trong toàn thành phố.
Để nghiên cứu tác dụng của các chất liệu nguội trên hòn đảo nhiệt đô thị,
nhóm của Akbari phải sử dụng các phương pháp gián tiếp hơn, vì rõ ràng việc
tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm có điều khiển so sánh hai thành phố
giống hệt nhau về mọi phương diện, ngoại trừ sự che phủ bề mặt của chúng, là
hoàn toàn không khả thi. Cái các nhà nghiên cứu đã làm là mô phỏng nhiệt độ
không khí ở khu vực Los Angeles, sử dụng các mô hình khí hậu chạy trên máy
tính cực mạnh và phức tạp. Các phép tính cho thấy hòn đảo nhiệt đô thị có thể
giảm đi 2oC nếu toàn bộ các tòa nhà và đường xá được phủ những bề mặt có
suất phản xạ cao hơn hiện nay 30%. Sự giảm nhiệt độ này làm giảm chi phí điều
hòa không khí vào mùa hè đi thêm 2-3% nữa.
Phủ xanh các tòa nhà
Một phương pháp kiểm soát hòn đảo nhiệt đô thị có khả năng còn hiệu
quả hơn so với sử dụng các bề mặt nguội là gia tăng suất phản xạ lẫn sự nguội đi
do bay hơi của các thành phố thông qua cây cối và nước. Lại một lần nữa,
phương pháp này đã được sử dụng phổ biến từ lâu ở các thành phố thuộc Địa
Trung Hải, nơi có những quãng trường mát mẻ và những con đường lớn phủ đầy
bóng cây và được làm mát bằng những vòi phun nước.
Các nhà nghiên cứu ở Mĩ, thí dụ như nhóm của Akbari và Cục Lâm
nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kì (USDA) do David Nowak lãnh đạo, chủ
yếu tập trung vào khảo sát xem bóng cây có thể làm chi phí điều hòa không khí
của các tòa nhà như thế nào. Các thí nghiệm và mô phỏng máy tính chứng tỏ
rằng một số cây xanh lớn được trồng có chiến lược ở phía nam và phía tây của
các tòa nhà có thể cắt giảm chi phí này đi khoảng 30%. Tuy nhiên, tác dụng làm
nguội của cây xanh hiện có ở thành phố mà họ nghiên cứu – Chicago – chỉ vào
khoảng 4-5% do độ che phủ hạn chế của thành phố này, đặc biệt là ở những khu
vực xây dựng cao tầng tập trung.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở Đức và Canada tập trung vào các tác
dụng của một phương pháp khác: đưa cây cối lên trên nóc của các tòa nhà để tạo
ra những “mái nhà xanh”. Các nghiên cứu do Brad Bass và nhóm của ông ở
Trung tâm Môi trường tại trường Đại học Toronto thực hiện hồi năm 2008 cho
thấy bằng cách sử dụng các mái nhà xanh, chi phí điều hòa không khí có thể
giảm đi tới 70% ở những căn nhà một tầng do cây cối làm nguội mái nhà qua sự
thoát hơi nước và do đất trồng tách li các phòng ốc bên dưới khỏi dòng nhiệt.
Tuy nhiên, những chi phí tiết kiệm này tương ứng giảm đi khoảng 30% và 20%
đối với các tòa nhà hai và ba tầng.
Phủ xanh đường phố
Việc xác định xem cây cối có hiệu quả như thế nào đối với sự nguội đi
của một thành phố tỏ ra khó hơn nhiều, do tính phức tạp của nó; cây cối làm
tăng suất phản xạ lẫn sự nguội đi do bốc hơi, và có rất nhiều tầng lá cây, đó là
cái khó thể hiện trong các mô hình khí hậu vùng. Một nỗ lực như vậy đã được
thực hiện bởi Limor Shashua-Bar và Milo Hoffman thuộc Viện Công nghệ
Technion Israel, họ nhận thấy rằng các đường phố phủ nhiều cây xanh ở Tel
Aviv có thể có nhiệt độ không khí nguội hơn môi trường xung quanh đến 4 oC.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu phải biểu diễn tác dụng của cây xanh không phải
bằng một mô hình chi tiết mà đơn giản là bởi sự giảm đi bức xạ tới khoảng 40%.
Trước khi chúng ta có thể lập mô phỏng chính xác các tác dụng của cây xanh lên
hòn đảo nhiệt đô thị, rõ ràng chúng ta cần phải biết nhiều thứ hơn.
Một phương pháp xác định cái gì đang xảy ra, thực hiện bởi một nhóm ở
trường Đại học Basel, Thụy Sĩ, đứng đầu là nhà thực vật học Sebastian
Leuzinger và nhà khí tượng học Roland Vogt, là sử dụng một camera nhiệt phân
giải cao gắn trên trực thăng. Các nhà nghiên cứu đã đo nhiệt độ bề mặt của các
bộ phận thuộc Basel vào một ngày mùa hè nắng nóng khi nhiệt độ không khí là
25oC. Họ nhận thấy đường phố đạt tới nhiệt độ 37 oC và các mái nhà là 45oC,
trong khi nhiệt độ cây cối trung bình chỉ là 25 oC và các vật có nước là 18 oC.
Những con số này có khả năng cho vào một mô hình khí hậu vùng để mang lại
một gợi ý của các tác dụng của cây xanh lên nhiệt độ không khí. Tuy nhiên, kết
quả này đã bỏ qua độ cao của tán cây; nhưng tầng lá thấp hơn, bị những tầng lá
trên che phủ, sẽ nguội hơn những tầng lá bên trên. Vì thế, cây xanh sẽ mang lại
sự làm nguội nhiều hơn cái được tiên đoán từ các phép đo camera nhiệt.
Để giải quyết vấn đề này, nhóm của tôi tại trường Đại học Manchester,
bao gồm các nhà vật lí, nhà sinh học và nhà lập kế hoạch, đã sử dụng một mô
hình cân bằng năng lượng đơn giản để tính ra nhiệt độ bề mặt của cây cối, các
tòa nhà và đường phố tiêu biểu (hình 1). Vốn được phát triển ban đầu bởi Chih
Pin Tso, khi đó làm việc tại trường Đại học Malaya, Kuala Lumpur, vào thập
niên 1990, mô hình trên đề xuất rằng cây xanh có tác dụng hiệu quả hơn so với
các phép đo nhiệt của Basel đề xuất. Vào những ngày nắng nóng, nhiệt độ cực
đại theo dự đoán của vùng rừng nguội hơn 18-25oC so với nhiệt độ của các tòa
nhà và đường phố.
Nhóm của chúng tôi đã sử dụng khu vực Greater Manchester làm một
trường hợp nghiên cứu, vùng này bao gồm toàn bộ thành phố Manchester và các
đô thị vệ tinh của nó. Trước tiên, chúng tôi phân loại kiểu cây xanh của khu vực
bằng ảnh chụp từ trên máy bay (hình 2) và nhận thấy rằng, thật bất ngờ đối với
một khu vực xây dựng công nghiệp, 59% vùng Greater Manchester được bao
phủ bởi cây xanh thoát hơi nước. Tất nhiên, độ bao phủ cây xanh, và do đó nhiệt
độ bề mặt mà mô hình tiên đoán, không đồng đều trong toàn khu vực. Các khu
vực đông đúc như trung tâm thành phố có độ che phủ cây xanh chưa tới 30% và
nóng hơn các không gian xanh tới 13oC. Chúng tôi còn thao tác với không gian
xanh trong mô hình để tiến hành các “thí nghiệm” thông thường không thể thực
hiện được. Chẳng hạn, chúng tôi đã chứng minh được rằng việc bổ sung thêm
10% độ che phủ cây xanh cho các trung tâm thành phố sẽ làm giảm nhiệt độ bề
mặt cực đại đi khoảng 4oC. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi thật
sự cần phải đưa vào một mô hình khí hậu vùng để có thể tính ra nhiệt độ không
khí.
Hình 2. Sự phân bố không đồng đều của các bề mặt thoát hơi nước xung
quanh vùng Greater Manchester ở Anh.
Một cái nữa các nhà khoa học cần phải khám phá ra là cây xanh và thảm
có tác dụng làm nguội tốt như thế nào so với các đối tượng khác. Cách tốt nhất
thực hiện điều này là khảo sát sự cân bằng năng lượng của các bề mặt một cách
trực tiếp hơn. Vì cây xanh tự nguội đi bởi sự thoát hơi nước, và nhiệt hóa hơi
của nước là không đổi ở mức 2,43 kJ/gram, nên sự làm nguội do một cây xanh
mang lại tỉ lệ với tốc độ mất nước của nó. Người ta có thể trông đợi cây cối
mang lại sự làm nguội nhiều hơn cỏ, vì lá của chúng được giữ cao hơn phía trên
mặt đất và vì thế sẽ mất nước nhanh hơn, giống như việc phơi quần áo trên sào;
mặt khác, cây xanh dẫn nước lên lá của chúng phải kháng lại trọng lực. Các nhà
vật lí môi trường và các nhà thực vật học đã phát triển các kĩ thuật đo sự mất
nước, chúng sẽ cho phép chúng ta kiểm tra những ý tưởng này.
Sự mất nước ở cỏ được đo tốt hơn bằng cách gắn lớp cỏ lên trên một cái
cân nhạy và theo dõi sự mất trọng lượng trong ngày. Sự mất nước ở cây cối
được đo bằng thước đo dòng nhựa: một vòng đệm làm nóng bằng điện áp các
xung nhiệt vào thân cây để làm nóng nhựa cây bên trong. Dụng cụ gắn cao trên
thân cây theo dõi nhiệt độ ở đó, cho phép tính ra vận tốc và, do đó, thể tích dòng
nước dâng lên thân cây. Sử dụng những kĩ thuật này, nhiều nghiên cứu do các
nhà lâm học và nông học thực hiện nhận thấy các rừng cây và thảm cỏ có sự
nguội đi do bay hơi là 100–200 W/m2. Nhưng ít có thông tin nào như thế này đối
với thảm cỏ và cây cối ở đô thị - cho nên việc nghiên cứu thực nghiệm là hết sức
cần thiết.
Bức xạ từ Mặt trời
Một lợi ích khí hậu tối hậu của cây xanh là mang lại những ốc đảo mát mẻ
để nghỉ dưỡng. Nhiều nghiên cứu, do đó, đã so sánh nhiệt độ không khí trong
các công viên với nhiệt độ không khí trên đường phố xung quanh, chỉ để nhận ra
rằng, ngoại trừ vào những ngày thật sự lặng gió, sự chênh lệch nhiệt độ là khá
nhỏ - thường chưa tới 1oC, vì không khí ấm từ môi trường xung quanh cứ thổi
vào công viên. Vậy thì tại sao khi ở trong công viên chúng ta cảm thấy mát mẻ
hơn, và bóng cây thật sự có tác dụng gì?
Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta phải xét sự cân bằng nhiệt của một
người. Ở trạng thái nghỉ, cơ thể một người sản sinh ra nhiệt ở tốc độ khỏng
60 W/m2 bề mặt cơ thể của chúng ta. Chúng ta cảm thấy nóng như thế nào là tùy
thuộc vào chỗ chúng ta có thể mất nhiệt làm nóng môi trường xung quanh chúng
ta đều đặn như thế nào. Thật bất ngờ, ngoại trừ trong những cơn gió rất cao,
chúng ta mất rất ít nhiệt bởi sự đối lưu – chỉ khoảng 9 W/m2 – và khoảng
15 W/m2 bởi sự bay hơi từ hơi thở của chúng ta. Tuy nhiên, mọi cá thể đều phát
ra bức xạ hồng ngoại xa ở tốc độ tỉ lệ với lũy thừa bốn của nhiệt độ của chúng,
nhưng chúng cũng hấp thụ bức xạ ấy từ môi trường xung quanh của chúng. Do
đó, nếu môi trường xung quanh chúng ta lạnh hơn 37 oC, thì rốt cuộc chúng ta có
sự mất nhiệt do bức xạ.
Ở ngoài một công viên đầy bóng râm, chúng ta cảm thấy dễ chịu vì chúng
ta bị vây quanh bởi những tán lá mát lạnh. Ở trên một đường phố rộng thênh
thang, trái lại, chúng ta cảm thấy nóng hơn vì hai nguyên do: thứ nhất, chúng ta
nhận thêm tới 120 W/m2 bức xạ sóng ngắn từ Mặt trời đến; thứ hai, nhựa đường
xung quanh cũng nóng hơn, làm giảm sự mất nhiệt do bức xạ khoảng 6
W/m2 đối với mỗi sự tăng nhiệt độ 1 oC. Trong những điều kiện như vậy, chúng
ta phải toát mồ hôi để giải thoát cho gánh nặng nhiệt bổ sung.
Để nghiên cứu tầm quan trọng tương đối của Mặt trời theo bóng râm trên
nhiệt độ của môi trường xung quanh, chúng tôi đã thực hiện một thí nghiệm đơn
giản vào mùa hè năm 2009. Thí nghiệm theo dõi nhiệt độ bức xạ trên cỏ và các
thảm bê tông, chúng hoặc nằm trong bóng nắng vĩnh viễn hoặc nằm trong bóng
cây vĩnh viễn. Chúng tôi thực hiện thí nghiệm với một nhiệt độ cầu, về cơ bản là
một nhiệt kế gắn bên trong một quả cầu plastic màu xám. Giữ ở độ cao 1,1 mét,
thí nghiệm này nhại lại các tính chất nhiệt của một người trưởng thành mặc y
phục. Chúng tôi nhận thấy việc ở trên cỏ hoặc bê tông có ít ảnh hưởng lên nhiệt
độ bức xạ; những điều kiện này bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi bóng râm, chúng
làm giảm nhiệt độ bức xạ cực đại lên tới 9 oC, từ 35oC xuống 26oC. Vì người ta
có xu hướng cảm thấy không thoải mái ở những nhiệt độ bức xạ trên 24 oC, cho
nên rõ ràng là bóng râm có tác dụng lớn lên cảm giác dễ chịu của mọi người, do
đó xác nhận tầm quan trọng của cây xanh ở khu vực đô thị.
Tác động lên chính sách đô thị
Toàn bộ nghiên cứu này là dựng nên một bức tranh mô tả xem chúng ta
có thể cải tạo các đô thị như thế nào: cây cối có tiềm năng lớn nhất cải tiến các
môi trường đô thị, còn những bề mặt nguội, các mái nhà xanh và thậm chí
“những bức tường sống” có thể cải thiện hiệu suất môi trường của từng tòa nhà
một. Ngoài ra, hạ tầng kiến trúc xanh còn có những lợi ích khác thí dụ như làm
giảm sự ngập tràn ánh nắng chói chang và sự ô nhiễm hạt không khí. Tuy vậy,
rõ ràng vẫn có rất nhiều việc phải làm nữa. Chúng ta không biết những loài cây